Luận văn triết học quan niệm về tam tòng tứ đức trong nho giáo và ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ việt nam hiện nay - Pdf 26

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 2
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
TRONG NHO GIÁO 5
1.1 Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo 5
1.1.1 Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo 5
1.1.2 Vị trí của người phụ nữ trong hệ thống triết học Nho giáo 8
1.2 Quan niệm về“Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 12
1.2.1 Nội dung của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo 12
1.2.2 Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ở Việt Nam 16
Chương 2: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC”
ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY 22
2.1 Ảnh hưởng của “Tam tòng” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 22
2.1.1 Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn từ
phong kiến Việt Nam độc lập đến năm 1945 22
2.1.2 Ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng” đối với người phụ nữ giai đoạn từ
năm 1945 đến nay 25
2.2 Ảnh hưởng của “Tứ đức” đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 31
2.2.1 Công 31
2.2.2 Dung 36
2.2.3 Ngôn 40
2.2.4 Hạnh 42
2.3 Phương hướng và một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng người phụ nữ
Việt Nam hiện nay 46
2.3.1 Phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt Nam hiện nay 46
2.3.2 Một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ
nữ Việt Nam hiện nay 49
KẾT LUẬN 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO 56
1

2
gia đình… Và bên cạnh những nét đẹp hiện đại, người phụ nữ cần giữ gìn những nét
đẹp truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam.
Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực nó còn
góp phần làm nên những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Trong giai
đoạn hiện nay, người phụ nữ Việt Nam cần khắc phục tính tiêu cực của quan niệm
“Tam tòng” và tiếp thu vận dụng “Tứ đức” như thế nào để xây dựng hình ảnh người
phụ nữ hiện đại mà không mất đi những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc là một
vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Xuất phát từ những yêu cầu thiết thực đó của thực tiễn và
để góp phần vào mục tiêu xây dựng và phát huy vai trò của người phụ nữ Việt Nam
hiện đại, em chọn đề tài: “Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo và
ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay”
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Vấn đề ảnh hưởng của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo đối
với phụ nữ Việt Nam ở mức độ ít hay nhiều, trực tiếp hay gián tiếp đã được một số tác
giả nghiên cứu từ rất sớm. Chúng ta có thể kể đến một số công trình nghiên cứu với
những góc độ khác nhau của vấn đề này như:
- Trần Trọng Kim (1971) Nho giáo, Nhà Xuất Bản Giáo dục, Hà Nội.
- Vũ Khiêu ( 1991) Nho giáo xưa và nay, Nhà Xuất Bản Khoa học xã hội, Hà
Nội.
- Nguyễn Quang Đạm (1994) Nho giáo xưa và nay, Nhà Xuất Bản Văn học, Hà
Nội.
- Lê Thị Nhâm Tuyết (1975) Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nhà Xuất Bản
Khoa Học Xã Hội.
- Lê Minh (2000) Gia đình và người phụ nữ, Nhà Xuất Bản Lao Động, Hà Nội.
- Trần Quốc Vượng (2001) Truyền thống phụ nữ Việt Nam, Nhà Xuất Bản Văn
hóa, Hà Nội.
- Vũ Khiêu (1996) Bàn về văn hiến Việt Nam, Nhà Xuất Bản Khoa Học Xã hội,
Hà Nội.
- Nguyễn Tất San (2008) Công Dung Ngôn Hạnh xưa và nay, Nhà Xuất Bản Văn

7. KẾT CẤU CỦA KHÓA LUẬN:
Ngoài phần mở đầu, mục lục, tài liệu tham khảo khóa luận gồm 2 chương và 5 tiết.
4
NỘI DUNG
Chương 1: QUAN NIỆM VỀ “TAM TÒNG”, “TỨ ĐỨC” TRONG NHO GIÁO.
1.1. Vấn đề người phụ nữ trong Nho giáo
1.1.1 Một vài nét về sự hình thành và phát triển của Nho giáo
Thời kì lịch sử Cổ - trung đại, Trung Quốc là một trong những trung tâm văn
minh lớn của thế giới. Giai đoạn này Trung Quốc có nhiều phát minh vĩ đại như: chữ
viết, giấy, nghề in, thuốc súng, thiên văn học… Cùng với Ấn Độ và các dân tộc
phương Đông khác, Trung Quốc còn là quê hương của nhiều trường phái triết học lớn.
Ở Trung Quốc, tư tưởng triết học có hệ thống được hình thành vào thời Xuân
Thu, Chiến Quốc, đây là thời đại loạn lạc, đạo đế vương đời trước (nhà Chu) mờ tối,
người đời say đắm về đường công lợi, không ai thiết gì đến nhân nghĩa. Nhưng cũng vì
thế cục biến loạn, dân tình khổ sở mà ở thời đại này tư tưởng được giải phóng, tri thức
được phổ cập, nhiều học giả xuất hiện và trình bày học thuyết của mình với mục đích
sửa đổi chế độ, mong muốn đem lại hạnh phúc, ấm no cho con người. Số học giả ấy
không chỉ có một vài người và số tác phẩm được viết ra không phải chỉ có một vài
cuốn mà con số ấy phải lên tới hàng chục, hàng trăm, cho nên mới gọi thời đại ấy là
thời “Bách gia chư tử”. Theo sách Hán thư, Thiên Nghệ Văn chí thì có 103 học phái
trong đó có 6 học phái chính là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Danh gia, Pháp gia và Âm
Dương gia. Có ảnh hưởng lớn nhất đối với tư tưởng, đời sống tinh thần của người
Trung Quốc lúc bấy giờ là ba học phái: Nho gia, Mặc gia và Đạo gia.
Người sáng lập ra học thuyết Nho gia là Khổng Tử, ông sinh năm 551 trước Công
nguyên, tên là Khâu, tự là Trọng Ni. Ông sinh ra trong một gia đình quan võ của triều
đình nước Lỗ. Thời trẻ, Khổng Tử phải sống trong cảnh gia đình sa sút nên biết nhiều
việc vất vả, nặng nhọc. Theo sử sách còn ghi, thuở nhỏ Khổng Tử hay chơi trò bày đồ
cúng tế, ham học, thích nghiên cứu thi thư lễ nhạc đời trước. Điều này thể hiện bản
tính của Khổng Tử, luôn coi trọng những điều lễ nghĩa. Năm 19 tuổi, ông thành gia
thất và nhận một chức quan nhỏ ở nước Lỗ. Được gia đình dạy bảo chu đáo và đứng

cũng tin có trời nhưng ông cho rằng đạo trời không quan hệ gì đến đạo người và sức
người có thể thắng trời. Tư tưởng triết học của Tuân Tử rõ ràng mang màu sắc của chủ
nghĩa duy vật thô sơ, tạo nên đầu mối cho khuynh hướng duy vật của Nho giáo về sau.
Nho giáo truyền đến đời Chiến Quốc thì gặp phải một thời trung suy, tình thế xã
hội lúc ấy loạn lạc đến cực điểm: phong tục hủ bại, luân thường đổ nát, vua chúa các
nước chỉ chăm lo việc chiến tranh, hết nước này đánh nước kia, việc can qua không
lúc nào ngừng nghỉ.
6
Sau Tuân Tử thì trong Nho giáo chỉ còn một người trứ danh hơn cả là Hàn Phi Tử,
song Hàn Phi Tử lại không phải là người chân Nho nữa, cho nên ta có thể nói Nho
giáo truyền đến đời nhà Tần là gián đoạn. Hàn Phi Tử học theo Tuân Tử dùng lí trí mà
suy luận cho đến tận cùng, tất phải thiên về mặt hình pháp và mặt công dụng, kết quả
là hình thành một chế độ chuyên chế độc tôn. Theo sách Hàn Phi Tử thì biết Nho học
đến cuối đời Chiến Quốc đã suy lắm rồi. Các học giả chỉ giữ cái lối thủ cựu, có việc gì
lại lấy chuyện thánh hiền đời cổ ra mà bài bác chứ không hiểu cái tinh thần của đạo
thánh hiền phải tùy thời mà tiến thủ. Bởi vậy mới gây thành nạn đốt sách chôn Nho ở
đời nhà Tần.
Khi Tần Thủy Hoàng mất, các nước chư hầu nổi lên đánh nhà Tần, trong thời cực
loạn như thế, người trong nước ai cũng mưu sự sinh tồn, việc học thuật bỏ hết cả. Đến
khi nhà Hán dẹp yên mối họa rồi dần dần chấn hưng lại nền văn hóa. Nho giáo từ đó
mới thịnh lên trở lại. Nho giáo từ thời Xuân Thu cho đến đời nhà Tần chỉ là một học
phái trong các học phái, tuy có cái tông chỉ quang minh chính đại nhưng vẫn không có
cái địa vị nhất tôn như đời nhà Hán trở đi. Vì có chế độ phong kiến quân chủ bảo hộ
cho nên Nho giáo mới có thế lực rất mạnh ở đời nhà Hán và mới lan ra khắp trong xã
hội Trung Hoa. Hán Nho có công sưu tập những sách cũ, giải thích các ý nghĩa và sắp
đặt các loại kinh truyện lưu truyền ở đời. Hậu thế nhờ đó mà biết được đạo của thánh
hiền. Song vì Hán Nho thiên về cái học chương cú, huấn hỗ, bỏ mất cái nghĩa lý sâu
xa, thành thử cái tinh thần của Nho giáo lại sai lầm đi nhiều. Những sự sai lầm ấy gây
thành cái lưu tệ rất lớn về sau. Tuy nhiên, Hán Nho đối với văn hóa xã hội Trung Hoa
cổ có công rất lớn là lấy cái học “minh kinh” mà xây đắp thành cái nền văn hóa rất

học. Những danh nho thời kì này đều là các nhà bác học, song không có mấy người
hiểu biết chỗ uyên thâm của Nho giáo như đời nhà Tống và đời nhà Minh. Đến đời
Thanh mạt, Tây học dấy lên, có nhiều người muốn hủy hoại hết tinh thần của Nho giáo
để cho chóng bằng với các nước phương Tây. Nền Tây học tuy làm lu mờ đi tầm cỡ
của Nho giáo nhưng cũng chính nó, bằng sự tiến bộ của mình, đã làm mất đi những cái
hẩm nát, những điều hủ lậu của Nho giáo, để lộ ra những giá trị rực rỡ bội phần. Đó là
điều mà cả thế giới ngày nay phải công nhận.
1.1.2. Vị trí của người phụ nữ trong Nho giáo
Nho giáo là một học thuyết của xã hội phong kiến, đã giữ vai trò thống trị trong
lịch sử tư tưởng Trung Quốc qua nhiều thế kỉ. Vì vậy, những quan điểm, đường lối,
phương pháp, chuẩn mực mà Nho giáo đề ra phục vụ đắc lực cho chính xã hội sinh ra
nó. Nho giáo bàn đến nhiều vấn đề như quan điểm thế giới (đạo, thiên mệnh…), học
8
thuyết về luân lý đạo đức với các tư tưởng căn bản như: nhân, lễ, trí, dũng, … Trong
đó chữ “nhân” được đề cập đến với ý nghĩa sâu rộng nhất, nó được coi là tư tưởng chủ
yếu quy định bản tính con người và những quan hệ giữa con người với con người từ
trong gia tộc đến ngoài xã hội. Bên cạnh đó, Nho giáo còn bàn về quan điểm chính trị -
xã hội với các phạm trù “nhân trị”, “chính danh”, “thượng hiền”… Vấn đề con người
cũng được Nho giáo bàn đến, vì muốn xây dựng thành công và giữ vị trí thống trị một
xã hội thì phải có người điều hành, tổ chức xã hội đó. Điều này khiến cho vấn đề con
người được xã hội phong kiến cũng như Nho giáo rất quan tâm. Vấn đề con người là
vấn đề trung tâm của Nho giáo, nhưng nó không được bàn đến trong tất cả các mặt mà
chỉ chú trọng vào khía cạnh luân lý, đạo đức nhằm mục đích xoa dịu mâu thuẫn giai
cấp và ổn định trật tự xã hội.
Nhìn chung trong Nho giáo, người phụ nữ được đánh giá là một lực lượng cơ bản
để xây dựng xã hội, nhưng họ luôn ở vị trí phụ thuộc vào nam giới. Họ chỉ tồn tại với
tư cách là một yếu tố cần, đủ cho trật tự gia đình, xã hội. Trong Nho giáo, số phận của
người phụ nữ cũng giống như số phận con người nói chung. Theo Khổng Tử, con
người có mệnh và không thể cưỡng lại mệnh; còn Mạnh Tử thì cho rằng, trời đã an bài
địa vị xã hội của con người. Đổng Trọng Thư thì cho rằng: trời là chủ tể của việc

phụ nữ là những kẻ khó dạy “Phụ nhân nan hóa” ngày càng được khắc sâu và được
xây dựng thành những giáo lễ, giáo điều, chuẩn mực bắt buộc người phụ nữ phải thực
hiện theo. Từ đó cả xã hội phong kiến Trung Quốc nói chung luôn đặt người phụ nữ ở
địa vị thấp hèn và phụ thuộc vào người đàn ông.
Xã hội phong kiến Trung Quốc là xã hội nam quyền, phụ nữ chỉ là công cụ, và
phụ thuộc vào nam giới trong gia đình (người cha, người chồng, người con trai (con
trai trưởng)). Điều này được thể hiện qua các từ xưng hô với phụ nữ như “a đầu”, “phu
nhân”, “nội nhân”. “Phu nhân” chẳng qua được hiểu là người của “trượng phu” (tức là
người chồng). Giá trị nhân sinh quan của người phụ nữ chỉ là người giúp chồng trong
việc dạy con, nấu cơm, quét dọn, giặt giũ, hoàn toàn không có tư cách phục vụ quốc
gia và cộng đồng. Phạm vi hoạt động của họ cũng chỉ dừng lại ở trước và sau nhà,
không có quyền được ra ngoài xã hội. Có nghĩa là phụ nữ chỉ có thể cai quản gia sự
nhưng trong việc cai quản gia sự ấy họ phải thuận theo người chồng. Có những câu tục
ngữ như: “ Huynh đệ như thủ túc, thê tử như y phục” hay “Đánh vợ, mắng vợ, hết tiền
bán vợ” [35; tr.40]. Những câu nói này thể hiện sắc thái chủ nghĩa nam quyền, phản
ánh địa vị xã hội bị áp bức, bị ngược đãi của người phụ nữ trong xã hội phong kiến
Trung Quốc.
10
Nho giáo Trung Hoa là triết học nam quyền, tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức” là
thuận theo yêu cầu thống trị của nam giới, đưa tư tưởng “Nam tôn, nữ ti” ăn sâu vào
hệ thống giá trị xã hội, để lại dấu ấn không thể phai mờ. Sự kìm kẹp về lễ giáo thể hiện
trong cả những cử chỉ hành động nhỏ nhất như: “Hành bất động quần, tiếu bất lộ xỉ”
tức là “đi không được rung váy, cười không được lộ răng” [35; tr.41]. Hàng loạt những
yêu cầu, quy tắc cho phụ nữ bao gồm: lời ăn tiếng nói phải phải chuẩn mực, thái độ
phải cung kính lễ phép. Họ coi người phụ nữ là những kẻ ngu muội, không có trí tuệ
và không cần có trí tuệ để làm gì, vì ngoài chuyện tuân phục, chăm sóc chồng con thì
thiên chức của người phụ nữ nào có gì khác nữa. Người đàn ông trong xã hội phong
kiến Trung Quốc cần người phụ nữ ngu muội, vô tri để họ phải nhờ dựa vào sự đa tài,
bác học của người đàn ông. Cho dù người phụ nữ ấy có tài giỏi đến đâu đi nữa thì
cũng phải vờ như không biết, như vậy mới thỏa nguyện được tính tự tôn của người đàn

hội phong kiến.
1.2. Quan niệm về“Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
1.2.1 Nội dung của quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo
Nho giáo đặt ra một loạt những nguyên tắc lễ nghĩa như: “Tam cương”, “Ngũ
thường”, “Tam tòng”, “Tứ đức” để làm chuẩn mực cho mọi người trong xã hội thực
hiện nhằm đạt tới mục đích an sinh xã hội. Trong khi “Tam cương”, “Ngũ thường” là
chuẩn mực đạo đức mà người đàn ông, người quân tử phải theo, thì “Tam tòng”, “Tứ
đức” là cái lẽ đạo đức người phụ nữ dù muốn hay không muốn cũng phải thuận theo.
“Tư tưởng “Tam tòng”, “Tứ đức”được chép trong sách nghi lễ đời Hán mới xuất hiện”
[23; tr.227]
Tam tòng là: - Tại gia tòng phụ
- Xuất giá tòng phu
- Phu tử tòng tử
Có thể hiểu: người phụ nữ khi còn là con gái ở trong nhà phải thuận theo cha; khi
lấy chồng thì phải theo chồng; khi chồng chết thì phải theo con (con trai trưởng).
Tứ đức là: Công – Dung – Ngôn – Hạnh.
- Công là nữ công gia chánh, tề gia nội trợ. Chữ “công” đã bao gồm cả giới hạn và
phạm vi công việc mà người phụ nữ được tham gia đó là công việc gia đình. Người
phụ nữ phải khéo léo, biết làm việc một cách tỉ mỉ, có rèn luyện đến điệu nghệ.
- Dung là vẻ đẹp hình thức, là dung mạo, dáng điệu, nét mặt, cách đi đứng, nói
cười kết hợp với cách lựa chọn trang phục, trang điểm.
- Ngôn là lời ăn tiếng nói, nói năng phải có ý tứ, nhã nhặn, kín đáo, âm thanh của
lời nói phải nhỏ nhẹ, dễ nghe, thể hiện sự lịch sự lễ phép.
12
- Hạnh là hạnh kiểm, đức hạnh, phẩm giá, là sự nết na, hành vi theo mực thước của
người phụ nữ, lòng nhân ái, sự tuân theo những lễ giáo, hiếu đễ với cha mẹ, giữ trọn
trinh tiết với chồng.
Thời đại của Khổng Tử là thời đại mà “bá đạo” (đạo của các nước chư hầu) lấn át
“vương đạo” (đạo của nhà Chu), trật tự lễ nghĩa của nhà chu bị đảo lộn. Trước tình
hình đó, đứng trên lập trường của bộ phận cấp tiến trong tầng lớp quý tộc cũ, Khổng

Xuất phát từ cơ sở xã hội với tư tưởng coi trọng huyết thống và từ thái độ coi
khinh phụ nữ khi xếp đàn bà và tiểu nhân cùng thuộc vào một hạng người khó nuôi
dạy, thì người phụ nữ chỉ biết sống ngoan ngoãn bên cạnh chồng, không có số phận
nào khác. Nếu như người đàn ông có “năm thê bảy thiếp” thì người đàn bà không thể
có hai chồng được ví như kẻ trung thần không được thờ hai vua “trung thần bất sư nhị
quân, liệt nữ bất giá nhị phu” [18; tr.269]. Nếu chẳng may người chồng mất đi thì
người phụ nữ phải ở vậy nuôi con, nếu không như vậy sẽ bị coi là thất tiết, và bị xã hội
khinh rẻ. Như vậy, theo đạo “Tam tòng” người phụ nữ trong suốt cuộc đời mình phải
phụ thuộc vào những người đàn ông đó là người cha, người chồng, người con (con trai
trưởng).
“Tứ đức” là những khuôn mẫu để từ đó người phụ nữ rèn luyện bản thân vào
khuôn phép, tự biết kiềm chế, tước bỏ mọi ham muốn cá nhân, chịu thuần dưỡng để
vâng lời, để nhường nhịn, để kiên nhẫn chịu chịu đựng và hi sinh vô điều kiện. Trong
bốn đức nêu trên, Khổng Tử đặc biệt nhấn mạnh đức “hạnh”. Theo ông, người phụ nữ
đạt đến đức hạnh điều căn bản là phải có tấm lòng “hiếu” nhưng phải dựa trên cơ sở
“ái”, “kính”. Người có hiếu trước hết phải là người chăm sóc cha mẹ, chăm sóc nhưng
phải “kính”, không “kính” là bất hiếu. Trong đạo hiếu, Khổng Tử nhấn mạnh hai điều
“vô vi”, “vô cải”. Vô vi là cách đối nhân xử thế với cha mẹ trong hoàn cảnh bình
thường, thờ cha mẹ không trái lễ. Vô cải là cách đối xử với cha mẹ trong cảnh biến,
không thay lòng đổi dạ. Với hai điều này, Khổng Tử muốn nhấn mạnh đến chữ “tòng”
đối với cha mẹ của người con nói chung và của người phụ nữ nói riêng.
Từ thời Mạnh Tử trở đi Nho giáo tồn tại ngang với Lão giáo, Mặc giáo, cuối thời
Chiến Quốc, Nho giáo có phần suy tàn. Đến cuối đời Tây Hán, Nho giáo dần dần thịnh
và chiếm vị trí độc tôn. Hán Nho có công sưu tầm những kinh sách cũ, giải thích các ý
nghĩa và sắp đặt ra các kinh truyện lưu truyền ở đời. Nhưng Hán Nho lại thiên về cái
học chương cú huấn hỗ, bỏ mất cái nghĩa lý sâu xa, thành thử tinh thần ban đầu của
Nho giáo đã bị sai lệch đi rất nhiều.
Một đại biểu tiêu biểu của Hán Nho là Đổng Trọng Thư (180 – 105 trước Công
nguyên), dưới danh nghĩa là tiếp thu tư tưởng của Nho giáo nhưng trên thực tế Đổng
14

một chiều, sự chung thủy của họ với người đàn ông. Còn phạm trù “Tứ đức” lại chú
trọng và sự tu dưỡng của chính bản thân người phụ nữ. Tu dưỡng công, dung, ngôn,
15
hạnh để đạt được “Tam tòng”, đó chính là điều kiện cần có để thực hiện tốt đạo tòng
cha, tòng chồng và tòng con. Ngược lại, “Tam tòng” lại là minh chứng cho “Tứ đức”,
cho phẩm hạnh của người phụ nữ. Trong bản thân phạm trù “Tứ đức”, các yếu tố cũng
có mối quan hệ với nhau; đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức. “Hạnh” là nội
dung, “công, dung, ngôn” là hình thức. Một người phụ nữ biết học hỏi chăm chỉ để
làm việc, biết sửa soạn cho nhan sắc gọn gàng, thanh lịch, biết nói ra những lời lẽ tao
nhã, ý nghĩa, đó chính là những điều kiện để cho đức “hạnh” của người ấy được vẹn
toàn. Cả bốn yếu tố của “Tứ đức” bổ sung cho nhau và được thể hiện thông qua nhau.
Khi hiểu được mối quan hệ giữa các phạm trù, cũng như mối quan hệ của các yếu
tố trong một phạm trù, chúng ta sẽ có được thái độ khách quan, biện chứng khi xem
xét ảnh hưởng của chúng đối với người phụ nữ Việt Nam.
1.2.2 Quan niệm về “Tam tòng”, “Tứ đức” trong Nho giáo ở Việt Nam.
Nho giáo có vị trí quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Đạo Nho được
truyền bá vào Việt Nam không phải bằng con đường giao lưu văn hóa, cũng không
phải bằng con đường di cư của người bản xứ mà bằng con đường xâm lược của phong
kiến phương Bắc vào thế kỉ thứ II sau Công nguyên, tức là ngay từ thời Tây Hán. Việc
hai thái thú Tích Quang và Nhâm Biên dựng học hiệu để dạy lễ nghĩa ở Giao Chỉ đã
đánh dấu sự du nhập của Nho giáo vào Việt Nam. Nho giáo du nhập vào Việt Nam
thời Bắc thuộc không còn là Nho giáo của thời nguyên sơ mà là Nho giáo đã được Hán
Nho, trước nhất là Đổng Trọng Thư cải tạo cho thích hợp với chế độ phong kiến trung
ương tập quyền. Nho giáo thời kì đó vừa phục vụ cho trật tự của bộ máy quan liêu, vừa
được thần học hóa để kết hợp với Đạo giáo và dễ lợi dụng yếu tố mê tín của nhân dân.
Nho giáo lúc này là công cụ của bọn xâm lược mang theo nhằm mục đích đồng hóa,
thống trị lâu dài dân tộc ta. Sự áp đặt này mâu thuẫn gay gắt với thế giới quan chất
phác, với truyền thống cộng đồng và ý thức độc lập tự chủ của người Việt Nam. Vì
vậy bên cạnh việc chống áp bức bóc lột của bọn xâm lược, người Việt còn phải chịu sự
thống trị về mặt tư tưởng. Nhìn tổng thể thì trong hơn một nghìn năm Bắc thuộc, mặc

nước phong kiến triều Lê sơ thì chế độ phong kiến Việt Nam đã đi vào giai đoạn phát
triển cao nhất. Nho giáo chiếm địa vị độc tôn trong thượng tầng kiến trúc phong kiến.
Trên cơ sở thuyết chính danh và đạo “nhân” của Nho giáo, nhà nước phong kiến đời
Lê sơ đã ra sức ổn định và củng cố các quan hệ phong kiến với những thứ bậc, tôn ti
chặt chẽ. Đặc biệt ở đời vua Lê thánh Tông, đạo Nho đã đạt đến điểm cực thịnh.
Những tư tưởng của Nho giáo thời kì này vừa mang sắc thái của đạo Nho, vừa thấm
nhuần chủ nghĩa yêu nước, đây là nét đặc sắc trong truyền thống tư tưởng của dân tộc
Việt Nam.
17
Từ thế kỉ XVI trở đi, xã hội Việt Nam có nhiều biến động, Nho giáo từ đó cũng
bộc lộ những yếu kém và tiêu cực. Trước sự bất lực của Nho giáo trong việc lãnh đạo
đất nước, nhà nước phong kiến Việt Nam đã viện đến Phật giáo, Đạo giáo, tạo nên cái
thế “Tam giáo đồng nguyên” như là một sự bổ trợ cho sự phát triển của Nho giáo.
Sang thế kỉ XIX, Nguyễn Ánh lật đổ chính quyền Tây Sơn lập nên triều Nguyễn, đây
cũng là thời kì chiến tranh liên miên, kinh tế trì trệ, đời sống nhân dân cực khổ. Để duy
trì bộ máy thống trị phong kiến, nhà Nguyễn đã chủ trương độc tôn Nho giáo, coi Nho
giáo là một công cụ đắc lực trong việc cai trị. Nhưng lúc bấy giờ Phật giáo và Đạo
giáo đang phát triển rất mạnh, cộng thêm sự thâm nhập ngày càng mạnh mẽ của Thiên
Chúa giáo đã làm cho ý định này không thể thực hiện được. Thực dân Pháp xâm lược
nước ta và thiết lập nền thống trị của chúng, Nho giáo bị gạt sang một bên với dấu mốc
là việc chấm dứt thi cử từ năm 1917. Nhưng sau đó, thực dân Pháp lại tiếp tục sử dụng
Nho giáo nhằm ràng buộc nhân dân ta bằng trật tự và lễ giáo phong kiến.
Nho giáo đã đi cùng với lịch sử nước ta trên một chặng đường dài, trên chặng
đường ấy, Nho giáo đã để lại những ảnh hưởng rất sâu đậm đến tư tưởng của dân tộc
Việt Nam. Điều đáng chú ý là ở Việt Nam trong suốt thời kì phong kiến, mặc dù Nho
giáo chiếm một vị trí quan trọng, có khi là vị trí độc tôn trong đời sống tinh thần, tư
tưởng nhưng chưa bao giờ Nho giáo là rập khuôn, thuần túy như trên quê hương đã
sản sinh ra nó, mà nó mang đậm màu sắc Việt Nam.
Để giữ vững vị tri thống trị của mình, vấn đề đầu tiên mà nhà nước phong kiến đặt
ra là xây dựng con người phục vụ cho xã hội phong kiến Việt Nam độc lập. Để làm

hội phong kiến Trung Quốc, việc thực thi quan niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” trong xã
hội Việt Nam vẫn có những điều khác biệt.
Một là, do tác dụng của người phụ nữ Việt Nam không chỉ đóng khung trong nội
bộ gia đình. Họ có thể tham gia một số hoạt động kinh tế xã hội và sản xuất kinh
doanh như: mở hiệu buôn, mở hàng ăn, làm xưởng gia công … Việc chợ búa, buôn
bán phần nhiều do phụ nữ đảm nhiệm nên kinh tế gia đình phần nhiều do phụ nữ quản
lý. Trong sản xuất nông nghiệp lại càng không thể thiếu phụ nữ. Có thể thấy phụ nữ
Việt Nam không đứng ngoài hoạt động xã hội.
Hai là, trong gia đình, người phụ nữ Việt Nam không phải mọi việc đều nghe lời
nam giới. Trái lại họ có quyền có tiếng nói trong công việc gia đình; đối với những
công việc trọng đại, cả vợ lẫn chồng đều cùng nhau bàn bạc. Tục ngữ Việt Nam có
câu: “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.
Ba là, trong việc hôn nhân, người phụ nữ Việt Nam có chút bình đẳng hơn so với
người phụ nữ Trung Quốc. Hay trong việc thừa kế, quyền lợi của người phụ nữ Việt
19
Nam cũng được bảo vệ. Trong Bộ luật Hồng Đức có những điều luật cụ thể quy định
rõ ràng quyền lợi và nghĩa vụ của người phụ nữ.
Ngoài ra, trong xã hội phong kiến Việt Nam, phụ nữ thuộc tầng lớp xã hội nào
chịu ảnh hưởng tư tưởng Nho gia càng lớn thì thì sự trói buộc của lễ giáo phong kiến
mà cụ thể là quan niệm “Tam tòng”, “Tứ đức” đối với họ càng nặng nề, như trong các
gia đình hoàng tộc, quan lại, nho sĩ. Còn người phụ nữ trong các gia đình bình dân do
chịu ảnh hưởng tu tưởng Nho gia tương đối ít, nên sự trói buộc của lễ giáo phong kiến
đối với họ cũng tương đối ít.
Hơn nữa, bản thân người phụ nữ Việt Nam từ xưa đã thực hiện rất tốt những yêu
cầu trong nội dung của “Tam tòng”, “Tứ đức” nên việc tiếp thu cũng trở nên nhanh
chóng, còn việc thực hiện thì thiên về tính tự nguyện nhiều hơn. Với truyền thống tôn
trọng người phụ nữ có từ lâu đời thì nội dung của “Tam tòng”, “Tứ đức” khi đi vào
thực hiện trong xã hội Việt Nam đã bớt phần khắt khe hơn.
Tuy nhiên, ta cũng không thể không kể đến những hệ lụy mà Nho giáo để lại sau
hàng nghìn năm phong kiến Trung Quốc đô hộ nước ta. Đó là việc nảy sinh ra các

dung của Nho giáo để từng bước ổn định trật tự xã hôi, phục vụ cho công cuộc thống
trị của mình đối với xã hội. Chủ trương duy trì đạo “Tam tòng” đối với người phụ nữ
là để duy trì quyền lực của người đàn ông, đảm bảo tôn ti trật tự từ trong gia đình ra
ngoài xã hội.
Người con gái khi chưa lấy chồng, khi còn được ở nhà với cha mẹ thì phải nghe
lời cha mẹ. Trong chuyện hôn nhân, nhân dân ta vốn có truyền thống lành mạnh “trai
khôn tìm vợ, gái lớn gả chồng”. Tuy nhiên, từ khi lễ giáo Nho học thâm nhập vào cuộc
sống của nhân dân, với tư tưởng “nam nữ thụ thụ bất thân” người phụ nữ không có
quyền tự do yêu đương, lựa chọn bạn đời mà phải phụ thuộc vào sự quyết định của cha
mẹ, thế nên mới xảy ra những cảnh ngang trái:
“Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ gả ép làm dâu nhà người
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay”
Khác với lễ giáo phong kiến, quan hệ vợ chồng ở Việt Nam trước kia là quan hệ
bình đẳng “Thuận vợ thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”, họ là những người bạn
chiến đấu đồng tâm đồng ý với nhau, họ là những người hợp tác với nhau trong sản
xuất:
“Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa”
22
Dưới ách thống trị hàng nghìn năm của chế độ phong kiến, lễ giáo phong kiến
cũng có những tác động vào suy nghĩ của nhân dân ta, địa vị của người phụ nữ cũng vì
thế mà dần dần bị hạ thấp. Người phụ nữ phải chịu rất nhiều đau khổ. Nhưng họ vẫn là
những người vợ thủy chung, hình tượng “hòn vọng phu” và câu chuyện về nó là một
minh chứng cụ thể nhất.
Từ khi Việt Nam trở thành một nước độc lập, các triều đình phong kiến Việt Nam
đã từng bước đưa Nho giáo vào làm hệ tư tưởng chính thống để cai trị đất nước. Quan
niệm về “Tam tòng” được coi là lý tưởng sống của những người phụ nữ trong xã hội
phong kiến. Cả cuộc đời họ phải sống phụ thuộc vào người đàn ông, đây cũng chính là

trước và sau triều Lê.
Trong quyền thừa kế tài sản, con gái cũng có phần như con trai. Điều 388 của luật
Hồng Đức viết: cha mẹ mất cả, có ruộng đất, chưa kịp để lại chúc thư mà anh chị em
tự chia nhau thì lấy 1/20 số ruộng đất là hương hỏa, giao cho người con trai trưởng
giữ, còn lại thì chia nhau. Còn điều 373 – 374 quy định: người phụ nữ có quyền sở hữu
về tài sản, gặp trường hợp phải phân chia tài sản giữa vợ và chồng thì luật pháp công
nhận cho người phụ nữ có quyền sở hữu với tài sản riêng của mình do cha mẹ cho khi
đi lấy chồng và có quyền hưởng thụ bình đẳng, chia đôi với tài sản do hai vợ chồng
chung sức gây dựng nên. [26; tr.139]. Ở điều 310 quy định: ngay cả khi người vợ
phạm vào tội “thất xuất”, người chồng cũng không thể bỏ vợ khi ở trong một trong ba
trường hợp sau: người vợ đã để tang nhà chồng ba năm, khi lấy nhau nghèo mà bây
giờ giàu có, khi lấy nhau vợ còn họ hàng mà khi bỏ nhau lại không có bà con để trở
về. [26; tr.123]
Như vậy, bộ Luật Hồng Đức đã có những điều luật hết sức tiến bộ để bảo vệ
quyền lợi của người phụ nữ trong phạm vi của “Tam tòng”, điều này thể hiện sự áp
dụng có sáng tạo, đổi mới lễ giáo phong kiến của Trung Quốc vào nước ta.
Trong bộ Luật Gia Long của triều đình nhà Nguyễn cũng có một số điều quy định
phần nào chú ý đến quyền lợi và thân phận của người phụ nữ. Luật Gia Long nghiêm
cấm và có những hình phạt đối với những hành vi lừa gạt để kết hôn. Quyển 7 Hộ luật
hôn nhân điều 12 Cưỡng chiếm lương gia thê nữ viết rằng : cưỡng đoạt vợ, con gái nhà
lành bán cho vương phủ, cho nhà huân công hào thích thì đều bị xử giam chờ thắt cổ.
Hay điều 15 Xuất thê viết rằng: nếu chồng bỏ vợ đi biệt ba năm, trong thời gian ấy
không báo quan biết rồi bỏ đi thì phạt 80 trượng, tự ý cải giá thì phạt 100 trượng [15;
tr.56].
Quan niệm về “Tam tòng” và việc thực thi nó trong thực tế xã hội phong kiến đã
cho thấy chế độ phục tùng được nhà nước phong kiến ra sức củng cố bằng pháp luật,
24
luân lý, dư luận xã hội. Cái thòng lọng gia trưởng, phụ quyền đó ngày càng được thắt
chặt đối với người phụ nữ, làm cho họ trở thành những người bị áp bức nhất trong
những người bị áp bức. Các triều đại phong kiến của Việt Nam một mặt đưa ra những

Trích đoạn Phương hướng xây dựng người phụ nữ Việt Nam hiện nay Một số giải pháp cơ bản trong việc xây dựng và phát huy vai trò của người phụ
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status