Pháp luật về kiểm toán nhà nước Việt Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế - Pdf 25

1

2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
ĐỖ THỊ LAN HƢƠNG
PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ

Chuyên ngành : Luật quốc tế
Mã số : 60 38 60
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2012
Công trình đƣợc hoàn thành
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội

Trang phụ bìa Lời cam đoan Mục lục Danh mục các từ viết tắt MỞ ĐẦU
1

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC
5
1.1.
Những vấn đề cơ bản về kiểm toán nhà uước
5
1.1.1.
Khái niệm, sự cần thiết khách quan, chức năng và phân loại
kiểm toán
5
1.1.2.
Kiểm toán nhà nước
9
1.1.3.
Vị trí, vai trò của Kiểm toán Nhà nước
25


toán nhà nước
1.4.2.
Tính chặt chẽ thống nhất của hệ thống pháp luật về Kiểm toán
nhà nước là điều kiện quan trọng đảm bảo hiệu lực hoạt động
của Kiểm toán nhà nước
45
1.4.3.
Tính tích cực của hệ thống pháp luật về Kiểm toán nhà nước tạo
môi trường pháp lý cho sự phát triển của Kiểm toán nhà nước
46
1.4.4.
Pháp luật về Kiểm toán nhà nước phải không ngừng được bổ
sung và hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của hoạt
động Kiểm toán nhà nước
47
1.4.5.
Tăng cường pháp chế là điều kiện để phát huy hiệu lực trong
thực tiễn của pháp luật về Kiểm toán nhà nước
47

Chương 2: ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KIỂM
TOÁN NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
48
2.1.
Thực trạng pháp luật về Kiểm toán nhà nước ở nước ta
48
2.1.1.
Giai đoạn từ khi thành lập cho đến khi Luật Kiểm toán nhà
nước có hiệu lực (1994-2005)

79 của việc thực hiện các cam kết WTO đến hoạt động Kiểm
toán Nhà nước
2.4.1.
Vị trí, vai trò của Kiểm toán Nhà nước trong hội nhập và phát triển
79
2.4.2.
Tác động của việc thực hiện các cam kết gia nhập WTO tới
hoạt động kiểm toán
81
2.5.
Yêu cầu đặt ra đối với pháp luật về Kiểm toán nhà nước hiện nay
86

Chương 3: THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HỆ THỐNG PHÁP LUẬT
VỀ KIỂM TOÁN NHÀ NƢỚC ĐÁP ỨNG YÊU CẦU HỘI
NHẬP QUỐC TẾ
89
3.1.
Thực thi pháp luật về Kiểm toán nhà nước
89
3.1.1.
Xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật Kiểm toán nhà nước
89
3.1.2.
Tuyên truyền, tập huấn Luật Kiểm toán nhà nước
90


DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
150

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
151
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ASOSAI
: Tổ chứ c cá c Cơ quan Kiể m toá n tố i cao Châu Á
DNNN
: Doanh nghiệ p nhà nướ c
HĐND
: Hộ i đồ ng nhân dân
IFAC
: Liên đoàn quốc tế của các nhà kế toán
INTOSAI
: Tổ chứ c quố c tế cá c Cơ quan Kiể m toá n tố i cao
KTNN
: Kiểm toán nhà nước
KTV
: Kiể m toá n viên
LKT
: Luật kiểm toán
NHNN
: Ngân hàng nhà nước
NSNN

và một số văn bản pháp luật khác. Gần 10 năm sau, KTNN hoạt động theo
Nghị định số 93/2003/NĐ-CP ngày 13/8/2003 của Chính phủ. Hiện nay, tổ
chức và hoạt động của KTNN được thực hiện theo Luật KTNN được Quốc
hội thông qua ngày 25/6/2005, Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2006.
Qua hơn 17 năm hoạt động, KTNN đã khẳng định được vị trí, vai trò
của mình trong cơ cấu bộ máy nhà nước và tính tất yếu khách quan là công cụ
kiểm tra, kiểm soát hoạt động quản lý kinh tế-tài chính nhà nước trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. KTNN đã thực hiện hàng
nghìn cuộc kiểm toán với quy mô lớn nhỏ khác nhau tại các đơn vị có sử dụng
ngân sách, tiền và tài sản nhà nước trên hầu hết các lĩnh vực. Qua kiểm toán
đã giúp các bộ, ngành, các tỉnh, thành phố và các đơn vị được kiểm toán nhìn
nhận và đánh giá đúng đắn thực trạng tình hình tài chính, khắc phục được 2
những yếu kém sơ hở trong quản lý kinh tế và sản xuất kinh doanh; phòng
ngừa tiêu cực, tham nhũng, cải tiến và hoàn thiện hệ thống quản lý và kiểm
soát nội bộ.
Thực tiễn đã chứng minh sự cần thiết phải củng cố và phát triển
KTNN như một công cụ kiểm tra, kiểm soát tài chính công không thể thiếu
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Tuy nhiên,
trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế, khuôn khổ pháp lý cho tổ
chức và hoạt động của KTNN vẫn còn nhiều tồn tại, bất cập:
Một là, thực tế, điều chỉnh hoạt động của KTNN của nhiều nước trên
thế giới đã khẳng định hiệu lực hoạt động của cơ quan KTNN tùy thuộc vào
địa vị pháp lý, chức năng và tính độc lập của cơ quan KTNN. Thông thường,
địa vị pháp lý của cơ quan KTNN được quy định trong Hiến pháp, các vấn đề
cụ thể về tổ chức và hoạt động của KTNN được quy định trong Luật KTNN.
Địa vị pháp lý của KTNN chưa được quy định trong đạo luật cơ bản Hiến

hiện hành về KTNN, cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về KTNN
nhằm điều chỉnh về tổ chức, hoạt động của KTNN một cách đầy đủ, toàn diện
hơn, tương xứng với nhiệm vụ mà KTNN đảm nhận, đặc biệt là phù hợp với
khuyến cáo của INTOSAI, tuân thủ chuẩn mực quốc tế và kế thừa những
thành tựu về phát triển tổ chức, hoạt động mà thế giới đã đạt được. Do vậy,
việc lựa chọn và nghiên cứu Đề tài "Pháp luật về kiểm toán nhà nước Việt
Nam đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế" làm luận văn thạc sĩ luật học là vô
cùng cần thiết.
2. Mc tiêu v nhim v ca đ ti
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
KTNN, phân tích đánh giá thực trạng về triển khai thực hiện pháp luật KTNN
ở nước ta hiện nay, nghiên cứ u kinh nghiệ m quố c tế , so sánh địa vị pháp lý,
chức năng nhiệm vụ của các cơ quan kiểm toán tối cao với KTNN Việt Nam,
từ đó đưa ra những giải pháp, phương hướng hoàn thiện pháp luật về KTNN,
góp phần xây dựng khuổn khổ pháp lý đầy đủ và toàn diện cho tổ chức và
hoạt động của KTNN trong điề u kiệ n hộ i nhậ p quố c tế hiệ n nay . 4
3. Đi tƣng v phm vi nghiên cu
Trên cơ sở nghiên cứu có hệ thống những vấn đề lý luận, kinh nghiệm
của quốc tế trong xây dựng luật và so sánh địa vị pháp lý, chức năng nhiệm
vụ của các cơ quan kiểm toán tối cao quốc tế với KTNN Việt Nam; phân tích
đánh giá thực trạng về triển khai thực hiện Luật KTNN và các văn bản hướng
dẫn thi hành tại KTNN, các đơn vị có liên quan và các đơn vị thuộc đối tượng
kiểm toán của KTNN trong năm năm qua.
4. Phƣơng phá p nghiên cƣ́ u củ a luận văn
Đề tài áp dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản: Phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp hệ thống hoá,
khảo sát, phân tích, tổng hợp, đánh giá từ thực tiễn để nghiên cứu những nội

tại nhiều cách hiểu khác nhau về kiểm toán. Tuy nhiên, quan niệm về kiểm
toán được chấp nhận phổ biến hiện này là: "Kiểm toán là quá trình các kiểm
toán viên độc lập và có năng lực tiến hành thu thập và đánh giá các bằng chứng
về các thông tin được kiểm toán nhằm xác nhận và báo cáo về mức độ phù
hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết lập" [19, tr. 5].
- Sự cần thiết khách quan của kiểm toán trong nền kinh tế thị trường
Kiểm toán ra đời, phát triển do yêu cầu quản lý và phục vụ cho quản lý.
Xã hội càng phát triển, nền kinh tế thị trường càng phức tạp thì thông tin kinh tế
càng có nguy cơ chứa đựng nhiều rủi ro, sai lệch, thiếu tin cậy. Có nhiều nguyên
nhân dẫn đến rủi ro thông tin: do sự cách trở thông tin, người ra quyết định khó
có khả năng tiếp cận trực tiếp với thông tin được cung cấp; do động cơ của ngư-
ời cung cấp thông tin, các thông tin đôi khi bị méo mó do người cung cấp thông
tin nhằm có lợi cho họ; do mức độ phức tạp của thông tin bởi dữ liệu quá nhiều
hay mức độ phức tạp của các nghiệp vụ kinh tế mà người cung cấp thông tin
không đủ khả năng xử lý. Để hạn chế rủi ro thông tin, người sử dụng thông tin
có thể tự kiểm tra trước khi sử dụng. Điều này sẽ rất tốn kém và không thực tế
bởi không phải người sử dụng thông tin nào cũng đủ điều kiện và thời gian để 6
tự kiểm tra thông tin trước khi ra quyết định. Để khắc phục yếu tố này một
phương cách tốt nhất là các thông tin trước khi công bố cho bên thứ ba (người
sử dụng thông tin) sẽ có một cơ quan, tổ chức kiểm toán để xác nhận mức độ
tin cậy. Các tổ chức kiểm toán sẽ thực hiện kiểm toán các thông tin, xác nhận
mức độ tin cậy và cung cấp cho người sử dụng. Người sử dụng thông tin có
thể yên tâm tiếp nhận các thông tin phục vụ cho công tác quản lý của mình
với mức rủi ro thấp nhất. Nếu chủ thể sử dụng thông tin là Nhà nước (Chính
phủ, Quốc hội) thì sẽ thành lập cơ quan kiểm toán thuộc cơ cấu nhà nước (gọi
là cơ quan KTNN) để kiểm toán các thông tin trước khi sử dụng cho hoạt
động quản lý của Nhà nước. Nếu là các tổ chức khác, các hãng kinh doanh sẽ

giá một cách toàn diện cả về quá khứ và tương lai. Về quá khứ, đối với các sự
kiện đã nảy sinh, kiểm toán với tư cách là người kiểm tra xác nhận sự việc đã
hoàn thành nhằm đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin. Như vậy,
chức năng kiểm toán xác nhận hay xác minh là chức năng hướng về quá khứ.
Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu của người sử dụng thông tin trong tương lai,
kiểm toán lại có thêm chức năng thứ hai đó là chức năng tư vấn hay chức
năng trình bày ý kiến, chức năng này hướng về tương lai.
- Phân loại kiểm toán
Việc phân loại kiểm toán thường được thực hiện theo hai cách cơ bản
sau đây:
Một là: Theo mục mục đích của kiểm toán (hay theo đối tượng trực
tiếp của kiểm toán)
Căn cứ vào mục đích cụ thể (hay đối tượng trực tiếp) của kiểm toán,
người ta thường chia kiểm toán thành ba loại là: kiểm toán hoạt động
(Performance Audit), kiểm toán tuân thủ (Compliance Audit) và kiểm toán
báo cáo tài chính (Audit of Financial Statements).
- Kiểm toán hoạt động là loại kiểm toán nhằm để xem xét và đánh giá
về tính kinh tế, tính hiệu lực và hiệu quả của các hoạt động được kiểm toán.
Tính kinh tế là sự tiết kiệm các nguồn lực. Hay đây còn gọi là nguyên tắc tối
thiểu, nghĩa là để đạt được mục tiêu nhất định cần dùng một lượng nguồn lực
ít nhất. Tính hiệu lực là khả năng về mức độ hoàn thành các nhiệm vụ và mục
tiêu đã xác định của đơn vị. Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất
với một lượng nguồn lực nhất định, hay đây còn gọi là nguyên tắc tối đa. 8
- Kiểm toán tuân thủ là loại kiểm toán nhằm để xem xét đơn vị được
kiểm toán có tuân thủ các quy định mà các cơ quan có thẩm quyền cấp trên hoặc
cơ quan chức năng của Nhà nước hoặc cơ quan chuyên môn đề ra hay không.
Đối tượng của kiểm toán tuân thủ khá linh hoạt. Nó có thể là việc tuân thủ các

việc kiểm tra và báo cáo về việc quản lý và sử dụng các nguồn lực của Nhà
nước ở các đơn vị.
- Kiểm toán độc lập: được tổ chức dưới dạng doanh nghiệp kiểm toán
(công ty hay hãng kiểm toán) nhằm cung cấp dịch vụ kiểm toán và các dịch
vụ khác có tính chuyên môn cho xã hội.
- Kiểm toán nội bộ: được tổ chức bên trong mỗi đơn vị, thực hiện
kiểm tra và cho ý kiến về các đối tượng được kiểm toán nhằm giúp đơn vị
thực hiện tốt các chức năng và nhiệm vụ của mình.
Hiện nay, ở nước ta trong nền kinh tế quốc dân có cả 3 loại kiểm toán
là KTNN, kiểm toán độc lập và kiểm toán nội bộ. Ba loại kiểm toán này rất
khác nhau về tổ chức bộ máy, phạm vi, đối tượng kiểm toán, hoạt động kiểm
toán và giá trị pháp lý của báo cáo kiểm toán. Các tổ chức kiểm toán độc lập
hoạt động dưới hình thức doanh nghiệp kiểm toán cung cấp dịch vụ kế toán
kiểm toán có thu phí theo nguyên tắc tự nguyện của kinh tế thị trường; hoạt
động theo chuẩn mực kiểm toán do Bộ Tài chính ban hành dựa trên chuẩn
mực kiểm toán quốc tế do Liên đoàn kế toán Quốc tế (IFAC) ban hành. Đối
với kiểm toán nội bộ, đây là một bộ phận trong cơ cấu tổ chức của các đơn vị,
của doanh nghiệp, kết quả kiểm toán không có giá trị pháp lý đối với bên
ngoài. KTNN là cơ quan kiểm tra tài chính nhà nước, thực hiện kiểm toán tất
cả các cơ quan, đơn vị, tổ chức có quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản
nhà nước. Tổ chức và hoạt động của KTNN theo quy định của Luật KTNN.
1.1.2. Kiểm toán nhà nước
1.1.2.1. Bản chất, chức năng, phạm vi và mô hình tổ chức và hoạt
động của kiểm toán nhà nước
- Bản chất của KTNN
Sự hình thành và phát triển của KTNN gắn liền với sự hình thành, ra
đời và phát triển của tài chính nhà nước mà chủ yếu là NSNN; xuất phát từ
yêu cầu đòi hỏi của việc kiểm tra, kiểm soát việc chi tiêu ngân sách và công
được Quốc hội nước Cộng hoà XHCN Việt Nam thông qua tại kỳ họp thứ bảy
Quốc hội khoá XI: "Kiểm toán nhà nước là cơ quan chuyên môn về lĩnh vực 11
kiểm tra tài chính nhà nước do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật" [38].
Theo quy định của Luật KTNN: "Hoạt động kiểm toán của Kiểm toán
nhà nước là việc kiểm tra, đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực
của báo cáo tài chính; việc tuân thủ pháp luật; tính kinh tế, hiệu lực và hiệu
quả trong quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước" [38].
Hoạt động KTNN phục vụ việc kiểm tra, giám sát của Nhà nước trong
quản lý, sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước; góp phần thực hành tiết
kiệm, chống tham nhũng, thất thoát, lãng phí, phát hiện và ngăn chặn hành vi vi
phạm pháp luật; nâng cao hiệu quả sử dụng ngân sách, tiền và tài sản nhà nước.
Việc kiểm toán của KTNN được thực hiện dưới hình thức Đoàn kiểm
toán. Đoàn kiểm toán do Tổng KTNN thành lập gồm có Trưởng đoàn, Phó
trưởng đoàn, các Tổ trưởng, các Kiểm toán viên (KTV) và các thành viên
khác. Nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của các thành viên Đoàn kiểm
toán được quy định tại các điều 45, 46, 47, 48, 49 của Luật KTNN.
- Chức năng của KTNN
Để thực hiện được mục tiêu quản lý thống nhất nền tài chính quốc gia,
nâng cao tính chủ động và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc quản lý và sử dụng NSNN, củng cố kỷ luật tài chính, sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả NSNN và tài sản nhà nước, ở hầu hết các quốc gia trên thế
giới đều cần phải thiết lập một cơ quan KTNN, mà theo thuật ngữ quốc tế
thường gọi là SAI (Supreme Audit Instutions). Vì vậy, KTNN là một cơ quan
trong bộ máy quyền lực của Nhà nước. Tuỳ thuộc vào thể chế chính trị và sự
phân chia quyền lực của mỗi nước mà KTNN có thể trực thuộc cơ quan lập
pháp (Quốc hội), hành pháp (Chính phủ) hoặc đứng độc lập với cả Quốc hội và

sử dụng kinh phí NSNN; báo cáo quyết toán của các chương trình dự án, các
công trình đầu tư của Nhà nước và các doanh nghiệp nhà nước (DNNN), v.v
Để xác nhận tính trung thực, hợp pháp của báo cáo quyết toán ngân sách các
cấp, các đơn vị dự toán NSNN; báo cáo tài chính của các doanh nghiệp phục
vụ cho việc phê chuẩn quyết toán. Ngoài việc thực hiện chức năng xác nhận,
KTNN kiến nghị với các cơ quan của Nhà nước sửa đổi, bổ sung các cơ chế
chính sách về quản lý kinh tế, tài chính phù hợp với điều kiện cụ thể trong 13
từng thời kỳ thông qua việc báo cáo kết quả kiểm toán với Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội; Chủ tịch nước; Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ theo
quy định của Luật KTNN, Luật NSNN.
- Phạm vi đối tượng của KTNN
Là công cụ giúp cơ quan quyền lực nhà nước thực hiện việc kiểm soát
nền tài chính nhà nước, đối tượng của KTNN trước hết và đương nhiên là các
hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức liên quan tới thu - chi ngân sách
và các công quỹ nhà nước, quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí từ NSNN,
tiền và tài sản nhà nước. Nói một cách khác, ở đâu có hoạt động liên quan đến
thu, chi quản lý và sử dụng NSNN, các công quỹ và tài sản nhà nước thì ở đó
phải thực hiện kiểm tra nhà nước. Các cơ quan, đơn vị, tổ chức có hoạt động
là đối tượng của KTNN bao gồm các cơ quan hành chính nhà nước các cấp,
các cơ quan chức năng làm nhiệm vụ thu, chi và quản lý ngân sách, tiền và tài
sản nhà nước, các tổ chức sự nghiệp nhà nước và tổ chức khác có sử dụng
NSNN (các đơn vị thụ hưởng ngân sách), các tổ chức chính trị, chính trị - xã
hội, xã hội - nghề nghiệp được NSNN cấp một phần hoặc toàn bộ kinh phí,
các DNNN, các doanh nghiệp và tổ chức khác được NSNN trợ cấp, bảo lãnh,
góp cổ phần Về nguyên tắc, phạm vi của các hoạt động thuộc đối tượng của
KTNN không bị giới hạn, không có vùng cấm. Tuy nhiên, do phạm vi của các
hoạt động đó rất rộng lớn và đơn dạng, mặt khác do một số yếu tố đặc thù về

nhận trợ giá, trợ cấp của nhà nước, các đơn vị có công nợ được nhà nước bảo
lãnh mà không phải là DNNN có thể thuê doanh nghiệp kiểm toán kiểm toán
nhưng các doanh nghiệp kiểm toán phải thực hiện theo chuẩn mực, quy trình
KTNN và gửi báo cáo kiểm toán cho cơ quan KTNN.
- Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN
Mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động của KTNN ở tất cả các quốc gia
trên thế giới dù được thiết kế khác nhau như thế nào nhưng đều phải tuân thủ
nguyên tắc hoạt động là độc lập, khách quan, chỉ tuân theo pháp luật.
Trên phạm vi toàn thế giới, hiệp hội nghề nghiệp được hình thành từ
năm 1963, là cầu nối chung giữa các cơ quan KTNN và là diễn đàn chung cho
các nước tham gia cung cấp thông tin về hoạt động, trao đổi chuyên môn và
kinh nghiệm hoạt động, đó là Tổ chức quốc tế các cơ quan kiểm toán tối cao
(International Organisation of Supereme Audit Institute - INTOSAI), hiện nay 15
đã có 180 nước tham gia. Tháng 7/1996 KTNN Việt Nam trở thành thành
viên chính thức của INTOSAI.
Đại hội lần thứ IX của các SAI tổ chức tại Lima, thủ đô của Pêru đã
thông qua chỉ dẫn hoạt động kiểm toán của các SAI gọi tắt là Tuyên bố Lima.
Tuyên bố Lima đã được Đại hội lần thứ IX của INTOSAI thông qua vào
tháng 10/1977. Nội dung của bản Tuyên bố này là kết quả của sự hợp tác
nghiên cứu giữa các thành viên của INTOSAI, đây là những định hướng cơ
bản và đã được thừa nhận như là những thông lệ phổ biến đối với việc thiết
lập và tổ chức SAI, tổ chức kiểm tra tài chính từ bên ngoài đối với nền tài
chính công ở mọi quốc gia. Mặc dù Tuyên bố Lima không bị ràng buộc về
mặt pháp lý quốc tế, nhưng nó được xem như là một văn kiện chung thích hợp
với mọi hình thức tổ chức hệ thống kiểm tra tài chính ở các nước thành viên.
Trên phạm vi khu vực cũng hình thành hiệp hội nghề nghiệp, ở khu
vực Châu Á, Tổ chức các SAI Asian (Asian Organisation of Supereme Audit

điều kiện để khai thác triệt để những ưu điểm của phương pháp quản lý trực
tuyến, giảm bớt những ách tắc qua nhiều khâu trung gian, bảo đảm thu nhận
thông tin được thực hiện nhanh chóng. Đồng thời, mỗi KTNN khu vực được
giao nhiệm vụ kiểm toán trên phạm vi khu vực (bao gồm một số tỉnh), vừa
giảm chi phí cho hoạt động kiểm toán lại vừa có điều kiện am hiểu điều kiện
hoạt động của các đơn vị được kiểm toán, nhất là các đặc điểm ảnh hưởng đến
hoạt động kinh tế - tài chính và thu - chi ngân sách hàng năm.
Đến nay, cơ cấu tổ chức của KTNN gồm có 31 đơn vị cấp Vụ và
tương đương trực thuộc gồm 6 đơn vị tham mưu thuộc bộ máy điều hành, 8
KTNN chuyên ngành (kiểm toán các Bộ, ngành, cơ quan ở trung ương, tập
đoàn, tổng công ty 90, 91, các ngân hàng, tổ chức tài chính, dự án nhóm A ),
13 KTNN khu vực (kiểm toán ngân sách địa phương) và 3 đơn vị sự nghiệp.
- Kiểm toán viên nhà nước
KTV trong bộ máy KTNN thường được gọi là KTV nhà nước (State
Auditors). KTV nhà nước thuộc hệ thống công chức của Nhà nước, phải đảm
bảo những tiêu chuẩn về chuyên môn cũng như các tiêu chuẩn khác ở một
mức độ nhất định. Tuỳ theo luật pháp của từng quốc gia, KTV nhà nước có
thể được tuyển dụng hay bổ nhiệm. Hoạt động chuyên môn của KTV nhà
nước phù hợp với luật pháp và với quy định chuyên môn. 17
1.1.2.2. Pháp luật về Kiểm toán nhà nước
Ở nước ta, khái niệm pháp luật về KTNN chưa được các nhà nghiên
cứu, các cán bộ quản lý nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện và có hệ
thống. Do vậy, đến nay trong khoa học pháp lý ở Việt Nam, vẫn chưa đưa ra
được khái niệm pháp luật về KTNN một cách chính thống.
Từ điển luật học ghi: "Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự mang
tính bắt buộc chung do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh
các quan hệ xã hội, phục vụ và bảo vệ quyền lợi của các tầng lớp dân cư trong

khăn, phiền hà cho đơn vị được kiểm toán; nhận hối lộ ; nghiêm cấm đơn vị
được kiểm toán và tổ chức, cá nhân có liên quan cản trở công việc của KTNN
và KTV nhà nước, mua chuộc, hối lộ KTV nhà nước ; nghiêm cấm mọi tổ
chức, cá nhân can thiệp trái pháp luật và hoạt động kiểm toán của KTNN
(Điều 12 Luật KTNN); Bắt buộc như đơn vị được kiểm toán phải cung cấp
đầy đủ, kịp thời các thông tin, tài liệu cần thiết để thực hiện kiểm toán theo
yêu cầu của KTNN và KTV nhà nước; thực hiện đầy đủ, kịp thời các kết luận,
kiến nghị của KTNN (Điều 65 Luật KTNN); Cho phép như đơn vị được
kiểm toán được thảo luận, giải trình bằng văn bản về những vấn đề nêu trong
dự thảo báo cáo kiểm toán nếu xét thấy chưa phù hợp; yêu cầu KTNN, KTV
nhà nước bồi thường thiệt hại trong trường hợp gây thiệt hại cho đơn vị được
kiểm toán theo quy định của pháp luật (Điều 64 Luật KTNN).
Xuất phát từ khái niệm pháp luật về KTNN đã được trình bày ở trên
và qua nghiên cứu các văn bản pháp luật về KTNN hiện hành, có thể rút ra
những đặc trưng cơ bản của nó như sau:
Thứ nhất, pháp luật về KTNN là cơ sở pháp lý cho hoạt động kiểm tra
tài chính ngoại vi
Việc thành lập SAI và mức độ độc lập cần thiết của nó cần được quy
định trong Hiến pháp; các quy định cụ thể có thể quy định trong Luật KTNN.
Đặc biệt, Toà án tối cao cần phải có sự bảo vệ đầy đủ về mặt pháp luật nhằm
chống lại các tác động từ bên ngoài đối với sự độc lập và thẩm quyền kiểm
toán của SAI.
Pháp luật về KTNN ở nước ta không ngừng được hoàn thiện đã tạo
cơ sở pháp lý cho tổ chức và hoạt động của KTNN đáp ứng yêu cầu của công 19
cuộc đổi mới đất nước, đồng thời phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực
kiểm toán quốc tế. Pháp luật về KTNN đã xác lập nguyên tắc hoạt động
KTNN độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, trung thực, khách quan; xác lập

thể là bảo vệ những quyền theo luật định của các chủ thể tham gia vào các quan
hệ KTNN; đồng thời, đảm bảo các chủ thể tham gia vào các quan hệ này phải
thực hiện đúng các nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Chức năng này được
thực hiện thông qua các biện pháp cưỡng chế thi hành bằng các loại chế tài cuả
các cơ quan, cá nhân có thẩm quyền theo luật định đối với những chủ thể có
hành vi vi phạm pháp luật về KTNN, xâm phạm tới các quan hệ về KTNN nhằm
phục hồi các quan hệ bị vi phạm. Chức năng giáo dục. Chức năng giáo dục của
pháp luật KTNN được thực hiện thông qua sự tác động của pháp luật vào ý thức
con người để hành động phù hợp với cách cư xử được quy định trong các QPPL.
Chức năng này của pháp luật về KTNN được thực hiện thông qua việc ban hành,
tuyên truyền phổ biến pháp luật đối với các chủ thể tham gia vào các quan hệ
pháp luật về KTNN nhằm làm cho các chủ thể tự giác thực hiện, từ đó hướng
hành vi của các chủ thể này xử sự phù hợp với các quy định của pháp luật. Ba
chức năng của pháp luật trên có mối quan hệ chặt chẽ, trong đó chức năng điều
chỉnh các quan hệ trong hoạt động KTNN là chức năng trung tâm.
Nội dung của hệ thống pháp luật về KTNN là sự thể hiện các quan hệ
trong hoạt động KTNN thành các chế định, các quy phạm; có thể tổng hợp
thành các nhóm chủ yếu sau:
- Nhóm các quy định về địa vị pháp lý, tổ chức bộ máy của KTNN
Pháp luật về KTNN xác định địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ và
quyền hạn của cơ quan KTNN trong hệ thống tổ chức bộ máy Nhà nước. Địa
vị pháp lý của các cơ quan Nhà nước nói chung được quy định cụ thể trong
Hiến pháp và trong các văn bản QPPL, là cơ sở pháp lý để xây dựng tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước.
Địa vị pháp lý của cơ quan KTNN được xác định trong mối quan hệ
nhất định của bộ máy nhà nước, đó là các mối quan hệ giữa cơ quan KTNN với
các cơ quan quyền lực, các cơ quan chức năng có thẩm quyền của Nhà nước.
Hiện nay, KTNN các nước trên thế giới có địa vị pháp lý khác nhau; có
nước, KTNN thuộc cơ quan hành pháp (Chính phủ) (như KTNN Trung Quốc,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status