TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA Ở VIỆT NAM - Pdf 26

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng, Nhà nước ta đặt mục tiêu “Phát triển mạnh mẽ khoa học và công nghệ, làm cho khoa học và
công nghệ thực sự là động lực quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức,
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế; bảo vệ môi trường, bảo đảm
quốc phòng, an ninh, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 và
là nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào giữa thế kỷ XXI” [1].
Quan điểm phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 cũng khẳng định vai trò quan
trọng của khoa học và công nghệ đối với lực lượng sản xuất “khoa học và công nghệ phải đóng vai trò chủ
đạo để tạo được bước phát triển đột phá về lực lượng sản xuất, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao
năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” [18].
Chính phủ ban hành Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của ngày 30/6/2009 về trợ giúp phát triển
DNNVV trong đó có các cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ phát triển DNNVV trong các lĩnh vực: tài chính,
tín dụng; đổi mới, nâng cao năng lực công nghệ, trình độ kỹ thuật; phát triển nguồn lực; mặt bằng sản xuất
kinh doanh; xúc tiến mở rộng thị trường. Đặc biệt, ngày 10/5/2011, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành
Quyết định số 677/QĐ-TTg về việc phê duyệt chương trình ĐMCN quốc gia đến năm 2020, trong đó mục
tiêu của chương trình đến năm 2015 là số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung bình 10% và
đến năm 2020 số lượng doanh nghiệp thực hiện ĐMCN tăng trung bình 15%, trong đó có 5% doanh
nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Các bộ, ngành, địa phương, tổ chức hiệp hội cũng như cộng đồng các nhà
tài trợ quốc tế cũng đã xây dựng và thực hiện nhiều chương trình, dự án trợ giúp phát triển DNNVV trong
các lĩnh vực tài chính, xúc tiến mở rộng thị trường, phát triển nguồn nhân lực. Điều đó chứng tỏ ĐMCN
đang là vấn đề được thực tiễn quan tâm.
Vì những lý do trên, luận văn đã lựa chọn nghiên cứu về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ đối
với DNNVV ở Việt Nam nhằm đóng góp phần nhỏ vào việc nghiên cứu; đề xuất, kiến nghị, giải pháp chính
sách về đổi mới công nghệ cho DNNVV.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số bài báo, chuyên đề, đề tài nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới chính sách hỗ trợ đổi
mới công nghệ cho các doanh nghiệp Việt Nam như:
- Bài báo “Về chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ” [17] của TS
Nguyễn Văn Thu đăng trên Tạp chí hoạt động khoa học và công nghệ năm 2007. Trong bài này, tác giả đã
nêu khái quát những yếu tố cản trở đối với quá trình đổi mới công nghệ, các hình thức hỗ trợ DNNVV, một

trình nghiên cứu cụ thể nào xem xét chính sách này trong mối quan hệ tổng thể với các chính sách khác theo
góc độ của chuyên ngành quản lý kinh tế.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có những mục đích nghiên cứu sau đây: (i) tập hợp và xem xét nhóm chính sách hỗ trợ
ĐMCN theo những tiêu chí được xây dựng; (ii) phân tích thực trạng ĐMCN cho DNNVV, đánh giá những
hạn chế, bất cập của chính sách hỗ trợ ĐMCN; (iii) kiến nghị điều chỉnh, hoàn thiện chính sách ĐMCN cho
DNNVV.
Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Thứ nhất, tìm hiểu, nghiên cứu các đề tài công trình nghiên cứu liên quan tới chính sách hỗ trợ
ĐMCN cho doanh nghiệp.
- Thứ hai, hệ thống hóa cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV. Rút ra những bài
học từ kinh nghiệm quốc tế cho Việt Nam.
- Thứ ba, phân tích thực trạng ĐMCN của các DNNVV, từ đó chỉ ra những thành tựu, những nhược
điểm và nguyên nhân hạn chế hoạt động ĐMCN của DNNVV. Đánh giá các chính sách hỗ trợ ĐMCN.
- Thứ tư, đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Về đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các chính sách hỗ trợ ĐMCN và hoạt động ĐMCN của
DNNVV.
4.2 Về phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là toàn bộ các DNNVV trên lãnh thổ Việt Nam và những chính
sách có hiệu lực thi hành.
2
5. Phương pháp nghiên cứu
Tập hợp các chính sách hỗ trợ hỗ trợ DNNVV nói riêng đang có hiệu lực thi hành; xem xét, đánh
giá các chính sách theo phạm vi riêng lẻ và tổng thể, áp dụng các phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận với thực tiễn; phân tích chính sách. Kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và các số
liệu thu thập thứ cấp.
Nguồn thông tin, dữ liệu được lấy từ nhiều nguồn như từ các khảo sát, báo cáo về doanh nghiệp nhỏ
và vừa, bài nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế, thông tin trên Internet, số liệu của Bộ Khoa học và Công

NHỎ VÀ VỪA
1.1 Công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1 Khái niệm công nghệ và đổi mới công nghệ
1.1.1.1 Khái niệm về công nghệ
Thuật ngữ công nghệ hiện đang được sử dụng rộng rãi trên thế giới, tuy nhiên việc đưa ra định
nghĩa công nghệ lại chưa có sự thống nhất. Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam có đến sáu khái niệm về
công nghệ
Luật Khoa học và công nghệ (ban hành năm 2000 và luật sửa đổi năm 2013) giải thích “công nghệ
là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn
lực thành sản phẩm”. Khái niệm này gần với định nghĩa của ESCAP và phù hợp với các nước đang phát
triển và được sử dụng trong luận văn làm cơ sở phân tích về chính sách ĐMCN.
1.1.1.2 Khái niệm về đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ cũng là một khái niệm còn nhiều tranh luận, trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật của Việt Nam cũng chưa có định nghĩa về ĐMCN. Trên thế giới, các nước OECD quan niệm
ĐMCN là việc tạo ra sản phẩm hoặc quy trình sản xuất mới hoặc có những cải tiến đáng kể về sản phẩm
hay quy trình sản xuất, ĐMCN diễn ra khi đưa ra thị trường sản phẩm mới (đổi mới sản phẩm) hoặc công
nghệ mới được sử dụng trong quá trình sản xuất (đổi mới quy trình). ĐMCN gồm nhiều hoạt động khác
nhau như hoạt động khoa học, công nghệ, tổ chức, tài chính và thương mại, qua đó một doanh nghiệp được
coi là ĐMCN nếu doanh nghiệp đó sản xuất ra sản phẩm mới hoặc có quy trình sản xuất mới hoặc có những
cải tiến đáng kể về sản phẩm hay quy trình sản xuất trong thời kỳ xem xét [26]. Quan niệm này có nội hàm
rất rộng, chưa phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay do năng lực công nghệ của các
doanh nghiệp đặc biệt là DNNVV còn rất hạn chế.
Quan điểm của luận văn về ĐMCN bao gồm: (i) việc thay đổi toàn bộ hoặc một phần dây chuyền
máy móc thiết bị; (ii) đổi mới quy trình và sản phẩm để đưa sản phẩm ra thị trường.
1.1.2 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đến sự phát triển kinh tế - xã hội và doanh
nghiệp nhỏ và vừa
1.1.2.1 Vai trò của công nghệ và đổi mới công nghệ đên sự phát triển kinh tế xã hội
Mô hình tăng trưởng kinh tế theo cách gia tăng đầu vào sản xuất – nhân tố lao động và vốn – sẽ đẩy
nhanh tăng trưởng kinh tế, nhưng với tốc độ giảm dần. Do đó, để tăng trưởng bền vững đòi hỏi phải đầu tư
vào tiến bộ công nghệ, nghĩa là cách thức hàng hóa và dịch vụ được tạo ra, phương pháp cũng như quy

Lan tỏa theo chiều
dọc: liên kết xuôi
Doanh nghiệp tại Việt Nam là khách hàng Công nghệ được chuyển giao từ
những nhà cung cấp là các doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho
các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Lan tỏa theo chiều
dọc: liên kết ngược
Doanh nghiệp tại Việt Nam là nhà cung cấp Công nghệ được chuyển giao từ
những khách hàng là các doanh nghiệp quốc tế hay doanh nghiệp FDI cho các
doanh nghiệp tại Việt Nam
Lan tỏa theo chiều
ngang: cạnh tranh
Doanh nghiệp tại Việt Nam là một đối thủ cạnh tranh
Công nghệ được chuyển giao từ doanh nghiệp nước ngoài/ đối thủ cạnh tranh
trong nước có vốn đầu tư nước ngoài cho các doanh nghiệp tại Việt Nam.
Nguồn: Báo cáo “Năng lực cạnh tranh và công nghệ ở cấp độ doanh nghiệp (DN) tại Việt Nam:
Kết quả điều tra năm 2012”
1.1.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa với đổi mới công nghệ
Để xác định quy mô doanh nghiệp, nhìn chung các quốc gia căn cứ vào các tiêu chuẩn khác nhau
như số lao động, vốn sản xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng. Doanh nghiệp nhỏ và vừa hay SMEs
(Small and Medium Enterprises) là những doanh nghiệp có số lao động hay doanh số ở dưới một mức giới
hạn nào đó.
Tại Việt Nam, Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở kinh doanh đã đăng ký kinh doanh theo quy định
pháp luật, được chia thành ba cấp: siêu nhỏ, nhỏ, vừa theo quy mô tổng nguồn vốn (tổng nguồn vốn tương
đương tổng tài sản được xác định trong bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp) hoặc số lao động bình quân
năm (tổng nguồn vốn là tiêu chí ưu tiên)[4].
Bảng 1.3: Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nguồn: Nghị định số 56/2009/NĐ-CP
Do những yếu kém nội tại của DNNVV, sự phát triển của DNNVV và hoạt động đổi mới công nghệ
ở DNNVV không thực hiện một cách tự phát mà thiếu tác động của Nhà nước, bởi lẽ tác động của chính

đời sống xã hội, hiểu quan điểm phổ biến này, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể
khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại; còn chính sách kinh tế - xã hội là
tổng thể các quan điểm, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế
- xã hội nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế - xã hội lặp đi lặp lại, thực hiện những mục tiêu nhất định
theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
Về phía Nhà nước, chính sách xác định những chỉ dẫn chung cho quá trình ra quyết định; đặt ra
phạm vi hay giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở những nhà quản lý quyết định nào là có thể
và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi
thành viên trong bộ máy nhà nước vào việc thực hiện các mục tiêu chung.
Thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới khoa học và công nghệ, Luật Khoa học và
công nghệ nêu vấn đề cơ bản của chính sách đổi mới công nghệ là “khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi
để doanh nghiệp đầu tư cho hoạt động khoa học và công nghệ, đổi mới, nâng cao trình độ công nghệ”
(Khoản 6 Điều 6 Luật Khoa học và công nghệ 2000). Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ là tổng thể các
quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà Nhà nước sử dụng để nhằm khuyến khích, thúc đẩy sự
đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp, góp phần phát huy và nâng cao hiệu quả cho hệ thống các doanh
7
nghiệp này, nhằm phục vụ tốt nhất cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
1.2.2 Mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN
Theo quan điểm của Nhà nước, mục tiêu chính sách hỗ trợ ĐMCN bao gồm:
- Nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, qua đó nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc
gia.
- Đạt được hiệu ứng lan tỏa qua việc cải tiến, ĐMCN của một doanh nghiệp, cộng đồng doanh
nghiệp sẽ tăng đầu tư ĐMCN qua đó xã hội thu được lợi ích, nâng cao dân trí, giảm ô nhiễm môi trường.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thể hiện qua việc nâng cao chất lượng sản phẩm,
giảm chi phí, giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động.
- Nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp bao gồm năng lực vận hành, tiếp nhận và làm chủ
công nghệ, năng lực hỗ trợ tiếp nhận công nghệ, khả năng cải tiến, sao chép công nghệ nhập và sáng tạo ra
sản phẩm/quy trình mới.
- Mục tiêu về quản lý nhà nước bao gồm: (i) nâng cao nhận thức của doanh nghiệp về ĐMCN; (ii)
gia tăng số lượng doanh nghiệp ĐMCN; (iii) nâng cao mức đầu tư của doanh nghiệp cho hoạt động ĐMCN.

nghệ cao, ươm tạo doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc danh
mục công nghệ cao được ưu tiên phát triển theo quy định của pháp luật về công nghệ cao được hưởng ưu đãi
ở mức cao nhất theo quy định của pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
1.1.6.3 Chính sách tín dụng khuyến khích ĐMCN
Nhà nước thường sử dụng hai loại tín dụng nhằm hỗ trợ ĐMCN cho DNNVV gồm tín dụng thương
mại của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác; tín dụng ưu đãi của Quỹ ĐMCN quốc gia và Quỹ phát triển
KH&CN.
Tín dụng thương mại của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác: Đây là hình thức tín dụng đáp
ứng nhanh các yêu cầu về vốn để doanh nghiệp đầu tư cho việc nâng cấp máy móc, trang thiết bị để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, để được hưởng ưu đãi, DNNVV phải đáp ứng các điều kiện theo
thông lệ của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng.
Tín dụng ưu đãi của các Quỹ cấp quốc gia, cấp bộ, cấp tỉnh, thành phố theo Điều 57 Luật Khoa học
và công nghệ năm 2013 quy định về ưu đãi doanh nghiệp vay vốn để khuyến khích doanh nghiệp ứng dụng
kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ.
Doanh nghiệp cũng được lập Quỹ phát triển KH&CN để chủ động đầu tư cho KH&CN theo yêu cầu
phát triển của doanh nghiệp. Nguồn vốn của Quỹnày được hình thành từ lợi nhuận trước thuế của doanh
nghiệp và các nguồn khác nếu có. Người môi giới cho việc ứng dụng kết quả KH&CN được tạo ra bằng
ngân sách nhà nước được hưởng tối đa 10% giá thanh toán CGCN, mức cụ thể và trách nhiệm thanh toán
khoản kinh phí này do các bên thoả thuận.
Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia được thành lập theo Quyết định số1342/QĐ-TTg ngày 5 tháng 8
năm 2011 của Thủ tướng Chính phủ cho phép doanh nghiệp tiếp cận có điều kiện tín dụng ưu đãi với một số
cơ chế bảo lãnh đặc biệt nhằm cấp vốn để doanh nghiệp nâng cấp trang thiết bị sản xuất.
1.1.6.4 Chính sách phát triển thị trường công nghệ
Đề án phát triển thị trường công nghệ ban hành theo Quyết định 214/2005/QĐ-TTg và các giải pháp
chính sách liên quan đã tạo lập cơ sở pháp lý quan trọng cho các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động nhập
công nghệ vào Việt Nam.
1.1.6.5 Các chính sách hỗ trợ trực tiếp
Bên cạnh những chính sách hỗ trợ gián tiếp nêu trên, Chính phủ và các Bộ, ngành còn áp dụng các
biện pháp hỗ trợ trực tiếp, có khả năng phát huy tác dụng nhanh đối với DNNVV. Cụ thể, qua các chương
trình, đề án hỗ trợ như:

rất khó xác định vấn đề chính sách đã được giải quyết đến đâu. Mặt khác khi xem xét tính hiệu lực của
chính sách, chúng ta không biết những gì sẽ xảy ra nếu chính sách không được ban hành (giả thiết ngược).
Cả hai tiêu chí trên hiện nay đều thu được sự đồng thuận của những người đánh giá chính sách quốc
tế, gộp thành tiêu chí ảnh hưởng (impact) và tiêu chí tương quan (relevance), từ đó hình thành khái niệm,
phương pháp đánh giá ảnh hưởng của chính sách (Impact Assessment).
- Tính bền vững, ổn định của chính sách, tiêu chí này phản ánh hiệu lực, hiệu quả của chính sách
được duy trì trong thời kỳ, giai đoạn mà chính sách được thực hiện.
- Ngoài ra, ở Việt Nam còn xem xét chính sách theo các tiêu chí kỹ thuật, quy trình ban hành chính
sách, tiêu chí này đánh giá: (i) về sự cần thiết ban hành chính sách; (ii) tiêu chí về sự phù hợp của nội dung
chính sách dự kiến ban hành với đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng; (iii) đánh giá tính khả thi của
chính sách, xem xét sự phù hợp giữa chính sách với điều kiện kinh tế - xã hội; có cơ chế bảo đảm thực thi
chính sách theo hướng xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục thực hiện.
1.3 Một số kinh nghiệm, bài học quốc tế về hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
Kinh nghiệm của các nước cho thấy các nước phát triển, đại diện là Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, có những
thành tựu lớn về kinh tế, xã hội đều có mức đầu tư cho đổi mới công nghệ trên 3% GDP. Các nước đang phát
triển, đại diện là Trung Quốc cũng đầu tư cho cho khoa học và công nghệ với tỷ lệ trên 2%. Trong đó, tỷ lệ
doanh nghiệp đầu tư cho đổi mới công nghệ sẽ đóng vai trò chính, quan trọng trong việc phát triển khoa học
và công nghệ quốc gia.
Sau đây là nội dung cơ bản về chính sách hỗ trợ đối với các DNNVV đổi mới công nghệ đã được áp
dụng với các nước trên trong thời gian qua:
- Về pháp lý đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa:
10
Một số nước đã ban hành đạo luật riêng về DNNVV, trong đó chỉ quy định những vấn đề riêng có
liên quan trực tiếp đến DNNVV, như xác định quy mô nào là DNNVV, đường lối chính sách chủ yếu đối với
DNNVV.
- Về chính sách khuyến khích việc thành lập các DNNVV sử dụng công nghệ:
Xây dựng các khu công nghiệp tập trung dành cho DNNVV để khuyến khích các DNNVV phát triển
sản xuất, tránh sự tập trung quá mức ở các đô thị và tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động hỗ trợ tập
trung khác, cũng như để kiểm soát môi trường.
- Về chính sách thuế đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa:

2.1.1 Chủ trương, đường lối của Đảng về hỗ trợ đổi mới công nghệ
Đảng và Nhà nước ta đã luôn nhận thức đúng đắn về vai trò quan trọng của khoa học và công nghệ
gắn với việc tăng hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của đất nước.
11
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (tháng 6/1991) nêu yêu cầu đối với lĩnh vực hoạt động khoa học
tự nhiên và công nghệ là “phải tập trung vào việc cải tạo, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong
nước hiện có, hiện đại hóa những công nghệ truyền thống có ý nghĩa kinh tế, xã hội cao, lựa chọn tiếp thu
công nghệ mới. Tập trung phát triển trọng điểm một số lượng công nghệ hiện đại…”. Nghị quyết Đại hội đã
đề ra mục tiêu phải đạt tốc độ đổi mới công nghệ hàng năm của các ngành sản xuất từ 10% trở lên, trong đó
tập trung vào việc ứng dụng công nghệ tiến bộ.
Nghị quyết lần thứ 2 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (tháng 12/1996) đã tập trung
nêu định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ này và nhiệm vụ đến năm 2000,
trong đó nêu rõ giai đoạn 1996-2000 ứng dụng, chuyển giao công nghệ là hoạt động chính về công nghệ.
Tạo được khả năng lựa chọn, thích nghi và làm chủ các công nghệ nhập khẩu; đi thẳng vào công nghệ tiên
tiến nhất; đồng thời đổi mới công nghệ từng phần, hiện đại hóa từng khâu đối với những lĩnh vực có cơ sở
vật chất kỹ thuật và sản xuất có hiệu quả.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX (tháng 4/2001) đã xác định phương hướng đổi mới công nghệ ở
nước ta đến năm 2010 là: “Việc đổi mới công nghệ sẽ hướng vào chuyển giao công nghệ, tiếp thu, làm chủ
công nghệ mới; đặc biệt lựa chọn những công nghệ cơ bản, có vai trò quyết định đối với nâng cao trình độ
công nghệ của nhiều ngành, tạo ra bước nhảy vọt về chất lượng và hiệu quả phát triển của nền kinh tế”.
Hội nghị Trung ương 6 Khóa IX (tháng 7/2002) đã đề ra phương hướng phát triển khoa học và công
nghệ đến năm 2005 và đến năm 2010. Hội nghị đã nêu rõ những nhiệm vụ cụ thể là:
- Đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân; chú trọng chuyển
giao tiến bộ kỹ thuật và thành tựu khoa học và công nghệ.
- Đổi mới tổ chức và cơ chế pháp lý, nâng cao trình độ quản lý khoa học và công nghệ, tạo động lực
phát huy mạnh mẽ năng lực nội sinh, giải phóng sức sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
khoa học và công nghệ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (Nghị quyết số 20-NQ/TW
ngày 01/11/2012) về phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

- Về nhu cầu tư vấn, đào tạo công nghệ: trong tổng số 10.994 doanh nghiệp điều tra chỉ có 621
doanh nghiệp có nhu cầu đạo tạo về tự động hóa, 540 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật điện,
456 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về công nghệ tạo khuôn, 440 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về
công nghệ hàn, 396 doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo về công nghệ chế tạo máy.
- Về nhu cầu thông tin công nghệ: có 39,6 doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về chính
sách liên quan đến doanh nghiệp, có 25,94% số doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về công nghệ
mới, có 21,8% doanh nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin về trang thiết bị tiên tiến và có 2,06% số doanh
nghiệp có nhu cầu cung cấp thông tin kỹ thuật cụ thể khác, số doanh nghiệp còn lại yêu cầu cung cập thông
tin về thị trường, năng lực sản xuất hàng hóa cũng chủng loại.
Theo báo cáo của Bộ Khoa học và công nghệ, trong năm 2012 ước tính đầu tư đổi mới công nghệ từ
nguồn doanh nghiệp nhà nước và nguồn ngoài ngân sách đạt khoảng 300 triệu USD, đạt 33% so với tổng đầu
tư toàn xã hội về khoa học và công nghệ.
Kết quả điều tra 8.000 DNNVV của CIEM (2012) chứng tỏ rằng các doanh nghiệp Việt Nam đang
nỗ lực sản xuất các sản phẩm cũ một cách hiệu quả hơn qua việc cải thiện quy trình thực hiện và chất lượng
sản phẩm, thay vì mở rộng sang các ngành mới.
Hình 2.4 Chiến lược nâng cấp của các doanh nghiệp
Nguồn: Khảo sát của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương
13
2.2.1.2 Về ưu đãi miễn, giảm thuế, ưu đãi sử dụng đất cho DNNVV
Theo số liệu của Bộ Tài chính và Tổng cục Thống kê, c tính trong c c u thu ngânướ ơ ấ
sách nh n c thì DNNVV nà ướ ăm 2014 theo chính sách thuế TNDN thì tổng thu dự kiến giảm
khoảng 2.000 tỷ đồng do áp dụng thuế suất 20% đối với doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa, khoảng 2.080
tỷ đồng do bổ sung đối tượng ưu đãi và ưu đãi đối với đầu tư mở rộng trong đó có phần hỗ trợ DNNVV đổi
mới công nghệ [5].
Kể từ khi Luật Đất đai 2003 có hiệu lực, với các cơ chế chính sách mới được ban hành, các doanh
nghiệp đã tạo được nhiều điều kiện hơn để tiếp cận đất đai, mặt bằng.
2.2.2 Thực trạng chính sách phát triển thị trường công nghệ
Tổng số các Hợp đồng chuyển giao công nghệ đăng ký và được cấp Giấy chứng nhận hoặc phê
duyệt từ năm 1999 đến tháng 6/2012 trên toàn quốc là 838 hợp đồng. Trong đó, số hợp đồng CGCN thuộc
các dự án FDI chiếm trên 50%. Nội dung các hợp đồng CGCN thường tập trung vào việc chuyển giao quy

14
trong đó 54 dự án đã kết thúc. Tổng kinh phí hỗ trợ từ Chương trình tính đến hết tháng 12/2011 là 74,705 tỷ
đồng.
2.2.1.5 Thực trạng nguồn nhân lực cho ĐMCN
Theo các số liệu điều tra gần đây cho thấy nguồn nhân lực chất lượng cao trong các DNNVV chiếm
7,24% lực lượng lao động, trong đó có 71,9% trình độ đại học, 26,9% cao đẳng, 0,9% thạc sĩ, trình độ tiến sĩ
là 0,14% [10].
Số liệu điều tra 8.000 DNNVV phản ánh có tới 82% doanh nghiệp cho rằng người lao động chính
mang lại chuyển giao công nghệ là người Việt Nam, 17% cho rằng chuyển giao công nghệ từ lao động nước
ngoài, số ít còn lại nhận được chuyển giao từ người Việt Nam hồi hương. Tương tự, tỷ lệ chuyển giao trung
bình đến từ lao động Việt Nam từng làm việc cho doanh nghiệp FDI là 29%, so với 81% đến từ lao động
Việt Nam từng làm việc cho doanh nghiệp không phải là doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước[15].
Điều này cho thấy khu vực tư nhân trong nước cũng có thể là nguồn chuyển giao hoặc lan tỏa công nghệ
mạnh mẽ thông qua hiệu ứng dịch chuyển lao động.
2.3 Đánh giá chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
2.3.1 Những ưu điểm của chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ
Trong công cuộc đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế ngày nay, kết quả ĐMCN ở nước ta đã
có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, các cơ quan ban hành và
thực thi chính sách đã nỗ lực cải cách, đổi mới trong hệ thống quản lý khoa học và công nghệ hòa nhịp với
sự đổi mới chung về kinh tế - xã hội, đặc biệt trong 10 năm gần đây với những tiến bộ trong quản lý Nhà
nước bằng công cụ chính sách, pháp luật, đổi mới phương thức thực hiện chính sách đổi mới công nghệ, phát
huy tính tự chủ, phát triển doanh nghiệp khoa học và thị trường công nghệ, hình thành hành lang pháp lý
thuận lợi và đồng bộ cho hoạt động đổi mới công nghệ.
2.3.2 Những hạn chế, bất cập trong quá trình đổi mới công nghệ
2.3.2.1 Trình độ công nghệ của các ngành kinh tế còn thấp
Trình độ công nghệ của nền kinh tế nói chung, kể cả của ngành công nghiệp nói riêng cũng còn rất
thấp. Tỷ trọng doanh nghiệp có công nghệ cao của Việt Nam mới đạt khoảng 20,6%, thấp xa so với con
số tương ứng Thái Lan là 31%, Malayxia 51% và Singapore là 73%. Các dự án đầu tư nước ngoài vào các
khu công nghiệp chủ yếu có quy mô nhỏ (dưới 5 triệu USD/1 dự án). Lĩnh vực đầu tư chủ yếu là các ngành
công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động như dệt, may, các ngành có công nghệ cao còn rất ít.

trải nhỏ lẻ
Thủ tục rườm rà,
tốn thời gian
Đầu tư không
có mục tiêu
Đầu thầu tốn
thời gian
Tham
nhũng
34/43 35/43 10/43 16/43 5/43
79% 81% 23% 37% 11%
Nguồn: Bộ Khoa học và công nghệ, 2013
Hạn chế nữa thể hiện thông qua việc thương mại hóa các sản phẩm công nghệ còn khiêm tốn. Muốn
có công nghệ mới cần phải có đầu tư và tạo lập liên kết với các trường đại học. Hiện tại, số bằng phát minh
sáng chế của các trường đại học với tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới là 0, trong khi đó Singapore là 995, Thái
Lan 158, Malaysia 147, Philippin 76[6].
2.3.3 Nguyên nhân những hạn chế của chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ
Các chính sách hỗ trợ DNNVV đổi mới công nghệ chưa chú ý tới đặc điểm về quy mô nhỏ và rất nhỏ
của phần lớn các DNNVV tại Việt Nam. Chính sách miễn, giảm thuế và ưu đãi sử dụng đất mới chỉ là điều
kiện cần nhưng không đủ sức hấp dẫn hoặc bù đắp lại những khó khăn mà doanh nghiệp gặp phải khi đầu tư
vào lĩnh vực khoa học công nghệ tại các vùng khó khăn hoặc phải đầu tư dài hạn như về nguồn nhân lực, cơ
sở hạ tầng, các hoạt động khoa học và công nghệ liên kết với các trường đại học, viện nghiên cứu.
DNNVV cần liên kết ngang mạnh mẽ hơn quan việc sử dụng các dịch vụ thuê ngoài, có thể từ các
viện nghiên cứu, trung tâm của các trường đại học, các công ty tư vấn, các nhà cung cấp dịch vụ để tự tìm
biện pháp thích hợp để đổi mới công nghệ hoặc sáng tạo ra các sản phẩm mới cho thị trường.
DNNVV cũng cần tạo cơ chế áp dụng hình thức đối tác công - tư (PPP) trong những nghiên cứu
quan trọng, có khả năng ứng dụng, lan tỏa làm đổi mới công nghệ của DNNVV.
Về các chính sách ứng dụng và chuyển giao công nghệ: Theo báo cáo điều tra năm 2011 của Viện
nghiên cứu và quản lý kinh tế trung ương, chỉ có khoảng 8% doanh nghiệp chỉ tiến hành hoạt động R&D,
trong khi khoảng 5% chỉ cải tiến công nghệ sẵn có.

nghệ toàn bộ. Các giao dịch mua bán công nghệ ở dạng tài sản trí tuệ như các pa-tăng, li-xăng và bí quyết
công nghệ còn rất hạn chế. Các tổ chức khoa học và công nghệ trong nước chỉ đáp ứng được một phần rất
nhỏ nhu cầu công nghệ của doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu của các tổ chức khoa học và công nghệ trong
nước được áp dụng vào sản xuất kinh doanh không cao. Ngay cả các đề tài có kết quả nghiên cứu khoa học
được áp dụng vào sản xuất kinh doanh cũng không có nhiều đề tài đăng ký được văn bằng sáng chế; có nghĩa
là các đề tài nghiên cứu dẫn đến công nghệ mới rất ít.
Chương trình 68 chủ yếu chỉ tập trung hỗ trợ tạo lập, quản lý và phát triển đối tượng quyền SHTT,
một số tài sản trí tuệ có giá trị khác chưa được đưa vào Chương trình. Để có thể nâng cao giá trị và khả năng
cạnh tranh của sản phẩm nói chung và tài sản trí tuệ nói riêng, việc chỉ sử dụng công cụ pháp luật về bảo hộ
quyền SHTT là chưa đủ, cần phải sử dụng đồng thời nhiều các biện pháp khác như áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng, khai thác giá trị thương mại
Phạm vi hỗ trợ các hoạt động nhằm thương mại hóa sản phẩm còn chưa bám sát nhu cầu của
DNNVV như không huy động được các nguồn tài trợ để hỗ trợ xây dựng cơ sở vật chất, mua sắm trang thiết
bị…, điều này đã gây khó khăn trong công tác hỗ trợ phát triển và khai thác thương mại đối với các đặc sản
của địa phương. Vì vậy, cần mở rộng phạm vi và tăng cường công tác “hỗ trợ triển khai các hoạt động nhằm
thương mại hóa sản phẩm được bảo hộ quyền SHTT”, đặc biệt là các đặc sản địa phương có tính chiến lược,
có tiềm năng xuất khẩu.
Về chính sách nguồn nhân lực có trình độ: Nhận thức về các cơ hội và thách thức của DNNVV về
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của các doanh nghiệp còn chưa đầy đủ. Bên cạnh đó, trình độ
nguồn nhân lực trực tiếp sản xuất, cung cấp dịch vụ của các DNNVV còn thấp, chủ yếu chỉ có nhân lực để
tiếp nhận công nghệ, lắp đặt, vận hành thiết bị mà chưa hoàn toàn làm chủ công nghệ, thiết bị. Trong khi đó,
cơ cấu đào tạo nước ta hiện nay vẫn còn bất cập, chưa hợp lý, bình quân cơ cấu đào tạo của thế giới là 01
sinh viên đại học, 04 trung cấp và 10 công nhân kỹ thuật, nhưng ở Việt Nam tỷ lệ là 01 đại học 1,3 trung cấp
và 0,9 công nhân kỹ thuật. Như vậy, trong thời gian tới cơ cấu lao động trẻ ở Việt Nam còn thiếu cả thầy, cả
thợ.
Việc hoạch định chính sách về đổi mới công nghệ chưa được chủ động thực hiện một cách khoa học.
Chính sách là những định hướng lớn để xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Việc hoạch định các chính
sách về đổi mới công nghệ phải đặt trong mối quan hệ với các chính sách về kinh tế, công nghiệp, thương
mại. Hoạch định chính sách đúng đắn về đổi mới công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng không chỉ trong xây
dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện pháp luật về đổi mới công nghệ khuyến khích phát triển giao dịch giữa

năng suất lao động, thường xuyên đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ, đổi mới
phương thức tổ chức quản lý, đang được đặt ra ngày càng cấp thiết hơn. Đặc biệt, các thành tựu to lớn của
công nghệ thông tin - truyền thông, xu hướng phổ cập Internet, phát triển thương mại điện tử, kinh doanh
điện tử, ngân hàng điện tử, Chính phủ điện tử, v.v đang tạo ra các lợi thế cạnh tranh mới của các quốc gia
và từng doanh nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển nếu không chủ động tự đổi mới, cải cách hành chính, chuẩn bị hạ
tầng cho việc phát triển kinh tế thì nguy cơ tụt hậu ngày càng xa và hệ quả là các DNNVV chậm đổi mới
công nghệ, chất lượng sản phẩm không đạt tiêu chuẩn của các thị trường quốc tế dẫn tới thua thiệt trong việc
xuất khẩu vào thị trường quốc tế.
Để thích ứng với bối cảnh trên, các nước phát triển đang điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng tăng
nhanh các ngành công nghiệp và dịch vụ có hàm lượng công nghệ cao, công nghệ thân thiện môi trường; đẩy
mạnh chuyển giao những công nghệ tiêu tốn nhiều nguyên liệu, năng lượng, gây ô nhiễm cho các nước đang
phát triển. Nhiều nước đang phát triển dành ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao, tăng mức
đầu tư cho nghiên cứu và đổi mới công nghệ cho DN đặc biệt là DNNVV theo một số hướng công nghệ cao
chọn lọc; tăng cường cơ sở hạ tầng thông tin - truyền thông; nhằm tạo lợi thế cạnh tranh và thu hẹp khoảng
cách phát triển.
19
Sau hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, làm nền tảng cho giai
đoạn phát triển mới. Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục khẳng định con đường đổi mới theo hướng đẩy mạnh
CNH, HĐH để đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020; chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế, cam kết thực hiện các thoả thuận trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa
Kỳ, tích cực chuẩn bị tham gia WTO; tăng cường đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh, phát triển kinh tế tập
thể, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân, đặc biệt là hỗ trợ mạnh mẽ khu vực DNNVV; đẩy mạnh cải cách
hành chính, v.v
Trong bối cảnh đó, việc các DNNVV đổi mới công nghệ chính là những đóng góp thiết thực vào
việc nâng cao hiệu quả và sức khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đáp ứng các mục tiêu chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội đến năm 2010.
3.1.3 Cơ hội và thách thức
3.1.3.1 Cơ hội
Trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế, với đường lối đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế, các

quốc gia, thì nguy cơ tụt hậu kinh tế và công nghệ lạc hậu ngày càng xa và tình trạng lệ thuộc lâu dài vào
nguồn công nghệ nhập là khó tránh khỏi.
3.2 Giải pháp
Để có hệ thống các chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ cho DNNVV, cần phải triển khai đồng bộ
nhiều giải pháp chính sách khác nhau, từ các giải pháp chính sách về cơ chế phối hợp giữa các cơ quan ban
hành, thực thi chính sách, điều chỉnh các chính sách hỗ trợ trực tiếp, hỗ trợ gián tiếp và tiếp thu các bài học
kinh nghiệm quốc tế.
3.2.1 Giải pháp tạo động lực về kinh tế đối với DNNVV
3.2.1.1 Tạo thuận lợi về chính sách thuế cho DNNVV đổi mới công nghệ
Thứ nhất, bên cạnh việc duy trì, tiếp tục thực hiện các chính sách ưu đãi thuế cho DNNVV, cần thiết
lập kênh thông tin thường xuyên giữa cơ quan thuế và DNNVV, qua đó DNNVV sẽ phản ánh nhanh và kịp
thời những khó khăn, vướng mắc cũng như đề xuất, kiến nghị của doanh nghiệp trong quá trình làm thủ tục
hưởng ưu đãi hay những bất cập về cơ chế ưu đãi thuế cho ĐMCN hiện nay. Cơ quan thuế qua phản ánh,
kiến nghị của DNNVV sẽ hoàn thiện, điều chỉnh phù hợp giữa mục tiêu quản lý nhà nước và mong muốn của
DNNVV.
Thứ hai, Chính phủ cần xác định hiệu quả của các ưu đãi thuế cho ĐMCN tại các DNNVV, tránh
tình trạng tạo ra cơ chế trợ cấp cho doanh nghiệp. Khi thực hiện ưu đãi thuế, cơ quan nhà nước phải theo dõi
hiệu quả sản xuất của doanh nghiệp có tăng lên hay không, từ đó có thể đánh giá được tính hiệu quả, hiệu lực
trong việc thực thi chính sách ưu đãi thuế, xác định được tỷ lệ miễn, giảm thuế hợp lý đối với các loại hình
DNNVV.
3.2.1.2 Ưu đãi tín dụng cho DNNVV đổi mới công nghệ
Thứ nhất, Chính phủ cần thực thi một cách bình đẳng chính sách tín dụng cho mọi doanh nghiệp,
không phân biệt doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân.
Thứ hai, khuyến khích thành lập các tổ chức dịch vụ có chức năng thẩm định dự án ĐMCN độc lập,
các tổ chức này sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về dự án ĐMCN của DNNVV cho ngân hàng, tư vấn
cho doanh nghiệp đàm phán với ngân hàng để vay vốn do DNNVV thông thường có tài sản giá trị thế chấp
không cao. Trên cơ sở đó, DNNVV có thể vay được vốn với điều kiện thuận lợi nhất.
Thứ ba, khuyến khích thành lập các công ty cho thuê tài chính và hoàn thiện pháp luật đối với hoạt
động cho thuê tài chính để các DNNVV có thể tiếp cận, sử dụng thiết bị, dây chuyền công nghệ mà không
phải đầu tư mua sắm toàn bộ. Việc sử dụng tài sản cho thuê và thanh toán tiền thuê căn cứ theo từng giai

nước tạo cơ sở pháp lý cho các tổ chức khoa học và công nghệ khai thác nguồn vốn ngoài nước từ hoạt động
hợp tác quốc tế bằng nhiều hình thức khác nhau: hợp tác nghiên cứu, đào tạo song phương, đa phương;
khuyến khích tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư, thành lập tổ chức khoa học và công nghệ tại Việt Nam
dưới nhiều hình thức (hợp tác, liên kết giữa bên Việt Nam và các bên nước ngoài; các tổ chức khoa học và
công nghệ 100% vốn nước ngoài…).
Ưu tiên nguồn vốn ODA đầu tư phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ, đặc biệt trong các lĩnh
vực khoa học và công nghệ trọng điểm quốc gia, như: các tổ chức nghiên cứu và phát triển trọng điểm, các
phòng thí nghiệm trọng điểm, các khu công nghệ cao.
3.2.2 Phát triển thị trường công nghệ
Thứ nhất, gắn kết đổi mới cơ chế, chính sách kinh tế, xã hội với thúc đẩy tiến bộ khoa học và công
nghệ và ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ vào sản xuất và đời sống
Xây dựng chương trình liên kết giữa khoa học và công nghệ với đào tạo và sản xuất, kinh doanh để
hỗ trợ doanh nghiệp nâng cao năng lực quản lý, hiện đại hoá, đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh
tranh và hội nhập kinh tế quốc tế.
Cải cách mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước theo hướng đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá, không áp
dụng các biện pháp khoanh nợ, dãn nợ đối với doanh nghiệp. Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng nhằm
thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm thực sự đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh và xem xét hiệu quả khi lựa
chọn công nghệ. Ban hành các chính sách về kiểm soát độc quyền, giải thể, phá sản doanh nghiệp đồng thời
đẩy nhanh quá trình chủ động hội nhập quốc tế tạo sức ép thúc đẩy các doanh nghiệp áp dụng các thành tựu
khoa học và công nghệ, đổi mới sản phẩm.
Thứ hai, nâng cao chất lượng và khả năng thương mại hoá của các sản phẩm khoa học và công nghệ
Dành tỷ lệ thích đáng kinh phí từ ngân sách nhà nước cho việc hỗ trợ hoàn thiện sản phẩm nghiên
cứu có khả năng thương mại hoá. Xây dựng cơ chế đánh giá sau nghiệm thu và cơ chế hỗ trợ kinh phí để
hoàn thiện và thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Hình thành các tổ chức tư vấn, giám định về chất
lượng và giá cả của công nghệ trước khi chuyển giao hoặc bán cho sản xuất công nghiệp.
22
Thứ ba, phát triển các tổ chức trung gian, môi giới công nghệ
Phát triển các tổ chức môi giới công nghệ, tư vấn chuyển giao công nghệ, các tổ chức cung cấp
thông tin thị trường công nghệ; hình thành các tổ chức xúc tiến thị trường công nghệ; tổ chức các chợ công
nghệ - thiết bị. Khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia kinh doanh các dịch vụ môi giới về thị trường

3.2.4 Đẩy mạnh truyền thông, nâng cao nhận thức của người làm chính sách và nhà quản trị
doanh nghiệp
Để hạn chế độ trễ của các chính sách, đưa chính sách hỗ trợ DNNVV đi vào đời sống sản xuất nhanh
và hiệu quả, thì cần thiết phải đẩy mạnh tuyên truyền và nâng cao nhận thức của cả người làm chính sách lẫn
các nhà quản trị DNNVV.
Các nhà quản trị DNNVV còn có thể có nhiều hạn chế về kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực tiến
hành đổi mới công nghệ và nâng cao khả năng cạnh tranh. Nhưng các hạn chế này có thể được khắc phục
23
nếu có cơ chế, chính sách cụ thể và các cơ quan chức năng thực hiện truyền thông qua các kênh khác nhau,
giúp cho chủ DNNVV nâng cao khả năng tiếp cận với các chính sách hỗ trợ.
Đẩy mạnh công tác truyền thông về các thủ tục tiếp cận nguồn tài chính cho doanh nghiệp, xóa bỏ
suy nghĩ về những khó khăn trong vướng mắc tiếp cận vốn để DNNVV có thể mạnh dạn thay đổi phương
pháp sản xuất kinh doanh, đầu tư đổi mới công nghệ. Các cơ quan quản lý nhà nước tăng cường đối thoại
chính sách với doanh nghiệp, trong đó lưu ý đến các DNNVV bàn về vấn đề sử dụng các quỹ hỗ trợ đổi mới
công nghệ, giải đáp những khó khăn vướng mắc trong hiểu biết và tiếp cận nguồn vốn của DNNVV.
3.2.5 Những nhiệm vụ đề xuất với Hiệp hội DNNVV
Các DNNVV cần có sự hợp tác với nhau để chủ động đổi mới công nghệ, nâng cao sức cạnh tranh
của sản phẩm hàng hóa trong nước, khắc phục những hạn chế vốn có của quy mô nhỏ và vừa. Thông qua các
Hiệp hội, DNNVV sẽ được trợ giúp, định hướng, chỉ dẫn, tạo điều kiện thuận lợi hơn trong việc đổi mới và
nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp.
Hiệp hội các DNNVV cần tập hợp các doanh nghiệp quan tâm, có hoạt động đổi mới sáng tạo; các
chuyên gia, các viện nghiên cứu, trường kết nối với các cơ quan chức năng của Bộ Khoa học và Công nghệ,
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính để tư vấn, hỗ trợ doanh nghiệp về chuyên môn, về nguồn lực (tài
chính, nhân lực, giải pháp…). Tổ chức tọa đàm cho doanh nghiệp, giữa các doanh nghiệp với nhau để trang
bị kiến thức, hướng dẫn, giải quyết các trường hợp bị xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
DNNVV và cộng đồng DNNVV chủ động xúc tiến thị trường công nghệ, tìm nguồn vốn cho hoạt
động ĐMCN từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác; thử nghiệm hình thức gọi vốn trong cộng đồng DN.
Tổ chức các hoạt động họp báo giới thiệu về kết quả ĐMCN của DN, tại các hội chợ triển lãm phù hợp.
KẾT LUẬN
Luận văn “Chính sách hỗ trợ đổi mới công nghệ đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam” đã


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status