Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT TRẦN QUỲNH NGA

Một số vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và
thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam
hiện nay

luËn v¨n th¹c sÜ LUẬT

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hoàng Thị Kim Quế Hµ néi - 2007 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại hội Đảng VIII đã khẳng định nhiệm vụ của nhà nước ta là tiếp tục
cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước theo hướng nhà
nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa: “tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam, quản lý xã hội bằng
pháp luật đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”. Và Điều 2 Hiến
pháp 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001) một lần nữa khẳng định rõ
hơn vấn đề này“Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức”. Đó là cơ sở pháp lý và cũng là
văn bản pháp luật quan trọng nhất để xây dựng đất nước, xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời cũng thể chế hoá đường lối
của Đảng đề ra trong “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội” và “chiến lược ổn định phát triển kinh tế - xã hội”. Theo đó,
Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của giai cấp công nhân với nông
dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước
pháp quyền Việt Nam là Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, tôn trọng và

- Khái quát chung những tư tưởng, lý luận về nhà nước pháp quyền của
thế giới trong các thời kỳ phát triển lịch sử.
- Phân tích và đánh giá những quan điểm chủ đạo của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Từ đó khẳng định rằng nhà nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong nửa thế kỷ qua đang được xây dựng thành một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 3
- Đưa ra một số kiến nghị về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa phù hợp với đặc điểm, tình hình chính trị, kinh tế và xã hội nước ta
trong giai đoạn phát triển hiện nay.
3. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài, phương pháp nghiên cứu cơ bản mà luận văn sử
dụng là phương pháp qui nạp trên cơ sở thống kê, tổng hợp, nghiên cứu và
phân tích các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta để làm rõ những quan điểm
về việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Luận văn cũng sử dụng các tác phẩm của Mác, Ăngghen, Lênin và các
công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả trong và ngoài nước về nhà
nước và pháp luật làm tài liệu tham khảo.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp lôgic và phương pháp so sánh đối chiếu để làm
sáng tỏ những nội dung của luận văn.
4. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm qua, các văn kiện của Đảng và Nhà nước, các bài phát biểu
của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước tại các diễn đàn đã đề cập nhiều
đến vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền. Đây là định hướng cơ bản và
quan trọng nhằm hoàn thiện nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên thực tế hiện nay cũng đã có không ít những công trình khoa học,

Nam
Chương 2: Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Phương hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam
Chương 1 5
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
Ở VIỆT NAM
1.1. Tư tưởng và học thuyết về nhà nước pháp quyền qua các thời
kỳ
1.1.1. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền thời cổ đại
Những ý niệm đầu tiên về nhà nước pháp quyền xuất hiện ngay từ thời
kỳ đầu tiên của nền văn minh nhân loại. Ngay từ thời cổ đại xa xưa, loài
người đã bắt đầu tìm kiếm những hình thức xã hội công bằng, tốt đẹp. Cùng
với tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, những ý niệm ban đầu này đã
được các nhà tư tưởng phát triển và hình thành nên tư tưởng về hình thức tổ
chức quyền lực xã hội mà trong đó pháp luật trở thành quy phạm bắt buộc đối
với mọi người, là sức mạnh mang tính nhà nước và quyền lực xã hội được
pháp luật thừa nhận trở thành quyền lực nhà nước. Những tư tưởng này được
hình thành qua nhiều giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (thế kỷ VIII-V tr. CN) gắn
sự hình thành của các Nhà nước và pháp luật. Giai đoạn thứ hai (thế kỷ V-nửa
đầu thế kỷ IV tr. CN) gắn liền sự phát triển cao của các thể chế Nhà nước.
Giai đoạn thứ ba (nửa sau thế kỷ IV - thế kỷ II tr. CN) gắn liền với sự suy
vong của Nhà nước thành bang Hy Lạp cổ đại. Có thể thấy những tư tưởng
này đã có mầm mống ở nhiều nơi trên thế giới, cả phương Đông lẫn phương
Tây.
 Ở phương Tây

dân. Tự do của công dân nằm trong sự tuân thủ pháp luật.
Cuối thế kỷ V tr. CN, khi nền dân chủ A-ten lâm vào khủng hoảng,
Xôcơrat (Socrate, 469, 399 tr. CN) cho rằng dân chủ không thể tồn tại được vì
thiếu pháp luật hay pháp luật bất lực thì công bằng và công lý sẽ bị vi phạm. 7
Cuối thế kỷ V đầu thế kỷ IV tr. CN, Platôn (Platon, 427 - 347 tr. CN)
xác định rằng, người cầm quyền phải gạt sang một bên ý chí cá nhân để tuân
thủ và nhân danh ý chí của pháp luật. Platôn nhìn thấy “sự sụp đổ nhanh
chóng của Nhà nước ở nơi nào mà pháp luật không được đề cao và nằm dưới
quyền lực của một ai đó. Còn ở nơi nào pháp luật đứng trên các nhà cầm
quyền và các nhà cầm quyền chỉ là nô lệ của pháp luật, thì tôi thấy ở đó có sự
cứu thoát Nhà nước và những lợi ích mà chỉ có Thượng đế mới có thể tặng
cho các Nhà nước''.
Arixtot (384 - 322 TCN) - nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại cho
rằng pháp luật cần thống trị trên tất cả. Theo ông thì yếu tố cấu thành cơ bản
của phẩm chất chính trị trong luật pháp là sự phù hợp của tính đúng đắn về
chính trị của nó với tính pháp quyền; không thể có pháp luật nếu như việc
cầm quyền không tuân theo pháp luật, chà đạp lên pháp luật, mưu toan thống
trị bằng bạo lực.
Pôlybi (Polybe, 201-120 tr. CN) là người La Mã đầu tiên nêu lên những
tư tưởng quan trọng về Nhà nước pháp quyền. Theo ông, ''không phải lý trí
mà kinh nghiệm đã dạy chúng ta rằng hình thức chính phủ hoàn hảo nhất là
hình thức được tạo nên từ ba chính thể quân chủ, quý tộc và cộng hoà". Trong
đó cơ quan chấp chính tối cao thuộc về vua, nguyên lão viện (nghị viện) thuộc
về quý tộc và các cơ quan dân biểu (hội đồng) thuộc về nhân dân (chủ nô).
Phân bố và giám sát quyền lực hợp lý, chặt chẽ là hai yếu tố cơ bản bảo đảm
một Nhà nước vững mạnh và phát triển quốc gia La Mã thành một đế quốc
hùng mạnh.

nước đã phôi thai.
Như vậy, tư tưởng Nhà nước pháp quyền thời cổ đại nhằm chống lại sự
chuyên quyền, độc đoán, vô chính phủ, đấu tranh xác lập và phát triển nền
dân chủ. Theo các nhà triết học phương Tây, pháp luật không chỉ là công cụ
cai trị của Nhà nước mà còn là phương thức điều chỉnh quan trọng nhất đối 9
với các quan hệ xã hội, bản thân Nhà nước cũng phải phục tùng pháp luật.
 Ở phương Đông
Trong xã hội chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc cổ đại diễn ra cuộc đấu
tranh quyết liệt xung quanh vấn đề trị nước, an dân bằng cách thức nào, dùng
pháp luật hay đạo đức, lễ nhạc
Nho giáo do Khổng Tử sáng lập lúc đầu chủ trương “nhân trị”, “lễ trị”
hoàn toàn nhưng về sau đã phải tìm kiếm đến những yếu tố thích hợp của tư
tưởng pháp trị. “Lễ trị” của Khổng Tử có tác dụng rất sâu sắc và bao quát,
vừa là sự cụ thể hoá, vừa là công cụ, biện pháp để thực hiện đức trị và “chính
danh” nhằm tạo ra một trật tự trong các quan hệ gia đình và xã hội.
Theo Mạnh Tử, vua vâng mệnh trời để trị dân, nhưng mệnh trời phải
hợp với lòng dân, vai trò chủ chốt là của dân và sự phụ thuộc của nhà cầm
quyền vào nhân dân.
Tuân Tử đã kết hợp “lễ trị với luật” để trị nước. Có thể coi đây là chiếc
cầu nối giữa tư tưởng nhân - lễ trị của Khổng - Mạnh và tư tưởng pháp trị sau
này.
Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị lên đến đỉnh cao, coi pháp
luật là cơ sở duy nhất để quản lý xã hội, pháp luật phải thay đổi theo thời
cuộc, “thời biến, pháp biến”. Nho giáo mà tiêu biểu là Khổng Tử cũng không
phủ nhận hoàn toàn vai trò của pháp luật nhưng quan niệm và cách thức vận
dụng pháp luật khác nhiều so với Hàn Phi Tử. Cùng là dùng hình luật để cai
trị nhưng Pháp gia khác với Nho gia. Pháp gia thì xem việc dùng hình phạt dù

đối lập với chế độ quân chủ. Trong nhà nước dân chủ đó, con người sống tự
do, bình đẳng và giao tiếp tự nhiên với nhau mà sinh ra pháp quyền tự nhiên. 11
Tóm lại, lý thuyết pháp quyền tự nhiên đã góp phần giải phóng lý luận về nhà
nước và pháp luật khỏi sự bảo hộ của thần học và chủ nghĩa kinh viện trung
đại. C.Mác nhận xét, lý thuyết pháp quyền tự nhiên “đã bắt đầu xem xét nhà
nước bằng đôi mắt người và rút ra những quy luật tự nhiên của nhà nước từ lý
trí và kinh nghiệm, chứ không phải từ khoa thần học”[12, tr.165].
Các nhà triết học duy vật Anh thế kỷ XVII đã tiếp tục phát triển lý luận
về pháp quyền tự nhiên thành lý thuyết về tự do, phân quyền và chủ quyền
nhân dân. Dựa trên tư tưởng chủ quyền nhân dân và khế ước xã hội, tạo nên
cơ sở pháp luật và nguồn gốc của chế độ nhà nước, Lốccơ luận giải “học
thuyết về nền pháp chế chống lại mọi biểu hiện phi luật pháp của chính
quyền”. Ông có nhiều luận điểm tự do mang tính kinh điển về quyền và tự do
của cá nhân trong điều kiện chế độ nhà nước pháp quyền. Ông nhận xét: “Tự
do của những người nằm dưới quyền lực của chính phủ là ở chỗ, cần có một
quy tắc cố định cho cuộc sống, chung cho mọi cá nhân trong xã hội và được
quy định bởi quyền lập pháp được thiết lập ở đó. Đó là quyền tự do được làm
theo ý muốn riêng trong mọi trường hợp, nếu như ý muốn đó không bị luật
pháp ngăn cấm và không phụ thuộc vào ý chí độc đoán thường xuyên, không
xác định và không rõ ràng của người khác”[16, tr.16-17].
Đến thế kỷ XVIII, các nhà triết học khai sáng Pháp như Môngtecxkiơ,
Rutxô, Vônte, Hônbách… đã đưa ra lý thuyết về phân quyền, chủ quyền nhân
dân và khế ước xã hội. Môngtecxkiơ quan niệm nhà nước ra đời từ sự vận
động và phát triển của xã hội loài người đến một trình độ nhất định. ý tưởng
về sự phân chia quyền lực được ông nghiên cứu một cách hệ thống, ông phân
chia quyền lực thành quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Vì vậy, muốn
ngăn chặn được nạn lạm dụng quyền lực thì phải có một trật tự, trong đó các

Phíchtơ (1762-1814) quan niệm nhà nước và pháp luật là những
phương tiện để nhân loại thực hiện sứ mệnh lịch sử tối cao của mình là tiến
tới tự do tuyệt đối, cái tôi tuyệt đối. Nhà nước và pháp luật có nhiệm vụ quản 13
lý và điều hoà sự phát triển xã hội và vì lợi ích chung là hướng tới tự do. Nhà
nước pháp quyền là công cụ để xây dựng một xã hội lý tưởng, bảo đảm các
nhu cầu cơ bản của công dân.
Xu hướng ảnh hưởng lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn xây dựng nhà
nước pháp quyền tư sản là hệ thống quan điểm pháp lý thực định. Lý thuyết
về nhà nước pháp quyền tư sản ra đời vào thế kỷ XIX-XX, nhằm thay thế lý
thuyết pháp quyền tự nhiên. Iêring cho rằng, chế độ nhà nước pháp quyền chỉ
có thể tồn tại ở nơi mà chính quyền nhà nước cũng lệ thuộc vào trật tự mà nó
đặt ra, nơi mà nó đạt được sự vững chắc về pháp lý. R.F.Môn và K.T.Vancơ
là những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ nhà nước pháp quyền. Nhà nước
pháp quyền có mục tiêu là phát huy tự do và năng lực sáng tạo của mọi công
dân. Nhà nước pháp quyền phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản như tính tối
cao của pháp luật; chủ quyền của nhân dân thông qua nghị viện; mọi công dân
đều bình đẳng trước pháp luật. Tư tưởng nhà nước pháp quyền thực chứng
được hình hành và phát triển trên cơ sở xã hội tư bản bước vào thời kỳ chấm
dứt giai đoạn công trường thủ công và bước vào giai đoạn đại công nghiệp. Ở
thời kỳ này, các phạm trù, khái niệm về nhà nước pháp quyền tư sản được xây
dựng một cách hệ thống hơn.
1.1.3. Những đặc điểm cơ bản của nhà nước pháp quyền
Nhìn chung, lý luận về nhà nước pháp quyền là hệ thống các quan
điểm, tư tưởng rất phức tạp, phong phú với các cách tiếp cận khác nhau. Có ý
kiến cho rằng, điều quan trọng nhất trong Nhà nước pháp quyền là nguyên tắc
phân công rành mạch giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Ý kiến khác cho rằng bản chất của Nhà nước pháp quyền nằm ở việc

nhà nước, thực hiện quyền lực nhân dân. Hành pháp mạnh, đủ năng lực xây
dựng chính sách, thể chế hóa chính sách thông qua cơ chế làm luật, năng lực
tổ chức thực hiện chính sách và pháp luật. Tư pháp phải độc lập và bảo đảm 15
công lý cho mọi cá nhân trong xã hội. Nguyên tắc này cũng đặt ra yêu cầu
mọi thiết chế quyền lực nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn
khổ pháp luật, không ai có thể lạm dụng quyền lực, và vì lẽ đó, cần phải sắp
xếp quyền lực sao cho không có sự lạm quyền.
- Quyền dân chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người được pháp
luật ghi nhận và bảo đảm bằng quyền lực nhà nước. Mục tiêu cao nhất của
Nhà nước pháp quyền là bảo đảm quyền tự do, dân chủ của con người. Vì
vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là phương tiện ghi nhận quyền dân
chủ, tự do và lợi ích chính đáng của con người, đồng thời cũng quy định cả
những biện pháp hữu hiệu để ngăn chặn và trừng trị những hành vi xâm hại
đến các quyền và lợi ích đó.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước bảo đảm trách nhiệm lẫn nhau
giữa nhà nước và công dân, quyền công dân là trách nhiệm của nhà nước và
ngược lại quyền của nhà nước là trách nhiệm của công dân. Nhà nước phải
chịu trách nhiệm trước công dân về những hoạt động của mình, còn công dân
phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước và chịu trách nhiệm về những
hành vi vi phạm pháp luật.
- Cơ chế bảo hiến là một bộ phận không thể thiếu trong nhà nước pháp
quyền. Cơ chế bảo hiến ngày nay đã trở thành một phần quan trọng trong tổ
chức của đa số các nhà nước đương đại, do tư tưởng về nhà nước pháp quyền
đã được thừa nhận rộng rãi với đặc trưng cơ bản nhất là tính tối cao của Hiến
pháp và pháp luật. Trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia, Hiến pháp là
văn bản pháp lý có hiệu lực cao nhất, là đạo luật cơ bản và quan trọng nhất.
Với ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp như trên, việc hình

bảo vệ nhà nước, làm cho nhà nước ngày càng hoàn thiện, trong sạch, vững
mạnh. Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi với tư cách là chủ nhân của một đất nước
độc lập, tự do, quyền và nghĩa vụ công dân luôn gắn bó chặt chẽ với nhau. 17
Một trong những phương thức quan trọng và cơ bản nhất thể hiện
quyền lực nhân dân đó chính là bầu cử. Hồ Chí Minh coi “tổng tuyển cử là
một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để
gánh vác công việc nước nhà. Trong cuộc tổng tuyển cử, hễ là những người
muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có
quyền đi bầu cử … Do tổng tuyển cử mà toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội
sẽ cử ra CHÍNH phủ. Chính phủ đó thật là Chính phủ của toàn dân”[14, tr.
133].
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, quyền lực tối cao của nhân dân không
chỉ thể hiện ở việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp mà còn ở
quyền bãi miễn, kiểm soát, giám sát hoạt động của các đại biểu. Hồ Chí Minh
đã nêu: “Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân với đại biểu của mình”[15, tr.275].
Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ việc gì
pháp luật không cấm và có nghĩa vụ tuân theo pháp luật. Nhà nước của dân
phải bằng mọi nỗ lực hình thành các thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm
chủ của người dân. Những người đại diện của dân, do dân cử ra chỉ là thừa ủy
quyền của dân, chỉ là “công bộc của dân”. Hồ Chí Minh phê phán những “vị
đại diện” lầm lẫn sự ủy quyền đó với quyền lực cá nhân, sinh lộng quyền,
cửa quyền: “Cậy thế mình ở trong ban này, ban nọ rồi ngang tàng, phóng
túng, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, không nghĩ đến dân. Quên rằng
dân bầu mình ra để làm việc cho dân, chứ không phải để cậy thế với dân” [14,
tr.57].

nhân dân, nghĩa là nhà nước đó được tổ chức và hoạt động theo một mục tiêu
duy nhất là không ngừng cải thiện và nâng cao đời sống của nhân dân. Đó 19
cũng là cơ sở để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và năng
lực của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Bên cạnh đó, nhà nước vì dân là nhà nước biết chăm lo mọi mặt đời
sống của nhân dân, trước hết là thoả mãn các nhu cầu thiết yếu nhất. Hồ Chí
Minh đã nói: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết
rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của
độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: làm
cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học
hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta
xứng đáng với tự do, độc lập và giúp sức được cho tự do, độc lập”[13, tr.152].
Nhà nước chăm lo cho dân không có nghĩa là làm thay dân mà hướng dẫn, tạo
điều kiện cho dân tự chăm lo đời sống của mình. Theo Hồ Chí Minh, việc đáp
ứng và thoả mãn nhu cầu, lợi ích của nhân dân là tiêu chí hàng đầu để đánh
giá hiệu quả, năng lực hoạt động của nhà nước.
Ngoài ra, nhà nước cũng phải biết kết hợp, điều chỉnh các loại lợi ích
khác nhau giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội, các bộ phận dân cư để luôn được
nhân dân ủng hộ. Để làm tốt vai trò hướng dẫn của mình, nhà nước cũng cần
phải biết kết hợp giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, lợi ích của trung
ương và lợi ích của địa phương, lợi ích của các ban ngành, các chủ thể trong
xã hội để tất cả nhân dân đều nhận thấy nhà nước là người đại diện cho lợi ích
của họ, hoạt động vì lợi ích chung của cả cộng đồng. Hồ chủ tịch thường nhấn
mạnh để phục vụ tốt nhân dân, vì dân, nhà nước phải thực sự liêm khiết, trong
sạch, tránh quan liêu, tham nhũng, phải loại hết “các ông quan cách mạng” ra
khỏi bộ máy nhà nước. Nếu hoạt động của nhà nước kém hiệu quả, bộ máy
quan liêu, đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ chủ chốt bị thoái

Chí Minh là ở chỗ Người đề cao vai trò của các đạo luật trong xây dựng pháp
luật và coi đây như là một bảo đảm về tính dân chủ của hệ thống pháp luật. 21
Với Người, pháp luật không chỉ là công cụ, phương tiện của quản lý nhà nước
mà còn là phương tiện để bảo đảm nền dân chủ. Đồng thời với việc xây dựng
chính quyền Việt Nam sau cách mạng và sự ra đời của nhà nước Việt Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bắt tay vào tổ chức, xây dựng hệ thống pháp luật
đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Như vậy, với việc xây
dựng hệ thống pháp luật này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng đầu tiên
cho quá trình xây dựng hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Khi xem xét vai trò của pháp luật với Nhà nước, cùng với việc khẳng
định vai trò của pháp luật trong quản lý và duy trì bản chất nhà nước mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đặt ra yêu cầu xây dựng pháp luật sao cho pháp
luật thực sự trở thành phương tiện bảo đảm công bằng, là hành lang pháp lý
cho việc thực hiện các thiết chế dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định
pháp luật của nhà nước ta được xây dựng để phục vụ nhân dân và phải phục
vụ nhân dân. Như vậy, pháp luật đã trở thành công cụ duy trì vào bảo vệ bản
chất của nhà nước.
Tư tưởng đề cao pháp luật trong quản lý nhà nước ở Chủ tịch Hồ Chí
Minh gắn liền với việc đề cao Hiến pháp và giá trị của các đạo luật trong nhà
nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến những bảo đảm cần
thiết cho việc tuân thủ nghiêm chỉnh Hiến pháp cả từ phía các cơ quan nhà
nước và từ phía công dân. Có như thế thì mới bảo đảm trật tự, kỷ cương nhà
nước và công dân mới được hưởng các quyền tự do dân chủ đã được ghi nhận
trong Hiến pháp. Hiến pháp năm 1946 một mặt, đã xác định rõ chế độ nhà
nước và ghi nhận các quyền cơ bản của công dân, mặt khác, đã khẳng định
nguyên tắc tôn trọng Hiến pháp, hay nói cách khác là xác lập cơ chế bảo đảm
hiệu lực tối cao của Hiến pháp.

Minh về nhà nước và pháp luật nhưng bắt đầu được nhận thức theo tư duy
mới. Tổng kết quan điểm của Đảng về lý luận xây dựng nhà nước và pháp 23
luật trong giai đoạn trước Đại hội Đảng VII cho thấy những nhận thức cơ bản
sau:
Đảng ta nhất quán khẳng định bản chất của nhà nước ta là nhà nước
chuyên chính vô sản. Quan điểm này được khẳng định rõ trong Hiến pháp
1980: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên
chính vô sản” của nhân dân lao động. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng VI tiếp
tục khẳng định bản chất của nhà nước ta “là công cụ của chế độ làm chủ tập
thể xã hội chủ nghĩa”, đồng thời chỉ rõ trong thời kỳ quá độ, “đó là nhà nước
chuyên chính vô sản thực hiện chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Như vậy,
những đặc thù mang tính lịch sử trong quá trình xây dựng nhà nước chuyên
chính vô sản ở giai đoạn này là nền tảng cơ sở vững chắc cho quá trình nghiên
cứu, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân sau này.
Đảng ta chủ trương xây dựng nhà nước bảo đảm ngày càng đầy đủ
quyền dân chủ của công dân. Nhà nước bảo đảm không ngừng hoàn chỉnh và
củng cố chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa của nhân dân lao động về các
mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Đại hội VI chỉ rõ phương châm “dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” phải trở thành nề nếp hàng ngày của xã
hội mới, thể hiện chế độ nhân dân lao động tự quản lý nhà nước của mình.
Khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, Đại hội Đảng VI chỉ rõ: “Công tác
quản lý không phải là việc riêng của người quản lý chuyên nghiệp mà là sự
nghiệp của nhân dân. Trong công tác quản lý, dù là quản lý hành chính hay
quản lý sản xuất, kinh doanh, quản lý trật tự đều cần có sự tham gia của quần
chúng. Việc phát huy vai trò của nhân dân lao động tham gia quản lý kinh tế,
quản lý xã hội cần được các cơ quan lãnh đạo và quản lý đặt ra và thực hiện


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status