THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VÀ SỬ DỤNG VỐN DÀI HẠN CHO ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở HÀ NỘI - Pdf 25

BẢNG CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CK Chứng khoán
CP Cổ phiếu
CSHT Cơ sở hạ tầng
DN Doanh nghiệp
GPMB Giải phóng mặt bằng
HĐND Hội đồng nhân dân
KBNN Kho Bạc nhà nước
KH-CN Khoa học - công nghệ
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần
NSNN Ngân sách nhà nước
QSD Quyền sử dụng
TP CQĐP Trái phiếu chính quyền địa phương
TPCP Trái phiếu chính phủ
TTGDCK Trung tâm giao dịch chứng khoán
TTTC Thị trường tài chính
UBND Uỷ ban nhân dân
XDCB Xây dựng cơ bản
XHH Xã hội hóa
2
MỤC LỤC
2
2
3
LỜI NÓI ĐẦU
Vốn đầu tư, đặc biệt là vốn đầu tư phát triển dài hạn, luôn luôn đóng vai
trò quan trọng hàng đầu trong sự phát triển kinh tế cả ở cấp doanh nghiệp lẫn
cấp địa phương và quốc gia, cả trong quá khứ, hiện tại lẫn trong tương lai...
Vốn đầu tư là một khái niệm mở, rộng... ở đề tài này, vốn đầu tư được tiếp
cận theo nghĩa hẹp là các nguồn lực tài chính - tiền tệ. Hơn nữa, do thực chất các

nhân lực và các quan hệ trong nền kinh tế thị trường… Chúng có thể chuyển hóa cho nhau và được đo lường
chung bằng tiền trong điều kiện nhất định (trừ vốn - con người).
Dưới đây chỉ xin đề cập tới vốn trong nước với cách hiểu theo nghĩa hẹp nêu trên.
Vốn đầu tư phát triển kinh tế dài hạn là những khoản vốn dài hạn chi cho các hoạt động mở rộng sản
xuất - kinh doanh, những công trình xd CSHT trực tiếp hoặc gián tiếp phục vụ phát triển kinh tế, cũng như cho
các hoạt động khác liên quan đến sản xuất - kinh doanh và phát triển kinh tế theo chiều sâu của đất nước, địa
phương và DN. Hơn nữa, theo cách hiểu thông thường hiện nay, vốn ngắn hạn là vốn có thời gian kể từ khi huy
động đến lúc hoàn trả là dưới 12 tháng, trung hạn thì từ trên 12 tháng đến dưới 5 năm và dài hạn là trên 5 năm.
Tuy nhiên, do trên thực tế hoạt động của ngân hàng, vốn có thời hạn trên 5 năm chiếm tỷ trọng rất nhỏ, nên dưới
đây, vốn dài hạn được hiểu là vốn trung và dài hạn, tức có thời hạn hoàn trả vốn từ trên 12 tháng.
Trong cơ chế quản lí kinh tế tập trung, bao cấp với chế độ cấp phát và giao nộp sản phẩm đã không tạo
động lực quan tâm nhiều đến việc huy động và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nói chung, vốn dài hạn nói riêng
trong nền kinh tế, cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Vốn đầu tư và nguồn vốn đầu tư cũng được quan niệm rất đơn giản.
Thậm chí chưa có sự phân định giữa vốn và tiền. Cơ chế phân phối vốn chỉ bó hẹp ở hai kênh: ngân sách nhà
nước và vay tín dụng ngân hàng với lãi suất thấp. Từ đó dẫn đến những sai lầm như việc phát hành thêm tiền để
đầu tư, hay chưa chú ý đến các nguồn lực khác ngoài NSNN. Các địa phương không quan tâm đến việc tự huy
động vốn xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế, thậm chí là không được phép thực hiện.
Cùng với quá trình đổi mới, quyền tự chủ của các địa phương đã được coi trọng và phát huy. Những
nhận thức về vốn cũng đã thay đổi.
Mục tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay cũng như sắp tới
của Việt Nam là tạo sự chuyển biến tích cực về chuyển dịch cơ cấu kinh tế; tập trung đầu tư các công trình hạ
tầng cơ sở; tích cực đổi mới và nâng cao năng lực KH - CN, sức cạnh tranh của nền kinh tế và các DN, thực hiện
thành công CNH - HĐH và không ngừng cải thiện chất lượng sống của nhân dân. Để thực hiện được các nhiệm
vụ trên thì cần phải có nguồn vốn lớn, đặc biệt là vốn dài hạn. Hơn nữa, cần nhấn mạnh rằng, về lâu dài thì vốn
trong nước có ý nghĩa quyết định, vốn ngoài nước có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phát triển bền vững của
cả nước cũng như của từng địa phương, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phận quan trọng trong chính sách tài chính - tiền tệ
quốc gia, nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội, tác động trực tiếp đến mối
quan hệ giữa tích luỹ - tiêu dùng và các chính sách tiền tệ, tín dụng. Việc hoạch định và thực hiện chính sách huy
động vốn trong nền kinh tế thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến các hoạt động tài chính, tình hình lạm phát và

hữu của nhân dân trong nước. Tỷ lệ góp vốn của các doanh nghiệp trong nước chỉ dừng lại ở mức 30-40% như
hiện nay có một lý do quan trọng là thiếu vốn đối ứng trong nước. Không ít doanh nghiệp phải dùng "quỹ đất' để
góp vốn, phần còn thiếu lại phải đi vay nước ngoài để góp vốn cho các liên doanh. Một số doanh nghiệp trong
nước mua thiết bị nước ngoài theo hình thức trả chậm, nhưng do không có vốn nên lại phải vay thương mại với
những điều kiện bất lợi, làm ảnh hưởng không tốt đến hiệu quả của công trình.
Có thể nói, vốn, đặc biệt nguồn vốn đầu tư dài hạn là một trong những yếu tố quyết định sự thành công
của sự nghiêp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Không có vốn đầu tư dài hạn
thì sẽ không có cơ sở hạ tầng kỹ thuật, không đổi mới và nâng cao được năng lực KH - CN, cải thiện sức cạnh
tranh và nâng cao trình độ phát triển của đất nước, địa phương, DN.
I.2. Đặc điểm vốn đầu tư phát triển dài hạn
Vốn đầu tư dài hạn có một số đặc điểm chính sau:
Thứ nhất, đòi hỏi quy mô vốn lớn và thời hạn thu hồi vốn dài
Vốn đầu tư dài hạn được sử dụng vào việc nghiên cứu và áp dụng khoa học, công nghệ mới, đổi mới và
hiện đại hóa trang thiết bị và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho tăng năng suất lao động, chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, mở rộng sản xuất kinh doanh và phát triển theo chiều sâu… Đây là những lĩnh vực, dự án thường đòi hỏi
quy mô vốn đầu tư rất lớn và thời hạn hoàn vốn dài. Thậm chí, có những dự án không thể tính được thời hạn thu
hồi vốn trực tiếp, nhất là vốn đầu tư cho xây dựng đường xá, cầu cống, nghiên cứu khoa học cơ bản… Điều này
càng rõ nét đối với những quốc gia và địa phương nào đang ở giai đoạn đầu cất cánh…
Đặc điểm của nguồn vốn dài hạn trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế chi
phối mạnh phưong thức huy động vốn, quá trình quản lý và sử dụng vốn. Nói cách khác nó ảnh hưởng đến chiến
lược vốn - một bộ phận quan trọng trong chiến lược tổng thể phát triển kinh tế - xã hội đất nước và địa phương.
5
5
6
Thứ hai, vốn đầu tư dài hạn dễ có độ rủi ro cao tùy thuộc vào tính chất của môi trường và cơ hội đầu
tư, cũng như các phương thức và chính sách huy động, sử dụng vốn.
Do thời hạn thu hồi vốn dài, nên đầu tư dài hạn dễ gặp rủi ro về kinh tế (lãi suất, lạm phát, khấu hao
vô hình, sự thay đổi cung – cầu tương lai…) và phi kinh tế (thay đổi chính sách, thể chế, thiên tai…). Đây là điều
mà các nhà đầu tư tư nhân hay e ngại. Điều này cũng giải thích vì sao tỷ trọng vốn dài hạn trong tổng vốn huy
động của các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng thường rất thấp. Tuy nhiên, tùy theo sự hấp dẫn của môi

và các hình thức vay nợ qua KBNN (như công trái, trái phiếu, tín phiếu...). Nói cách khác, nguồn vốn đầu tư của
NSNN được hình thành từ nguồn vốn tích luỹ của ngân sách và nguồn vốn tín dụng của nhà nước, còn việc sử
dụng cho đầu tư dài hạn chủ yếu thông qua phần vốn xây dựng cơ bản tập trung của NSNN các cấp và kiểm soát
chi qua KBNN.
Nguồn vốn đầu tư của ngân sách Nhà nước bao gồm nguồn vốn tích luỹ đầu tư từ ngân sách Nhà nước
(chênh lệch giữa số thu từ thuế, phí với chi tiêu dùng thường xuyên), nguồn vốn huy động từ trái phiếu Chính
phủ cho đầu tư phát triển và các nguồn vốn khác như từ quỹ dự trữ tài chính, các tài sản của Nhà nước... Đây là
nguồn vốn đầu tư hết sức quan trọng trong nền kinh tế, chủ yếu dùng để đầu tư cho các công trình hạ tầng cơ sở,
tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và tập trung vào các ngành kinh tế mũi nhọn để khuyến khích kinh tế phát
6
6
7
triển. Với việc nâng cao hiệu quả quản lý ngân sách Nhà nước trên cả hai lĩnh vực thu và chi ngân sách nhà
nước, tỷ trọng chi cho đầu tư phát triển của ngân sách nhà nước sẽ ngày càng tăng trong tổng số chi ngân sách
nhà nước và luôn giữ vai trò là nguồn vốn quan trọng trong xã hội trong quá khứ, hiện tại và những năm trước
mắt.
Tăng cường nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước là tìm cách nâng cao phần tích luỹ của NSNN và
phát triển nguồn vốn tín dụng. Để tăng nguồn vốn tích luỹ của NSNN cần áp dụng các chính sách tăng thu triệt
để các nguồn thu và tiết kiệm triệt để các khoản chi, thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu dùng của ngân sách. Ngân
sách phải có tích luỹ và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể góp phần nâng cao tỷ trọng tích lũy trong nước để
đầu tư dài hạn cho phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cần coi trọng giải quyết hài hòa về lợi ích kinh tế giữa Nhà
nước, doanh nghiệp và xã hội khi ban hành các chính sách, chế độ động viên vào NSNN thông qua thuế và phí;
vừa đảm bảo nguồn thu tài chính để Nhà nước thực hiện điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế, thực hiện các chính sách
xã hội, bảo vệ an ninh quốc phòng, vừa phải tạo điều kiện tích luỹ, tích tụ, tập trung vốn của DN, cơ sở, địa
phương cho mở rộng sản xuất - kinh doanh, đầu tư phát triển theo chiều sâu, giải phóng sức sản xuất xã hội, tạo
và mở rộng nguồn thu lâu dài.
Do vậy, việc giảm chênh lệch giữa các mức thuế suất, giảm số lượng thuế suất; giảm dần các ưu đãi và
miễn giảm thuế; mở rộng phạm vi, đối tượng nộp thuế; đảm bảo nguyên tắc công bằng về thuế giữa các thành
phần kinh tế, giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, đẩy mạnh quá
trình cơ cấu lại sản xuất kinh doanh, khuyến khích đổi mới công nghệ, hướng dẫn tiêu dùng, thúc đẩy xuất khẩu,

7
8
Nội và TP.Hồ Chí Minh được thực hiện theo qui định riêng của Chính phủ, nghĩa là không nhất thiết phải tuân
theo giới hạn 30% này.
Theo Quyết định 235/2003/QĐ-TTg ngày 13.11.2003, KBNN thực hiện chức năng: (1) quản lý nhà
nước về Quĩ NSNN, các quĩ tài chính nhà nước và các quĩ khác của nhà nước; (2) thực hiện việc huy động vốn
cho NSNN, cho đầu tư phát triển qua hình thức phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của pháp luật. Chính
chức năng thứ hai của KBNN qui định phạm vi và hình thức khai thác, sử dụng vốn dài hạn thông qua KBNN
Hà Nội. Khoản 10 Điều 2 Quyết định này khẳng định KBNN có nhiệm vụ: "Tổ chức huy động vốn trong nước
và ngoài nước cho NSNN và cho đầu tư phát triển thông qua phát hành công trái, trái phiếu theo qui định của
pháp luật". Điều 3 Quyết định 235 nêu rõ "KBNN được tổ chức theo nguyên tắc tập trung, thống nhất, thành hệ
thống dọc từ TW đến địa phương, theo đơn vị hành chính. Theo đó, KBNN Hà Nội chỉ được phép huy động cho
NSNN và cho ĐTPT bằng hai công cụ công trái và trái phiếu.
Ngày 20/11/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 141/2003/NĐ-CP về việc phát hành TPCP, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu Chính quyền địa phương, cụ thể hoá hoạt động huy động thông qua
KBNN, thay thế Nghị định số 01/2000/NĐ-CP về Qui chế phát hành TPCP. Trái phiếu Chính phủ hay trái phiếu
chính quyền địa phương đều là một loại chứng khoán nợ do Chính phủ hay UBND cấp tỉnh phát hành, có thời
hạn, có mệnh giá, có lãi, xác nhận nghĩa vụ trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Trái
phiếu Chính phủ bao gồm 6 loại: Tín phiếu Kho bạc, Trái phiếu Kho bạc, Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu
đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ và Công trái xây dựng Tổ quốc. Ngoại trừ Tín phiếu và Trái phiếu Kho bạc phát hành
để bù đắp thiếu hụt của NSNN trong năm tài chính hoặc theo dự toán hàng năm, 5 loại Trái phiếu Chính phủ còn
lại và Trái phiếu của Chính quyền địa phương (đối với Hà Nội là trái phiếu đô thị) đều có thể là những công cụ
để KBNN Hà Nội huy động vốn trung dài hạn cho đầu tư phát triển Thủ đô. Trái phiếu được phát hành bằng cả
đồng Việt Nam và ngoại tệ tự do chuyển đổi dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, có ghi tên hoặc không
ghi tên.
Các loại Trái phiếu công trình TW, Trái phiếu đầu tư, Trái phiếu ngoại tệ, Công trái XDTQ đều có thời
hạn trên 1 năm và do Chính phủ, Bộ Tài chính quyết định nên KBNN Hà Nội chỉ đóng vai trò tham gia khai thác
và sử dụng "gián tiếp", nghĩa là theo chỉ tiêu nhiệm vụ thu chi được TW giao. Công cụ trực tiếp huy động và sử
dụng vốn đầu tư của KBNN Hà Nội được qui định trong Nghị định 241/2003/NĐ-CP chính là Trái phiếu chính
quyền địa phương - loại trái phiếu đầu tư có kỳ hạn trên 1 năm do UBND cấp tỉnh uỷ quyền cho KBNN hoặc tổ

Đồng bộ với việc tạo ra khuôn khổ pháp lý tăng cường quyền chủ động chi địa phương, thực hiện đẩy
mạnh phân cấp ngân sách theo Luật NSNN, cho phép chính quyền địa phương khai thác các nguồn lực cho đầu
tư phát triển, các qui định pháp lý đảm bảo cho việc sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã khai thác được cũng
liên tục được hoàn thiện.
Dù là tham gia phát hành TPCP, một phần được sử dụng thông qua chi ĐTPT và tín dụng nhà nước hay
phát hành TPCQĐP trực tiếp sử dụng vào các công trình dự án đầu tư của Thành phố thì các nguồn vốn đều
được phản ánh vào ngân sách Thành phố nên việc sử dụng phải đảm bảo hiệu quả, tuân thủ các qui định của Luật
NSNN, Nghị định số 60/2003/NĐ-CP và Thông tư số 59/2003/TT-BTC qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành
Luật NSNN,... và các văn bản pháp qui liên quan tới quản lý đầu tư hiện hành như Nghị định số 52/1999/NĐ-CP,
Nghị định số 12/2000/NĐ-CP, Nghị định 07/2003/NĐ-CP về Qui chế quản lý đầu tư và xây dựng. Việc quản lý,
cấp phát, thanh toán, quyết toán vốn của KBNN Hà Nội thực hiện theo Thông tư số 44/2003/TT-BTC, Thông tư
45/2003/TT-BTC và Thông tư số 100/2003/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng dẫn việc quản lý, cấp phát, thanh
toán, quyết toán vốn đầu tư từ nguồn TPCP. Theo đó, cần đặc biệt lưu ý lập kế hoạch riêng cho các dự án đầu tư
bằng nguồn TPCP khi lập kế hoạch vốn đầu tư hàng năm, Sở Tài chính thông báo kế hoạch thanh toán vốn đầu
tư cho KBNN Hà Nội. Đối với các dự án do địa phương quản lý, căn cứ vào kế hoạch thanh toán vốn đầu tư và
tiến độ thực hiện các dự án, Bộ Tài chính chuyển vốn từ nguồn TPCP về Sở Tài chính, Sở lại chuyển vốn sang
KBNN Hà Nội để thanh toán cho các dự án. Chủ đầu tư quyết toán vốn đầu tư hàng năm theo chế độ hiện hành
về vốn đầu tư nguồn NSNN nhưng quyết toán riêng nguồn vốn TPCP. KBNN tổ chức hạch toán và theo dõi
riêng nguồn vốn TPCP, KBNN Hà Nội quyết toán với Sở Tài chính, Sở lại quyết toán với Bộ Tài chính riêng
nguồn vốn này, không quyết toán vào NSĐP. KBNN Thành phố phải giúp cơ quan quản lý trong việc mở hồ sơ
theo dõi, nghiêm túc thực hiện chế độ báo cáo định kỳ theo qui định đối với các dự án đầu tư sử dụng nguồn vốn
TPCP, thực hiện chế độ kiểm tra định kỳ và đột xuất, tăng cường công tác quản lý, kiểm tra việc thực hiện tiến
độ, khối lượng, chất lượng công trình, tình hình sử dụng vốn, không được dùng nguồn vốn TPCP để chi cho các
nhiệm vụ, dự án ngoài danh mục, không để tình trạng vượt vốn đầu tư của dự án đã được duyệt và tình trạng
lãng phí, thất thoát, tiêu cực.
Như vậy khuôn khổ pháp lý cho việc khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư thông qua hệ thống
KBNN đã tương đối đầy đủ, chi tiết và đồng bộ. Khuôn khổ pháp lý cho việc KBNN Hà Nội huy động vốn trong
dân thông qua phát hành TPCQĐP cũng đã có, nhưng còn thiếu qui định cụ thể về việc quản lý sử dụng nguồn
vốn TPCQĐP. Về cơ bản, nội dung của các qui định này tương tự như nội dung quản lý vốn đầu tư từ nguồn
TPCP, song có những điểm khác biệt nhất định liên quan tới phân cấp ngân sách và quyền chủ động của các cấp

dụng các nguồn tài chính thông qua những phương thức giao dịch, các công cụ
và dịch vụ tài chính nhất định, thị trường tài chính (TTTC) là tổng hòa các quan
hệ cung - cầu về vốn và được phân thành 2 loại: thị trường vốn ngắn hạn (thị
trường tiền tệ) và thị trường vốn dài hạn.
- Thị trường vốn ngắn hạn, hay còn gọi là thị trường tiền tệ, là các hoạt động
về cung- cầu vốn ngắn hạn (dưới một năm) diễn ra chủ yếu thông qua các hoạt
động của hệ thống ngân hàng các cấp.
- Thị trường vốn dài hạn là nơi diễn ra các hoạt động về cung - cầu vốn dài
hạn cho Chính phủ, doanh nghiệp và hộ gia đình. Thị trường vốn dài hạn bao
gồm thị trường vay nợ dài hạn và thị trường chứng khoán.
Nhìn chung, TTTC dù ngắn hạn hay dài hạn, đều ngày càng mang tính mở
và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội hiện đại cả ở cấp quốc
gia, cũng như quốc tế. Chúng tạo ra các kênh và công cụ huy động vốn cho đầu
tư phát triển từ các nguồn trong và ngoài nước, từ doanh nghiệp và trong dân;
cung cấp cho các nhà đầu tư những cơ hội và hình thức đầu tư đa dạng, phù hợp;
làm tăng khả năng thanh khoản của các công cụ tài chính và giúp đánh giá xác
10
10
11
thực hơn giá trị của doanh nghiệp và nền kinh tế; đồng thời giúp thực hiện hiệu
quả hơn các chính sách kinh tế vĩ mô theo hướng thị trường mở...
Phát hành trái phiếu là hình thức phổ biến để huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ở tất cả các địa
phương trên thế giới và nó luôn là phương thức huy động vốn quan trọng không chỉ đối với chính chính quyền
địa phương, mà đối với cả các doanh nghiệp (ngoài cổ phiếu).
Xét về tổng thể, huy động vốn của chính quyền địa phương từ việc phát hành trái phiếu đô thị là một
trong những lựa chọn ngày càng nhận được nhiều sự quan tâm của chính quyền đô thị trên khắp thế giới do
những lợi ích mà nó đem lại vượt ra ngoài mục đích ban đầu là huy động vốn.Việc cho phép và buộc chính
quyền địa phương phát hành trái phiếu để bù đắp nguồn vốn ngân sách nhà nước thiếu hụt cho đầu tư phát triển
dài hạn sẽ tạo ra áp lực buộc các chính quyền địa phương phải cải tiến, tăng cường tính minh bạch và công khai
hoá trong quản lý ngân sách địa phương, nâng cao hiệu quả của các dự án đầu tư công cộng, giúp phát triển thị

11
12
ích đó. Trái phiếu thu nhập được huy động và điều hành bởi các tổ chức xây dựng và khai thác do chính quyền
địa phương chọn và quản lý.
Các trái phiếu thu nhập thường có mức lợi tức hấp dẫn nhưng có thể bị rủi ro cao, vì chúng không được
bảo trợ hay bảo đảm bằng bất cứ nguồn vốn nào khác ngoài thu nhập từ chính công trình mà chúng góp phần tạo
ra thu nhập.
Trái phiếu đô thị là loại trái phiếu dài hạn và có những tích chất chung của chứng khoán, đó là tính
thanh khoản (chuyển nhượng, mua bán; tính rủi ro; và tính sinh lời . Với những tính chất này trái phiếu đô thị
trở thành công cụ rất có hiệu quả để các chính quyền địa phương thu hút các nguồn vốn nhà rỗi trong dân cư
phục vụ cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của địa phương. Điều quan trọng là đỏi hỏi chính quyền địa phương
cần chủ động xây dựng chiến lược phát hành trái phiếu có hiệu quả và phải chứng minh cho các nhà đầu tư về
tính hiệu quả của dự án cần huy động vốn; đưa ra mức sinh lời hấp dẫn mà trái phiếu tạo ra; tạo ra nhiều tiện ích
đáp ứng được yêu cầu của nhà đầu tư.
Ngoài ra, để phát hành trái phiếu đô thị đạt hiệu quả cao, thu hút được các nguồn vốn trong xã hội thì
việc đa dạng hóa loại hình trái phiếu có vị trí quan trọng. Loại trái phiếu phát hành sẽ phụ thuộc vào mục tiêu
huy động và chủ thể phát hành trái phiếu. Đối với các chương trình trọng điểm, công trình mà nhiều người dân
cùng được hưởng lợi thì phù hợp với việc phát hành trái phiếu công ích. Đối với các công trình hay dự án có
nguồn thu cụ thể thì có thể phát hành trái phiếu thu nhập (trái phiếu công trình hay trái phiếu doanh nghiệp). Hơn
nữa, về nguyên tắc lãi suất của trái phiếu phải cao hơn lãi suất tiết kiệm cùng kỳ, lãi suất trái phiếu thu nhập phải
cao hơn lãi suất trái phiếu công ích, có như vậy mới thu hút được các nhà đầu tư trái phiếu.
Song để việc phát hành trái phiếu được thuận lợi thì cần có một thị trường thứ cấp phát triển, cụ thể là
thị trường chứng khoán. Phát triển thị trường chứng khoán và huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán là
một trong những nội dung lớn của chiến lược huy động vốn cũng như quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường ở Việt nam nói chung, ở Hà Nội nói riêng trong thời gian tới.
Đối với DN, việc huy động vốn trên thị trường tài chính thường thông qua phát hành cổ phiếu và trái
phiếu DN phù hợp với Luật doanh nghiệp và các quy đinh pháp lí hiện hành khác. Ngoài ra, các ngân hàng
thương mại còn có thêm các chứng khoán khác như kỳ phiếu, giấy chứng nhận tiền gửi và các giấy tờ có giá
khác tùy theo sự phát triển dịch vụ và nghiệp vụ của mình, phù hợp với luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng…
I.3.4. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua hình thức thuê mua tài

chuyển giao tài sản cho người thuê sử dụng trong một thời gian nhất định. Đổi
lại, người thuê phải trả một số tiền cho người thuê mua, số tiền thuê thông
thường cả tiền gốc về hao mòn tài sản cộng với tiền lãi.
Đặc trưng của thuê mua tài chính là:
- Người thuê lựa chọn thiết bị từ nhà cung cấp, thương lượng với người
cung cấp về phương thức bảo đảm, bảo trì, giao nhận, lắp đặt, giá cả và phương
thức thanh toán.
- Người thuê mua thiết bị trực tiếp từ nhà cung cấp; người thuê mua vẫn
giữ quyền sở hữu thiết bị trong thời gian người thuê sử dụng.
- Hợp đồng thuê mua thường không được phép huỷ bỏ ngang chừng.
Việc thuê mua tài chính cho phép người thuê được lựa chọn tài sản thuê
trong tương lai vào thời điểm ký hợp đồng thuê thiết bị; thuê mua với thời hạn
nhất định để bên thuê mua thu hồi được vốn đầu tư và có lãi; hao mòn thiết bị
do bên thuê chịu, bên thuê có toàn quyền sử dụng thiết bị; bên thuê chịu trách
nhiệm sửa chữa, bảo dưỡng và bảo hiểm thiết bị; thiết bị có phù hợp hay không
thuộc trách nhiệm bên thuê. Thuê mua tài chính thường được áp dụng đối với
thiết bị dùng cho sản xuất, thương mại, dịch vụ.
Một nghiệp vụ tài trợ thuê mua được coi là thuê mua tài chính nếu thoả
mãn các tiêu chí sau:
13
13
14
- Đối với người đi thuê: (1) cuối thời hạn thuê mua, người đi thuê được
chuyển quyền sởt hữu tài sản; (2) hợp đồng thuê mua có điều khoản về quyền
chọn mua tài sản theo giá thoả thuận; (3) thời hạn hợp đồng xác định từ hoá
đơn, trên cơ sở giá trị của tài sản (điều này chỉ áp dụng với tài sản mới, giá trị
được xác định ít nhất bằng hoặc cao hơn 90% giá thị trường của tài sản thuê).
- Đối với người cho thuê: ngoài việc thoả mãn các tiêu chí trên, còn phải
thoả mãn các điều kiện: (1) việc thu tiền thuê tối thiểu có thể tính trước và phải
hợp lý; (2) người cho thuê không chịu trách nhiệm thanh toán những chi phí

mua máy móc thiết bị và các động sản khác phục vụ cho sản xuất kinh doanh
được tổ chức tín dụng mua theo yêu cầu của bên thuê, bên thuê thanh toán tiền
thuê cho các tổ chức tín dụng trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thoả
thuận và không được huỷ bỏ. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền
sở hữu tài sản thuê, hoặc được mua lại tài sản thuê, hay tiếp tục thuê tài sản theo
các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng thuê mua.
Khái niệm này đã từng bước được hoàn thiện và đã có một số khái niệm
khác nhau, nhưng những nội dung cơ bản đều có sự thống nhất. Cụ thể như:
- Về phương diện hoạt động tín dụng: Tín dụng thuê mua là một phương
thức thuê mua tài sản dài hạn mà trong thời hạn đó, người thuê mua chuyển giao
tài sản cho người đi thuê sử dụng. Bên thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê
và được quyền: hoặc sở hữu tài sản sau khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được
quyền mua tài sản bất cứ lúc nào cho đến khi kết thúc hợp đồng thuê; hoặc được
quyền thuê tiếp tài sản.
Theo định nghĩa này, tín dụng thuê mua ở Việt Nam có một số giới hạn
như: không áp dụng thuê mua với bất động sản; người thuê mua là sở hữu chủ
tài sản, như vậy không áp dụng phương thức thuê rồi thuê mua lại.
- Về phương diện thuê mua tài chính: Thuê mua tài chính là một hoạt
động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc thuê mua máy móc thiết bị và các
động sản khác; bên thuê sử dụng tài sản thuê và thanh toán tiền thuê trong suốt
thời hạn thuê đã được hai bên thoả thuận và không được huỷ bỏ hợp đồng trước
thời hạn. Khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được chuyển quyền sở hữu, hoặc
tiếp tục thuê tài sản đó theo các điều kiện đã thoả thuận trong hợp đồng thuê.
Theo định nghĩa này, thuê mua tài chính là một hình thức thuê mua tài sản
có kèm theo lời hứa bán lại cho người thuê khi kết thúc hợp đồng với giá cả
được thoả thuận từ trước. Như vậy, thuê mua tài chính (hay tín dụng thuê mua)
khác hẳn với hình thức thuê mua tài sản đơn thuần hay hình thức bán hàng trả
chậm , trả góp về phương thức sở hữu, tính chất cũng như mối quan hệ giữa các
bên tham gia.
15

thuê mua của giai đoạn cơ bản. Trường hợp người đi thuê không muốn mua thì
trả lại cho người cho thuê mua hoặc ký tiếp hợp đồng thuê giai đoạn sau.
+ Người đi thuê phải chịu những rủi ro liên quan đến tài sản.
16
16
17
+ Thời hạn thuê mua thường dài hơn hoặc gần bằng thời gian hữu dụng
của tài sản.
+ Hiện giá các khoản tiền thuê của một hợp đồng gần bằng giá trị tài sản.
Theo kinh nghiệm của một số nước, người ta thường quy định 3 tiêu
chuẩn của thuê mua tài chính như sau:
+ Một là, quyền sở hữu tài sản thuê mua có thể chuyển giao cho người đi
thuê sau khi chấm dứt hợp đồng thuê mua.
+ Hai là, thời hạn thuê mua khoảng 75% thời gian hữu dụng của tài sản.
+ Ba là, hiện giá của tổng các các khoản tiền thuê bằng 90% hoặc cao hơn
giá trị tài sản. Nhưng trong thực tế cần lưu ý việc xác định kỳ hạn sao cho tiền
thuê phải trả mỗi kỳ ở mức vừa phải, không ảnh hưởng lớn đến tình hình tài
chính của người đi thuê; đồng thời sau khi chấm rứt hợp đồng thuê mua, người
thuê mua có thể bán được tài sản.
Tổ chức thuê mua tài chính là một doanh nghiệp đứng ra thực hiện nghiệp
vụ thuê mua, tuỳ theo định chế của mỗi nước mà cho phép ngân hàng thương
mại, công ty tài chính, công ty thuê mua thực hiện nghiệp vụ này. Một số nước
không cho phép ngân hàng thương mại trực tiếp thực hiện đầu tư thuê mua
nhưng lại cho phép ngân hàng thành lập công ty thuê mua tài chính để thực hiện
nghiệp vụ thuê mua (Một số ngân hàng thương mại của nước ta cũng đang thực
hiện theo mô hình này).
Đối với công ty thuê mua tài chính là công ty con của ngân hàng, giữa
ngân hàng và công ty thuê mua tài chính có mối quan hệ rất chặt chẽ. Ngân
hàng đứng ra giới thiệu khách hàng cho công ty thuê mua tài chính của mình;
ngân hàng bảo lãnh cho các doanh nghiệp khi thực hiện việc thuê mua (tức là

Người nhận được
tài
sản là người sở hữu
Tính chất tài sản Máy móc thiết bị có giá
trị lớn, tuổi thọ lâu dài.
Vốn tín dụng thường sử
dụng cho việc tiêu dùng:
Mua ô tô, cho vay lưu thông, cho
vay chuyển nhà…
Hàng hoá tiêu dùng,
ô tô, vật dụng gia
đình…
Thời hạn hoàn trả vốn Thời hạn thuê gần bằng
Thời gian hữu dụng của
tài sản và cuối hợp đồng
thuê, người đi thuê có
quyền chọn mua, thuê
tiếp hay trả lại tài sản.
Thời hạn vay ngắn. Thời hạn ngắn.
Vấn đề rủi ro Là hình thức ít rủi ro vì tài
sản thuê mua vẫn thuộc
quyền ở hữu của người
thuê mua. Người đi thuê
không được sửa chữa,
làm giảm giá trị tài sản
hay thế chấp.
Nếu vi phạm những
quy định trong hợp đồng,
người thuê mua có quyền
thu hồi tài sản.

thành 2 loại: thuê mua động sản và thuê mua bất động sản. Tuy nhiên, do sự
phát triển mạnh mẽ của hoạt động thuê mua, đã xuất hiện thêm loại thứ 3 là thuê
mua vốn thương mại, trong đó người ta thuê mua nguyên cả một cơ sở sản xuất
kinh doanh hoàn chỉnh, có đầy đủ nhà xưởng, văn phòng, kho bãi, máy móc
thiết bị, thiết bị văn phòng… bao gồm cả động sản và bất động sản; người đi
thuê chỉ lo về vốn lưu động và tiến hành sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào phương thức tài trợ, có các loại như:
+ Thuê mua thuần: là loại hình thuê mua có sự tham gia của cả ba bên:
người đi thuê, nhà cung cấp và người thuê mua. Đây là loại hình thuê mua
chuẩn nhất, thể hiện đầy đủ nét đặc trưng của thuê mua. Có thể tóm tắt phương
thức này như sau: Người đi thuê chọn thiết bị và nhà cung cấp, người đi thuê và
người thuê mua ký hợp đồng thuê mua; người thuê mua ký hợp đồng và mua
thiết bị của nhà cung cấp; người thuê mua chuyển quyền sử dụng thiết bị cho
người đi thuê.
+ Bán rồi thuê lại: ở hình thức này, người đi thuê lúc đầu chính là chủ sở
hữu tài sản thuê mua, họ bán tài sản này cho tổ chức thuê mua để rồi sau đó thuê
mua lại chính tài sản đó, cuối thời hạn hợp đồng, họ lại là chủ sở hữu tài sản.
Phương thức này thường áp dụng đối với bất động sản, hình thức này mang đến
cho người đi thuê những lợi ích nhất định như: Bù đắp những thiếu hụt về vốn;
tái tài trợ các tài sản trên cơ sở trung hạn mà trước đó đã mua bằng cách vay nợ
trên thị trường, có thể giảm chi phí vốn bằng cách sử dụng vốn khác (của người
thuê mua) với mức lãi suất thấp hơn mà người đi thuê vẫn được sử dụng những
tài sản do chính mình xây dựng, thiết kế hoặc đang sử dụng có hiệu quả.
+ Thuê mua hợp tác: là loại hình thuê mua có sự tham gia của 4 bên:
người đi thuê, người thuê mua, người cho vay và nhà cung cấp. Phương thức
này giống như thuê mua thuần nhưng khác ở chỗ người thuê mua tài sản không
19
19
20
hoàn toàn bằng vốn của mình mà một phần từ vốn vay của người cho vay, các

- Căn cứ và tính chất biến động của lãi suất áp dụng trong nghiệp vụ thuê
mua có 2 loại:
20
20
21
+ Thuê mua theo giá cố định, là hình thức thuê mua trong đó lãi suất được
quy định cố định trong hợp đồng thuê mua.
+ Thuê mua theo giá thả nổi: là hình thức thuê mua trong đó 2 bên thoả
thuận lãi suất được điều chỉnh theo từng kỳ phù hợp với lãi suất thị trường.
I.3.4.3. Tính chất pháp lý của tài sản thuê mua:
Khác với phương thức tài trợ cổ điển dưới hình thức tiền tệ, tài trợ thuê
mua được thực hiện dưới hình thức tài sản. Tài sản thuê mua gồm cả động sản
và bất động sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài.
- Tính chất pháp lý liên quan đến tài sản thuê mua:
Người cho thuê mua là chủ sở hữu của tài sản trong mọi thời điểm khi
người đi thuê chưa mua tài sản (hay người cho thuê mua chưa thực hiện việc
chuyển giao quyền sở hữu tài sản cho người đi thuê theo hợp đồng), khi đó
người đi thuê chỉ được quyền sử dụng tài sản mà không được:
+ Bán, giao, thế chấp tài sản thuê;
+ Thay đổi hình dáng hoặc chuyển thiết bị thuê khỏi nơi đã được lắp
đặt đúng địa điểm trong hợp đồng mà không có thông báo bằng văn bản cho
người thuê mua.
+ Xoá hoặc thay đổi sổ xác nhận thiết bị thuê mua.
+ Sử dụng thiết bị thuê với những mục đích không được thiết kế hoặc
không mong đợi.
Nếu người đi thuê tài sản vi phạm những quy ước trên thì người cho thuê
mua dễ dàng lấy lại tài sản với cương vị là sở hữu chủ về mặt pháp lý đối với tài
sản thuê mua. Nhưng người đi thuê có quyền lựa chọn thuê tiếp, mua hay trả lại
tài sản thuê khi kết thúc hợp đồng.
- Tính chất kinh tế của tài sản thuê mua:

này nhằm đảm bảo quyền lợi và là điều kiện ràng buộc cả hai chủ thể ở chỗ:
+ Người đi thuê có thể trả lại tài sản khi hết hạn hợp đồng, lúc này người
cho thuê mua sẽ gặp nhiều khó khăn do không bán tài sản được vì giá cả của tài
sản luôn nhỏ hơn giá trị còn lại của chúng do hao mòn vô hình, vì thế quy định
tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê phải lớn hơn hay gần bằng giá trị
tài sản sẽ giúp người cho thuê mua giảm thiểu thiệt hại này. Hơn nữa, nó là yếu
tố mang tính kỹ thuật, ràng buộc người đi thuê chọn mua tài sản vì họ cảm thấy
có lợi khi chỉ bỏ ra một khoản tiền nhỏ (phần còn lại của giá trị tài trợ sau khi
trừ đi tổng hiện giá các khoản thanh toán tiền thuê) họ sẽ sở hữu một tài sản có
giá trị còn lại lớn hơn số tiền phải trả.
+ Việc quy định thời hạn thuê mua bằng phần lớn thời gian hữu dụng của
tài sản thuê là yếu tố đảm bảo quyền lợi cho người đi thuê. Vì khi đi thuê bản
thân họ cũng có ít nhiều khó khăn về tài chính (không thể mua ngay tài sản) cho
22
22
23
nên một khoảng thời gian đủ dài cho món nợ là yếu tố giúp họ có điều kiện tăng
số vòng quay vốn tạo lợi nhuận trước khi đến hạn.
Thời hạn thuê cơ bản theo nguyên tắc là thời hạn không thể huỷ bỏ. Tuy
nhiên, do khả năng kinh tế, người đi thuê có thể thoả thuận một thời hạn phù
hợp, hoặc do tốc độ lỗi thời của thiết bị mà người cho thuê mua có thể đề ra một
thời hạn ngắn hơn.
Như vậy, thời hạn thuê mua phụ thuộc vào các yếu tố sau:
+ Thời hạn hữu dụng của tài sản;
+ Quy chế tài trợ thuê mua của nhà nước;
+ Khả năng tài chính của người đi thuê;
+ Tốc độ hao mòn vô hình của tài sản.
I.3.5. Huy động và sử dụng vốn dài hạn thông qua các kênh khác
I.3.5.1. Khuyến khích các doanh nghiệp phát huy nội lực hoặc liên doanh liên kết, tăng đầu tư dài hạn.
Không ngừng cải thiện môi trường đầu tư, đặc biệt là mở rộng tự do hóa đầu tư, đưa ra các ưu đãi hấp

I.3.5.2. Mở rộng xã hội hóa và tự do đầu tư kinh doanh
XHH cần được hiểu theo nghĩa vừa kêu gọi vốn đầu tư tham gia liên doanh liên kết của doanh nghiệp
ngoài nhà nước vào các lĩnh vực vốn do NSNN hoặc DNNN đảm nhận đầu tư, vừa phải là việc không ngừng tự
do hóa đầu tư, cho phép các thành phần kinh tế ngoài nhà nước trực tiếp đầu tư kinh doanh các lĩnh vực, sản
phẩm, địa bàn vốn bị đóng cửa hoặc hạn chế đối với họ
Mở rộng phạm vi, hình thức xã hội hóa đối với một số lĩnh vực (như giáo dục đào tạo, y tế, văn hóa,
thể thao...) sẽ giảm được một khối lượng vốn NSNN dài hạn đầu tư cho những ngành đó, do vậy sẽ tập trung vốn
NSNN đầu tư cho các ngành khâu dự án trọng điểm, có ý nghĩa chiến lược ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế
xã hội nói chung mà tư nhân không muốn và không thể đầu tư.
Đặc biệt, cần sớm hoàn thiện cơ chế XHH cho phép các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác
cùng tham gia hoạt động cung cấp dịch vụ công cộng; Từng bước thay thế phương thức cấp kinh phí trực tiếp
cho các đơn vị cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích bằng việc Nhà nước mua sản phẩm hoặc dịch vụ hoàn
thành theo giá cả phù hợp với chất lượng và tiến độ hoàn thành; Thực hiện công khai hóa tài chính để đảm bảo
xã hội hóa lành mạnh.
I.3.5.3. Tăng cường đấu giá quyền sử dụng đất và phát triển các quỹ đầu tư…
Đây là những phương thức huy động còn kha mới mẻ nhưng chắc chắn sẽ ngày càng phổ biến ở nước ta
và cả thành phố Hà Nội trong tương lai, nhất là các quỹ đầu tư.
Nói tóm lại, để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trong những năm tới, mỗi địa
phương cần tìm những phương cách thích hợp để phát huy những lợi thế của mình nhằm huy động ngày càng
nhiều và ngày càng nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn sẵn có ngay trên địa phương cho đầu tư dài hạn phát
triển kinh tế.
24
24
25
CHNG II:
THC TRNG HUY NG V S DNG VN DI HN CHO U T PHT TRIN
KINH T H NI
II.1. ỏnh giỏ chung thc trng khai thỏc v s dng vn di hn u t phỏt trin kinh t H Ni nhng
nm gn õy
H Ni l trung tõm ti chớnh - tin t ln nht Min Bc v ng th hai

1 Bình quân 2 năm 2001-2002 vốn đầu t xã hội cả nớc tăng 10,3%/năm, Thành phố HCM tăng 12,2%/năm
25
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status