Thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay - Pdf 25

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN HỒNG ĐỨC
THUYẾT PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI TỬ VÀ Ý NGHĨA
CỦA NÓ
ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP
QUYỀN XHCN
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SỸ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2004

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


1. Tính cấp thiết của đề tài
01
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
02
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
03
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận văn
04
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
04
6. Những đóng góp của luận văn
04
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
04
8. Kết cấu của luận văn
04
PHẦN NỘI DUNG
05
CHƢƠNG 1: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG THUYẾT PHÁP TRỊ
CỦA HÀN PHI TỬ
05
1.1. Lƣợc sử hình thành trƣờng phái Pháp trị
05
1.2. Những tƣ tƣởng cơ bản trong thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử
15
Kết luận chương 1
36
CHƢƠNG 2: MỘT SỐ GIÁ TRỊ TRONG THUYẾT PHÁP TRỊ CỦA HÀN PHI
TỬ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƢỚC PHÁP QUYỀN
XHCN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

sống xã hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, xây dựng và hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu
đó, đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: “Nhà nước ta là công
cụ chủ yếu để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp
quyền của dân, do dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp
luật” [9, 131-132].
Trong quá trình kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao
hiệu quả hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc
những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc
biệt quan trọng. Bởi vì, những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở
phương Đông và phương Tây, đều là sản phẩm của trí tuệ con người, đã được
kiểm nghiệm qua thực tiễn lịch sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp
chúng ta tìm ra những giải pháp hữu hiệu để xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, thuyết
Pháp trị của Hàn Phi Tử, một trong những tư tưởng chính trị - xã hội nổi bật
trong thời kỳ Trung Quốc cổ đại, đã để lại nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn
đối với quá trình thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước. 2
Xuất phát từ những đòi hỏi về lý luận và thực tiễn nêu trên, việc nghiên
cứu thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử là thực sự cấp thiết. Đó là lý do tác giả
chọn đề tài: “Thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa của nó đối với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay” làm công
trình nghiên cứu của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hơn mười năm trở lại đây, thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước
nói chung, quá trình cải cách hoạt động quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà

Nội); Ngô Tất Tố (1997): Lão Tử (NXB TP Hồ Chí Minh); Đinh Văn Mậu
(1997): Lịch sử các học thuyết chính trị - pháp lý (NXB TP Hồ Chí Minh);
Dương Xuân Ngọc chủ biên (2001): Lịch sử tư tưởng chính trị (NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội); Phan Ngọc dịch (2001): Hàn Phi Tử (NXB Văn học,
Hà Nội);…
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đều đã làm sáng những vấn
đề hoặc về quá trình cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước Việt Nam trong
thời kỳ đổi mới; hoặc về những tư tưởng chính trị, pháp lý trên thế giới trong
lịch sử. Do vậy, việc kế thừa hai hướng nghiên cứu trên sẽ mang lại những ý
nghĩa lý luận và ý nghĩa thực tiễn nhất định cho việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Luận văn có mục đích nghiên cứu những nội dung cơ bản trong thuyết
Pháp trị của Hàn Phi Tử và ý nghĩa của nó đối với việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Trình bày những nội dung cơ bản trong thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử.
- Làm sáng tỏ giá trị lịch sử của thuyết Pháp trị đối với việc xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay. 4
4. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu nội dung thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử
(một học thuyết chính trị – xã hội nổi bật trong xã hội Trung Quốc thời kỳ cổ
đại) thông qua bộ Hàn Phi Tử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận là hệ thống những quan
điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, những
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nhà nước.

một thời kỳ có nhiều biến động nhất. Lịch sử gọi đó là thời kỳ Xuân Thu (770
- 403 tr.CN) - Chiến Quốc (403 - 221 tr.CN) [21, 10], thời kỳ đánh dấu bước
chuyển quan trọng từ chế độ phong kiến quý tộc cát cứ sang chế độ phong
kiến quân chủ trung ương tập quyền.
Tới thời kỳ này, đồ sắt đã xuất hiện và tạo ra những công cụ sản xuất
phổ biến. Nhờ vậy, nền sản xuất nông nghiệp và thủ công nghiệp phát triển
mạnh. Nền kinh tế thương nghiệp cũng có nhiều khởi sắc. Nhiều thành thị
thương nghiệp buôn bán nhộn nhịp hình thành ở các nước chư hầu (Hàn, Tề,
Tần, Sở,…). Kinh tế phát triển mạnh đã ảnh hưởng trực tiếp tới kết cấu giai
tầng xã hội, đặc biệt là hình thức sở hữu ruộng đất. Nếu như vào đầu thời nhà
Chu, đất đai và thần dân đều thuộc về nhà vua thì nay, quyền sở hữu tối cao
ấy đã bị chia sẻ bởi tầng lớp địa chủ mới lên. Bị mất đất, mất dân, địa vị kinh
tế, chính trị của giai cấp quý tộc thị tộc nhà Chu ngày càng sa sút. Ngôi Thiên
tử của nhà Chu cũng chỉ còn là hình thức. Các nước chư hầu không chịu phục
tùng Vương mệnh, không chịu cống nạp, mang quân thôn tính lẫn nhau, tự
xưng là Bá (“Vương đạo suy vi”). Chiến tranh xảy ra triền miên, từ hơn một
nghìn nước thời Tây Chu, đến thời Xuân Thu chỉ còn hơn một trăm nước lớn
và sang thời Chiến Quốc chỉ còn lại bảy nước lớn là: Sở, Hàn, Triệu, Ngụy,
Yên, Tề, Tần. Mọi trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn. Thể chế chính trị nhà Chu dựa 6
vào Lễ trở thành hình thức và cứng nhắc. Chế độ chính trị mục nát, chiến
tranh liên miên, trật tự xã hội hỗn loạn xô đẩy quần chúng nhân dân vào thảm
cảnh đói nghèo, ly tán, bị áp bức nặng nề,… Vì vậy, mọi người luôn khát
khao cuộc sống bình yên, hạnh phúc trong một đất nước thống nhất.
Với chính sách Bá đạo, vua nước chư hầu nào cũng muốn thu phục được
nhiều nhân tài, tập hợp lực lượng, tăng cường sức mạnh để trở thành bá chủ
thiên hạ; thay thế chế độ Vương đạo nay chỉ còn là hư danh của nhà Chu. Bởi
vậy, trong thời kỳ này, tầng lớp trí thức và những người có tài đều được các

Pháp gia chủ trương dùng “Pháp luật” để cai trị xã hội. Nếu luật pháp
nghiêm minh, thưởng phạt công bằng thì nhà cầm quyền chẳng cần tài đức mà
đất nước vẫn hùng mạnh.
Về thực chất, tư tưởng của những trường phái triết học kể trên đều nhằm
bảo vệ lợi ích của một tầng lớp, giai cấp nhất định trong xã hội đương thời.
1.1.2. Những Pháp gia tiêu biểu trước Hàn Phi Tử
a. Quản Trọng
Quản Trọng (? – 645 tr.CN) là người mở đường cho phái Pháp gia [21,
37]. Trong thời gian làm tướng quốc nước Tề, ông đã giúp cho Tề Hoàn Công
cai trị đất nước. Nước Tề từ suy thoái thành thịnh vượng và trở thành bá chủ
các nước chư hầu. Theo Quản Trọng, quyền lập pháp thuộc về vua. Quy tắc
lập pháp là lấy tính người và phép trời làm tiêu chuẩn. Tuy nhiên, việc hành
pháp thì phải công bố cho rõ ràng, thi hành cho nghiêm chỉnh. Pháp luật phải
ổn định, thưởng phạt phải công bằng và nghiêm minh.
Đặc biệt, Quản Trọng là người đề cao vai trò của dân, thuận theo ý dân,
“dân muốn cái gì thì cấp cho cái đó, không muốn cái gì thì trừ cho cái đó”.
Ông luôn tìm cách giúp đỡ dân, thực hiện giảm bớt thuế má, khuyếch trương
công thương, dùng chính sách kinh tế tự do, làm cho dân giàu, nước mạnh 8
b. Thân Bất Hại
Thân Bất Hại (401 – 337 tr.CN) là lãnh tụ của nhóm chủ trương dùng
“thuật” để trị quốc. Với ông, chính trị li khai khỏi đạo đức. Vì vậy, có người
cho rằng ông mới thực là thủy tổ của Pháp gia.
Làm tướng quốc nước Hàn trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó
khăn, dân chúng đói nghèo, nội chính bất hòa, Thân Bất Hại đã kết hợp thuyết
“hình danh” (danh phải đúng với thực) với “thuật” (mưu mô sử dụng bề tôi
của vua để đạt mục đích cai trị) lập lại trật tự và ổn định đất nước.
Mặc dù chê trách Thân Bất Hại chỉ chuyên dùng “thuật”, không lo về

ban bố cho khắp trong nước ai cũng biết và từ trên xuống dưới ai cũng phải
thi hành, không phân biệt giai cấp; pháp luật đã định rồi thì không ai được
bàn cãi, không được làm sai ý nghĩa của pháp luật để tìm lợi cho mình [21,
72]. Điều đặc biệt trong “pháp” của Thương Ưởng là tội dù nhẹ cũng phạt thật
nặng để cho dân sợ, lần sau không dám phạm phải. Đó là cách “dùng hình
phạt để trừ bỏ hình phạt”.
Như vậy, Pháp gia gồm ba phái chính: “thế” của Thận Đáo, “thuật” của
Thân Bất Hại và “pháp” của Thương Ưởng. Ngoài ra còn có Tử Sản, Lí
Khôi, Ngô Khởi, nhưng Hàn Phi Tử mới là người tổng hợp cả ba phái này và
phát triển thêm thành một thuyết cai trị - thuyết Pháp trị, có ảnh hưởng rất
lớn trong lịch sử Trung Quốc.
1.1.3. Hàn Phi Tử – Người tổng hợp và phát triển tư tưởng Pháp gia
a. Vài nét về sự nghiệp
Hàn Phi Tử xuất thân từ giới quý tộc nước Hàn, ông lấy tên nước làm họ
cho mình. Hàn Phi Tử sinh năm 280 tr.CN, mất vào năm thứ sáu Hàn Vương
An, tức là năm thứ mười bốn Tần Thủy Hoàng, năm 233 tr.CN. Ba năm sau
khi ông qua đời, nước Hàn cũng bị diệt vong [21, 93]. Cũng sau khi ông qua 10
đời mười hai năm, năm 221 tr.CN, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc
[21, 10].
Thời đại của ông là thời kỳ sau cùng của thời Chiến Quốc, các chư hầu
tranh hùng, tranh bá chẳng khác nào như nước với lửa. Nước Tần từ sau đời
Tần Hiếu Công đã thi hành chính sách Pháp gia được sáu đời vua, đất nước
ngày càng giàu mạnh, mong muốn nhanh chóng thâu tóm thiên hạ. Nước Hàn
có nhiều đồi núi, đất đai cằn cỗi, dân chúng nghèo khổ, lại bị kẹp giữa các
nước lớn như Tần ở phía tây, Sở ở phía nam, Tề ở phía đông, Triệu, Ngụy ở
phía bắc. Trong “Thất hùng” thời Chiến Quốc, Hàn là nước nhỏ bé, yếu ớt
nhất. Do tiếp giáp với Tần hùng mạnh nên Hàn luôn chịu đủ mọi sự uy hiếp.

Mười hai năm sau khi ông qua đời, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc.
Những chính sách mà Lý Tư dùng khi chấp chính nước Tần có nhiều chủ
trương giống Hàn Phi.
b. Tác phẩm tiêu biểu
Hàn Phi Tử bắt đầu viết sách vào khoảng năm thứ 8 đời Tần Thủy
Hoàng (năm 239 tr.CN) [21, 105]. Những tác phẩm của ông đã có những ảnh
hưởng mạnh mẽ và phổ biến rất nhanh trong xã hội Trung Quốc đương thời.
Theo Tư Mã Thiên, tác phẩm của Hàn Phi gồm trên một vạn chữ [2, 64].
Khoảng 300 năm sau ngày Hàn Phi mất, Lưu Hướng thu thập các tác phẩm
của ông được 55 thiên.
Theo thời gian, những tác phẩm của Hàn Phi Tử ít nhiều đã bị thất lạc,
một số nội dung đã bị sửa đổi, hoặc không phải là của ông mà do người đời
sau viết thêm vào. Tới nay, bộ Hàn Phi Tử chỉ còn ba bản bằng tiếng Hán
[21, 107]:
+ Hàn Phi Tử tập giải của Vương Tiên Thận đời Thanh (Trung Quốc),
khắc từ năm Quang Tự thứ 22 (1896). 12
+ Hàn Phi Tử bạch thoại chú giải của Diệp Ngọc Lân (Hoa Liên xuất
bản xã, không đề in năm nào), bản này chỉ có 33 trong 55 thiên.
+ Hàn Phi Tử hiệu thích của Trần Khải Thiên (Trung Hoa tùng thư,
1958).
Bộ Hàn Phi Tử được dịch ra tiếng Việt với bản dịch của Nguyễn Ngọc
Huy (Lửa thiêng xuất bản, năm 1974). Và đặc biệt, phổ biến hiện nay là hai
bản dịch tương đối đầy đủ:
+ Nguyễn Hiến Lê - Giản Chi (1994): Hàn Phi Tử, NXB Văn hóa thông
tin, Hà Nội.
+ Phan Ngọc (2001): Hàn Phi Tử, NXB Văn học, Hà Nội.
Như vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Hàn Phi là rất khó khăn. Trong luận

Dương quyền
Nêu cao uy quyền của nhà vua
Thiên IX
Bát gian
Chỉ ra 8 loại bề tôi gian tà mà vua phải đề phòng
Thiên X
Thập quá
Chỉ ra 10 điều lỗi mà vua hay phạm phải 13
Thiên XI
Cô phẫn
Nói lên nỗi phẫn uất của người tài mà không được
trọng dụng
Thiên XII
Thuyết nan
Chỉ ra những cái khó khăn và nguy hiểm của việc
du thuyết
Thiên XIII
Hòa thị
Chuyện họ Hòa (nội dung giống như thiên Cô
phẫn)
Thiên XIV
Gian kiếp
thí thần
Phân tích chuyện bề tôi gian dối, lộng hành, khống
chế và giết vua; do vậy, vua phải dụng pháp
nghiêm minh
Thiên XV

Nói về thuật cai trị của vua, quan sát hành động
của bề tôi
Thiên XXV
An nguy
Chỉ ra 7 thuật làm cho nước an và 6 đường làm
cho nước nguy
Thiên XXVI
Thủ đạo
Phép giữ nước là thưởng hậu, phạt nặng
Thiên XXVII
Dụng nhân
Chỉ ra cách dùng người
Thiên
XXVIII
Công danh
Xét về lập công và thành danh
Thiên XXIX
Đại thể
Chỉ ra những điều cốt yếu của việc trị quốc
Thiên XXX
Nội trừ thuyết
thượng
Chỉ ra những phép tắc và sự cố của việc trị quốc 14
Thiên XXXI
Nội trừ thuyết
hạ
Phân tích 6 thuật cai quản bề tôi của vua

XXXVIII
Nạn tam
Pháp phải rõ ràng, thuật phải bí mật
Thiên
XXXIX
Nạn tứ
Luận về thế, vua tôi phải có sự phân định rõ ràng
Thiên XL
Nạn thế
Phê bình và bổ sung thuyết “thế” của Thận Đáo
Thiên XLI
Vấn biện
Phê phán những tranh luận học thuật không hợp
với pháp luật
Thiên XLII
Vấn Điền
Nói vè cách dùng người, thăng tiến phải tuân thủ
pháp luật
Thiên XLIII
Định pháp
Việc kết hợp giữa thuật và pháp của Hàn Phi Tử
Thiên XLIV
Thuyết nghi
Nói về sự nghi ngờ, một nguyên tắc của thuật
dùng người
Thiên XLV
Ngụy sử
Đề cao đạo trị quốc (lợi, uy và danh) và trọng pháp
Thiên XLVI
Lục phản

Thiên LV
Chế phân
Nội dung về chế định hình phạt, công tội rõ ràng

c. Vài nét về mối liên hệ giữa Hàn Phi Tử và hai phái Nho gia, Đạo gia
Những thay đổi dữ dội của thời đại đã tác động mạnh mẽ tới sự bảo thủ
của lòng người. Những gì mà Nho gia trước đây nhấn mạnh, lấy đó để duy trì
trật tự lễ nghĩa đạo đức của xã hội Tông pháp đã mất dần tác dụng; luật pháp
mới đã thay thế nó, trở thành chuẩn mực cho sự ổn định xã hội.
Học thuyết của Tuân Tử (một Nho gia tiêu biểu) chịu ảnh hưởng mạnh
mẽ của trào lưu thời đại, dung hợp không ít những tư tưởng Pháp gia. Để
thích hợp hơn nữa với sự cạnh tranh quyết liệt trong giai đoạn cuối của thời
Chiến Quốc, các đệ tử của ông đã tiến thêm một bước, xuất hiện với vị thế
đàng hoàng của Pháp gia. Hàn Phi Tử và Lý Tư đều là học trò của Tuân Tử;
một người là nhân vật tiêu biểu, tập đại thành của tư tưởng Pháp gia, người
kia thì làm khanh tướng đắc lực cho Tần Thủy Hoàng. Như vậy, rõ ràng là tư
tưởng Hàn Phi là sự kế thừa và phát triển tư tưởng Tuân Tử. Tuân Tử cho
rằng bản chất con người là ác, thì “nhân tính” theo Hàn Phi là chỉ biết lo cho
lợi ích của riêng mình. Như vậy, điểm tương đồng giữa Hàn Phi và Tuân Tử
đều ở những tư tưởng Pháp gia chứ không phải là những ngôn luận về cái tinh
túy của Nho gia. 16
Theo đuổi học thuyết Pháp gia, trong thiên L – Hiển học, Hàn Phi đã phê
phán gay gắt những lý luận của Nho gia; ông cho rằng những tư tưởng của
Nho gia thường nói nhiều, làm ít, ảo tưởng. Theo ông, họ thường lấy chuyện
xưa làm khuôn mẫu cho thời nay, không dám làm gì khác với lời Chu Công,
Khổng Tử. Dựa vào lịch sử phát triển của xã hội, ông chống lại việc các nhà
Nho muốn đưa xã hội đương thời trở về thời thượng cổ, thời kỳ của các bậc

noi theo những phép tắc bất biến, khi bàn việc làm ở đời thì dựa theo tình
hình của thời mình mà đặt ra những biện pháp” [31, 540]. Chỉ có như vậy
mới phù hợp với yêu cầu của hiện thực xã hội, đất nước mới hùng mạnh.
Như đã nói ở trên, Hàn Phi Tử đã nhiều lần phê phán các Nho gia với
thói hoài cổ, trọng cổ và kinh viện. Mặt khác, ông không phải là người duy
tâm, mê tín. Cho nên, chúng ta có thể khẳng định rằng, thế giới quan cơ bản
của Hàn Phi Tử là duy vật, cụ thể là chủ nghĩa duy lợi, lý luận và chế độ
chính trị đều phải hợp thời, khi thời đại thay đổi thì chúng cũng phải thay đổi.
Trong chính trường đương thời, sức mạnh là cơ sở để so sánh sự hơn
thua của mỗi nước. Vấn đề bức thiết là bổ sung thực lực cho đất nước ổn
định, phú cường. Từ đó, nước nhỏ có thể tự bảo vệ được mình, nước lớn có
thể tranh bá đồ vương được. Muốn đạt được mục tiêu này, cần phải bắt đầu từ
việc cải tổ nội chính, tự lực cánh sinh, thực hành chủ nghĩa “trọng nông” (coi
trọng việc phát triển nông nghiệp) và chủ nghĩa “công quốc” (quân phiệt). Đó
là phương sách chính trị của đế vương [21, 388].
Về nhân sinh quan: Bản tính con người suy đến cùng là “thiện” hay
“ác”? Đại biểu cho Nho gia, Mạnh Tử khẳng định tính “thiện” là bản tính của
con người, nhưng ông cũng không phủ nhận những ảnh hưởng to lớn của yếu
tố hoàn cảnh sống. Theo ông, cần phải thuần dưỡng tính thiện cho thật tốt,
phải kiềm chế những ham muốn. 18
Trái với các Nho gia theo thuyết Đức trị, Tuân Tử lại bàn về tính “ác”
của con người. Đó là những ham muốn vô cùng, vô tận làm cho con người
tranh giành, hãm hại lẫn nhau. Bởi vậy, ông duy trì tư tưởng “lễ trị”, hình
thành nên sức mạnh giáo hóa, giúp con người kiềm chế những ham muốn có
tính bẩm sinh, uốn nắn những hành vi sai lệch, nhằm duy trì trật tự và an toàn
cho xã hội.
Là học trò của Tuân Tử, Hàn Phi bàn đến tính người thiết thực hơn, cụ

nhân riêng tư mà được lan truyền rộng rãi thì xã hội hỗn loạn, những điều
khoản quốc gia được thực thi rộng rãi thì xã hội sẽ ổn định. Bụng dạ tư lợi của
thần dân là chạy theo những ham muốn cá nhân, có những hành vi bỉ ổi để
mưu cầu cái lợi cho riêng mình, gia đình mình. Cho nên, bậc vua tài giỏi,
sáng suốt ngồi trên ngai vàng thì bề tôi sẽ từ bỏ lòng dạ tư lợi đó, thực hiện
những điều khoản quy định của đất nước. Ngược lại, hôn quân mà ngồi trên
ngai vàng thì bề tôi sẽ bất chấp lợi ích chung của quốc gia mà làm việc theo
lòng dạ tư lợi. Cho nên, lòng dạ của quần thần và vua chúa không giống nhau,
mối quan hệ vua tôi cũng là sự tính toán hơn thiệt bởi lòng tư lợi của bề tôi.
Do đó, bậc minh quân cần phải định rõ ban thưởng để khuyến khích
động viên, định rõ hình phạt nghiêm minh để răn đe. Nếu ban thưởng và hình
phạt chính xác, rõ ràng thì dân sẽ dốc lòng, đốc sức; không quản ngại hy
sinh; làm được như vậy thì binh lực sẽ cường thịnh, vua được tôn vinh. Còn
nếu như hình phạt và ban thưởng không rõ ràng thì người dân không có công
lao gì cũng cầu mong được lợi, khi phạm tội cũng cầu mong được tha tội, như
vậy, binh lực của đất nước sẽ yếu kém, vua cũng ở vào vị thế thấp kém, bị áp
bức và lăng nhục. Cho nên có thể nói rằng công và tư phải được phân chia
cho rõ ràng, pháp luật và những điều cấm phải được nghiên cứu xem xét kỹ
càng trước khi ban hành (Thiên XIX – Sức tà) [31, 168]. 20
Như vậy, theo Hàn Phi Tử, bản tính con người là mưu lợi cho riêng
mình, bề tôi có lòng dạ tư lợi, nhưng nếu khéo léo vận dụng pháp chế rõ ràng,
chính xác để tăng cường kiềm chế những ham muốn cá nhân thì họ cũng biết
chấp hành những quy định của đất nước.
Mặt khác, việc tôn trọng pháp luật cũng sẽ làm cho đất nước giàu mạnh.
Trong thực tế, không có nước nào cường thịnh mãi mãi, và cũng không có
nước nào cứ yếu kém mãi mãi. Quan lại chấp pháp mà kiên cường, không bẻ
cong pháp luật để theo lợi riêng, đất nước sẽ cường thịnh. Ngược lại, quan lại

Xã hội hỗn loạn, bản tính con người là mưu lợi riêng. Hàn Phi khẳng
định chỉ có pháp luật mới bảo vệ được trị an của xã hội, mới loại bỏ được
lòng tư lợi quá đáng của con người. Nghĩa là, pháp luật phải có những chế
định, chế tài xóa bỏ những tính xấu, hành vi xấu của con người để tạo nên
một nội lực quốc gia mạnh. Pháp luật trở thành chuẩn mực cao nhất của việc
trị quốc.
Để đảm bảo định chế pháp luật, pháp luật phải thành văn và được công
bố rộng rãi. Theo Hàn Phi, cái gọi là “pháp” phải là bộ luật thành văn, được
biên soạn, in ấn cẩn thận, được công bố cho mọi người đều biết. Còn cái gọi
là “thuật” là những biện pháp được giữ kín trong lòng vua để sai khiến quần
thần. Pháp luật càng rõ ràng, rành mạch càng tốt, dân chúng mới thi hành
được. Trong thiên XXXVIII – Nạn tam, ông viết: “…bậc vua sáng nói đến
pháp luật thì những người thấp hèn trong thiên hạ không ai không nghe,
không biết…” [31, 458].
Pháp luật phải rõ ràng, tường tận. Nếu sách vở mơ hồ thì người học
phải suy xét, tìm hiểu ý nghĩa của nó. Pháp lệnh quá sơ lược thì mọi người
dân phải tranh luận, thêm bớt ngôn từ; từ đó dễ làm sai lệch ý nghĩa của nó.
Trong thiên XLVII – Bát thuyết, Hàn Phi viết: “Pháp lệnh của bậc minh quân
nhất định phải nêu được các sự việc và dẫn chứng tiêu biểu một cách cụ thể, 22
tỉ mỉ, bằng mọi suy nghĩ của các cá nhân…, như vậy, vua chẳng cần bận tâm
suy nghĩ, chẳng cần phải vất vả cực nhọc mà đất nước vẫn được cai quản
tốt” [31, 522]. Như vậy, pháp luật đã thành văn và được công bố là để tránh
sự ba phải. Pháp luật tường tận, rõ ràng là để tránh mọi người lợi dụng kẽ hở
của luật pháp mà làm mất đi ý nghĩa thực tế của nó. Làm được vậy, mọi người
dân mới có cái để tuân theo, quan lại nắm giữ và thực thi pháp luật để ràng
buộc dân chúng, việc giữ gìn trị an cũng sẽ dễ dàng hơn.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng phải thuận theo thời thế mà tùy cơ ứng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status