đánh giá thực trạng công tác quản lý chất thải y tế tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh thái nguyên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý - Pdf 24

i
ĐA
̣
I HO
̣
C QUÔ
́
C GIA HA
̀

̣
I
TRƯƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C TƯ
̣
NHIÊN
NGUYỄN THỊ KIM DUNG
ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC

̣
I
TRƯƠ
̀
NG ĐA
̣
I HO
̣
C KHOA HO
̣
C TƯ
̣
NHIÊN
NGUYỄN THỊ KIM DUNG ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC
QUẢN LÝ CHẤT THẢI Y TẾ TẠI MỘT SỐ BỆNH VIÊN
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ

Chuyên ngành: Khoa học Môi trường
Mã số: 608502

LUÂ
̣
N VĂN THA

2.2. Phương pháp nghiên cứu 31
2.3. Nội dung đề tài 32
2.4. Xây dựng các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá 33
2.5. Xác định mức độ quan trọng của các tiêu chí 37
2.6. Xác định mức độ tuân thủ của từng hoạt động 38
2.7. Công thức tính toán tổng hợp về công tác quản lý môi trường theo từng hoạt
động của tiêu chí 38
2.8. Thiết kế thông tin yêu cầu của phiếu điều tra khảo sát 38
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 40
3.1. Giới thiệu chung về tỉnh Thái Nguyên 40
3.1.1. Cơ cấu dân số 40
v
3.1.2. Thực trạng chung của các cơ sở y tế trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 41
3.2. Giới thiệu chung về các bệnh viện nghiên cứu 42
3.3. Đánh giá về công tác phân loại 47
3.4. Đánh giá về công tác vận chuyển chất thải 56
3.5. Đánh giá về công tác xử lý chất thải rắn 62
3.6. Đánh giá về công tác lưu giữ chất thải 66
3.7. Đánh giá về việc thực hiện xử lý nước thải và khí thải 71
3.8. Đánh giá qua các kết quả điều tra phỏng vấn ngoài hiện trường về sự nắm bắt
các quy định quản lý chất thải y tế 78
3.9. Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý, xử lý chất thải y
tế tại các bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Nguyên 86
3.9.1. Nguyên nhân các tồn tại trong công tác quản lý, xử lý chất thải y tế tại
các bệnh viện nghiên cứu 86
3.9.2. Đề xuất giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, xử lý chất
thải y tế 87
3.9.3. Giải pháp xử lý chất thải 90
KẾT LUẬN 95
TÀI LIỆU THAM KHẢO 97

Bảng 3.3. Tình hình khám chữa bệnh qua các năm của BV Gang Thép 45
Bảng 3.4. Hiện trạng hoạt động của một số bệnh viện đa khoa tuyến huyện 45
Bảng 3.7. Hiện trạng thu gom, phân loại rác thải của một số bệnh viện đa khoa
tuyến huyện trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên 46
Bảng 3.8. Chi phí cho hoạt động thu gom, xử lý rác thải y tế cấp huyện 46
Bảng 3.9. Kết quả đánh giá về các tiêu chí phân loại chất thải của BV A 47
Bảng 3.10. Kết quả đánh giá về các tiêu chí phân loại chất thải của BV C 48
Bảng 3.11. Đánh giá các tiêu chí phân loại chất thải của BV Gang Thép 49
Bảng 3.12. Kết quả đánh giá về các tiêu chí phân loại chất thải của bệnh viện đa
khoa huyện Định Hóa 50
Bảng 3.13. Kết quả đánh giá về các tiêu chí phân loại chất thải của bệnh viện đa
khoa huyện Võ Nhai 51
Bảng 3.14. Kết quả đánh giá về các tiêu chí phân loại chất thải của bệnh viện đa
khoa huyện Phú Bình 52
Bảng 3.15. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của bệnh viện A 56
Bảng 3.16. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của bệnh viện C 57
Bảng 3.17. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của BV Gang Thép 58
Bảng 3.18. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của BV Định Hóa 59
viii
Bảng 3.19. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của BV Võ Nhai 60
Bảng 3.20. Đánh giá công tác vận chuyển chất thải của BV Phú Bình 60
Bảng 3.21. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của bệnh viện A 62
Bảng 3.22. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của bệnh viện C 63
Bảng 3.23. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của BV Gang Thép 64
Bảng 3.24. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của BV Định Hóa 64
Bảng 3.25. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của BV Võ Nhai 64
Bảng 3.26. Đánh giá công tác xử lý chất thải rắn của BV Phú Bình 65
Bảng 3.27. Đánh giá công tác lưu giữ chất thải của bệnh viện A 67
Bảng 3.28. Đánh giá công tác lưu giữ chất thải của bệnh viện C 67
Bảng 3.29. Đánh giá công tác lưu giữ chất thải của bệnh viện Gang Thép 68

xử lý nước thải và khí 108
1
MỞ ĐẦU
Tỉnh Thái Nguyên có 01 bệnh viện đa khoa trung ương, 03 bệnh viện đa khoa
tuyến tỉnh và 8 bệnh viện huyện (trước đây là các trung tâm y tế tuyến huyện, nay
chuyển thành bệnh viện huyện) nằm khắp nơi trên địa bàn tỉnh. Việc phát triển và
nâng cấp các bệnh viện là một nhu cầu thiết yếu và cần thiết của xã hội đối với việc
chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khoẻ nhân dân, song sự phát triển ồ ạt dẫn tới
việc không đồng bộ của hoạt động bộ máy, đặc biệt bảo vệ môi trường luôn là vấn
đề được đặt ra sau cùng trong quá trình phát triển này.
Để đáp ứng được nhu cầu phát triển các bệnh viện trên địa bàn tỉnh, các bệnh
viện, cơ sở y tế không ngừng được nhà nước và chính quyền địa phương trang bị và
nâng cấp về thiết bị, cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực… Tuy nhiên, việc thực hiện
công tác bảo vệ môi trường dường như lại được ít quan tâm hơn cả. Chính vì thế,
các bệnh viện trên địa bàn tỉnh hàng ngày vẫn luôn thải ra một lượng lớn các chất
thải đặc biệt là các chất thải nguy hại như: chất thải nhiễm khuẩn (chiếm khoảng
10%), chất thải gây độc hại như chất gây rối loạn nội tiết, chất gây độc tế
bào…(chiếm khoảng 5%), các loại dược phẩm (chiếm 5%) và các chất thải y tế…
Một số công trình nghiên cứu của các nhà khoa học trước đây đã tiến hành
điều tra về thực trạng cũng như các ảnh hưởng của chất thải bệnh viện đối với môi
trường. Các nghiên cứu đó đã phần nào cho thấy được những tồn tại trong công tác
quản lý chất thải bệnh viện. Song việc đưa ra một bức tranh tổng quát để cho thấy
việc thực hiện công tác bảo vệ môi trường tại các bệnh viện vẫn còn chưa được rõ
nét. Là học viên cao học của tỉnh, tôi mong muốn đóng góp công sức của mình để
thực hiện công cuộc phát triển bền vững tại địa phương. Đề tài "Đánh giá thực
trạng công tác quản lý chất thải y tế tại một số bệnh viện trên địa bàn tỉnh Thái
Nguyên và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý” được đặt ra tập
chung vào nghiên cứu các bệnh viện đa khoa là phù hợp với chính sách bảo vệ và
khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải y tế của Chính phủ ban hành
theo Quyết định số 64/2003/QĐ-TTg ngày 22/4/2003, về việc phê duyệt kế hoạch

thường, tuy nhiên chỉ có khoảng từ 10-25% các chất thải y tế được xác định là chất
thải nguy hại theo Thông tư mới nhất số 12/2011/TT-BTNMT quy định về quản lý
chất thải nguy hại ngày 14 tháng 4 năm 2011 thì chất thải y tế nằm trong danh mục
A các chất thải nguy hại có mã số A4020 - Y1, chỉ trừ các loại chất thải sinh hoạt
thông thường. Còn lại khoảng 75% - 90% chất thải y tế được phát sinh từ các cơ sở
y tế là không nguy hại còn gọi là chất thải y tế "chung" như chất thải sinh hoạt. 4
1.1.2. Phân loại chất thải y tế
Chất thải y tế có rất nhiều thành phần rất phức tạp nên cần được phân ra thành
những loại khác nhau. Tuy nhiên cũng có nhiều cách phân loại tuỳ thuộc vào mục
đích mà người ta có thể phân theo tính chất nguy hại của chất thải, phân loại theo
thành phần có trong chất thải hay là phân loại theo dạng tồn tại của chất thải.
a. Phân loại theo tính chất nguy hại
Đây là cách phân loại theo hướng dẫn của WHO, 1992 [17] được sử dụng tại
phần lớn các nước đang phát triển. Theo phân loại này, chất thải y tế được phân
thành các loại sau:
- Chất thải không độc hại (chất thải sinh hoạt gồm chất thải không bị nhiễm
các yếu tố nguy hại);
- Chất thải sắc nhọn (truyền nhiễm hay không);
- Chất thải nhiễm khuẩn (khác với các vật sắc nhọn nhiễm khuẩn);
- Chất thải hoá học và dược phẩm (không kể các loại thuốc độc đối với tế bào);
- Chất thải nguy hiểm khác (chất thải phóng xạ, các thuốc độc tế bào, các bình
chứa khí có áp suất cao).
Mục đích của việc phân loại này để nhằm thu gom chất thải và tái chế chất thải
một cách an toàn. Để đáp ứng được mục đích này, trong tài liệu của WHO cũng còn
nêu ra nguồn gốc phát sinh của các loại chất thải này [18]. Cũng dựa trên sự phân
loại hợp lý này, Bộ Y tế đã ban hành Quy chế quản lý chất thải y tế được sửa đổi
vào năm 2007. Theo đó, chất thải y tế được chia thành 5 loại và được định nghĩa cụ

- Chất thải sinh hoạt phát sinh từ các buồng bệnh (trừ các buồng bệnh cách ly).
- Chất thải phát sinh từ các hoạt động chuyên môn y tế như các chai lọ thuỷ
tinh, chai huyết thanh, các vật liệu nhựa, các loại bột bó trong gẫy xương kín.
Những chất thải này không dính máu, dịch sinh học và các chất hoá học nguy hại.
- Chất thải phát sinh từ các công việc hành chính: giấy, báo, tài liệu, vật liệu
đóng gói, thùng các tông, túi nilon, túi đựng phim.
- Chất thải ngoại cảnh: lá cây và rác từ các khu vực ngoại cảnh.
b. Phân loại theo dạng tồn tại của chất thải
Cách phân loại theo dạng tồn tại này rất ít được sử dụng, tuy nhiên cách phân
loại này cũng phù hợp với một số mục đích cụ thể, nhất là phù hợp với việc xây
6
dựng các dự án, đề án. Theo cách phân loại này thì chất thải y tế được chia thành 3
loại:
- Chất thải y tế dạng rắn: là dạng chất thải có nhiều thành phần phức tạp nhất,
chứa nhiều thành phần nguy hại gồm các loại kim loại, kim tiêm, ống tiêm, chai lọ
nhựa, thuỷ tinh, bông băng, bệnh phẩm, rác hữu cơ, đất dá, bột bó gãy xương và các
vật rắn khác.
- Chất thải lỏng bệnh viện gồm: nước thải từ khoa Xét nghiệm, X quang, các
khoa lâm sàng, cận lâm sàng, các bộ phận phục vụ trong bệnh viện, nước thải sinh
hoạt và nước mưa.
- Khí thải: từ các công trình, thiết bị xử lý, tiêu huỷ chất thải y tế.
c. Phân loại theo thành phần có trong chất thải
Việc phân loại theo thành phần có trong chất thải cũng được sử dụng để phù
hợp với một số mục đích như tách riêng các thành phần chất thải khi đem đi xử lý
hoặc để thống kê được lượng tiêu thụ từng loại. Phân loại theo cách này có thể chia
thành phân loại theo thành phần vật lý, thành phần hoá học và thành phần sinh học.
* Phân loại theo thành phần vật lý
- Đồ bông vải sợi: Gồm băng, gạc, bông, quần áo cũ, khăn lau, vải trải
- Đồ giấy: Hộp đựng dụng cụ, giấy gói, giấy thải từ nhà vệ sinh…
- Đồ thuỷ tinh: Chai lọ, ống tiêm, bơm tiêm thuỷ tinh, ống nghiệm

Tuyến bệnh viện
Tổng lƣợng chất thải y tế
(kg/giường bệnh/ngày)
Chất thải y tế nguy hại
(kg/giường bệnh/ngày)
Bệnh viện Trung
ƣơng
0,97
0,16
Bệnh viện tỉnh
0,88
0,14
Bệnh viện huyện
0,73
0,11
Trung bình
0,86
0,14
(Nguồn [17])
Trong số các bệnh viện hiện nay có tới 815 bệnh viện không có hệ thống xử lý
chất thải hoặc có nhưng không hoạt động, hoặc hoạt động không thường xuyên,
không có hiệu quả. Trung bình một bệnh viện nhỏ thải ra vài trăm kg rác, một bệnh
8
viện trung bình thải ra 600 - 800kg rác, bệnh viện lớn có hơn 1 tấn một ngày. Khối
lượng chất thải của từng bệnh viện phụ thuộc vào các yếu tố của bệnh viện như:
chuyên khoa của bệnh viện, giường bệnh, lưu lượng bệnh nhân, kỹ thuật điều trị,
khí hậu thời tiết, phong tục tập quán v.v [2].
Bộ Y tế đã tiến hành khảo sát tại 280 tại bênh viện trên cả nước cho thấy tỷ lệ
phát sinh chất thải rắn y tế theo từng tuyến, loại bệnh viện, cơ sở y tế rất khác nhau.
Lượng chất thải rắn bệnh viện phát sinh trong quá trình khám chữa bệnh mỗi ngày


Hình 1.1. Sơ đồ tổng quan về nguồn phát sinh chất thải bệnh viện và tác động
của chúng đến môi trƣờng và sức khoẻ con ngƣời

Sự phát sinh Rác thải y tế từ các hoạt động chuyên môn của bệnh viện và các
nghiên cứu rất đa dạng song chưa được điều tra và thống kê đầy đủ. Sơ bộ có thể
liệt kê như sau:
- Chất thải khoa điều trị: gạc, bông băng dính máu mủ, mủ hoại tử, tổ chức
hoại tử đã cắt lọc, kim tiêm, bơm tiêm, ống thuốc, thuốc thừa. Các dịch, bệnh phẩm,
túi đựng.
- Chất thải phòng mổ: bông nhiễm khuẩn, mủ, tổ chức hoại tử, các phần cắt bỏ
của cơ thể, máu, dịch, thuốc, hoá chất, kim tiêm, bơm tiêm.
- Chất thải phòng khám: bệnh phẩm, mủ, các tổ chức hoại tử, bông băng, gạc
nhiễm khuẩn, dụng cụ, nẹp cố định, quần áo nhiễm khuẩn.
- Chất thải khoa xét nghiệm huyết học: môi trường, máu, hoá chất chai lọ, kim
tiêm.
- Chất thải khoa xét nghiệm vi sinh, hoá sinh: bệnh phẩm, phân, nước giải,
máu mủ, đờm, hoá chất, môi trường nuôi cấy.
- Chất thải phòng thí nghiệm: các xác động vật, các bộ phận cắt bỏ của động
vật, các chất thải của quá trình sản xuất văc - xin.
BỆNH VIỆN
CHẤT THẢI Y TẾ
(rắn, lỏng, khí)
Hoạt động
Ô nhiễm môi trƣờng
(Nước sinh hoạt, nước thải,
không khí, đất)
Ảnh hƣởng sức khoẻ
cộng đồng


môi trường trong và ngoài bệnh viện. Các chất thải y tế độc hại như gạc, bông, băng
nhiễm khuẩn, hoá chất chưa được xử lý được thu gom và đổ chung với rác sinh hoạt
11
vào bãi chôn lấp, thường không được đào sâu, không đảm bảo yêu cầu vệ sinh sẽ
gây ô nhiễm đất và nguồn nước ngầm. Kết quả nghiên cứu tại 6 bệnh viện đa khoa
tỉnh về các vi khuẩn chỉ điểm vệ sinh trong đất cho thấy: tại các bệnh viện có đường
cống thải kín giá trị trung bình Coliform và Fecal coliform/1 gam đất thấp hơn các
bệnh viện có đường cống thải không kín hoàn toàn. Vì vậy nguy cơ gây ô nhiễm
môi trường đất không chỉ do chất thải rắn mà còn do cả chất thải lỏng bệnh viện nếu
không được quản lý, xử lý đúng quy định.
* Tác động đối với môi trường không khí
Chất thải bệnh viện từ khi phát sinh đến khâu xử lý cuối cùng đều gây ra
những tác động xấu đến môi trường không khí. Khi phân loại tại nguồn, thu gom,
vận chuyển chúng phát tán bụi rác, bào tử vi sinh vật gây bệnh, hơi dung môi, hóa
chất vào không khí. Ở khâu xử lý (đốt, chôn lấp) phát sinh ra các khí độc hại HX,
NO
X
, Đioxin, furan… từ lò đốt và CH
4
, NH
3
, H
2
S… từ bãi chôn lấp. Các khí này
nếu không được thu hồi và xử lý sẽ gây ảnh hưởng xấu tới sức khỏe của cộng đồng
dân cư xung quanh.
Mặt khác, ở bệnh viện, đặc biệt khoa truyền nhiễm là nơi có chứa rất nhiều
mầm bệnh như: Streptococcus, Corynebacterium diphteriae, Mycobacterium
tuberculosis, Staphylococcus và không khí là môi trường truyền mầm bệnh vi
khuẩn, ngoài ra còn là yếu tố truyền mầm bệnh virus như virus cúm, virus sởi, quai

ra tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng nguồn nước.
Khi chôn lấp chất thải y tế không đúng kỹ thuật và không hợp vệ sinh. Đặc
biệt là chất thải y tế được chôn lấp chung với chất thải sinh hoạt có thể gây ô nhiễm
nguồn nước ngầm.
Hệ thống phân phối nước bệnh viện có thể bị ô nhiễm từ nguồn cấp nước hoặc
trong quá trình bảo quản, sử dụng và tuỳ theo nguồn nước mức độ ô nhiễm khác
nhau. Nguồn nước giếng đào bị ô nhiễm do nhiều nguyên nhân như cấu tạo địa chất,
chiều sâu của giếng, điều kiện vệ sinh xung quanh giếng, gần công trình vệ sinh, ý
thức vệ sinh, hoặc do nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất thải. Nguồn nước
giếng khoan lấy mạch nước ngầm sâu hơn nên thường sạch hơn nước giếng đào
nhưng có thể bị ô nhiễm bởi cấu tạo địa chất hoặc do việc khai thác sử dụng chưa
đảm bảo. Đối với nguồn nước máy ít bị ô nhiễm, tuy nhiên do các bể chứa không
sạch, ý thức vệ sinh chưa tốt làm vi sinh vật xâm nhập, sinh sản và gây ô nhiễm một
phần hoặc toàn bộ màng lưới phân phối nước. Như vậy các loại chất thải phát sinh
13
trong sinh hoạt, trong đó có nguồn chất thải từ bệnh viện không được quản lý, xử lý
tốt; ý thức vệ sinh chưa tốt sẽ là những nguyên nhân gây ô nhiễm nước sinh hoạt.
Nước thải bệnh viện luôn có những nguy cơ tiềm tàng:
 Nguy cơ nhiễm khuẩn Salmonella, Shigella, dạng Coli, phẩy khuẩn,
liên cầu, các vi khuẩn gây nhiễm khuẩn bệnh viện, tụ cầu, phế cầu, các chủng này ở
bệnh viện thường có tỷ lệ kháng kháng sinh cao; Nguy cơ nhiễm virus chủ yếu các
virus đường tiêu hoá (bại liệt, ECHO, Coxsackie ), virus viêm gan A, virus gây ỉa
lỏng ở trẻ em Rotavirus; Nguy cơ nhiễm ký sinh trùng như amip, Lamblia, trứng
giun, sán
 Nguy cơ nhiễm chất độc hại: thường gặp trong việc rửa, tráng phim
hay thuỷ ngân của các nhiệt kế, huyết áp bị vỡ, các độc dược bị đổ đi rơi vào các
nguồn nước thải, tuy vậy nguy cơ này thường thấp hơn nước thải công nghiệp.
 Nguy cơ nhiễm chất phóng xạ: do nguồn phóng xạ sử dụng trong điều
trị và nghiên cứu không được bảo quản đúng mức sẽ gây phát xạ nguy hiểm.
Nước thải bệnh viện chứa nhiều loại vi khuẩn gây bệnh có nguồn gốc từ

chuyển bệnh nhân; Những người làm việc trong các cơ sở xử lý chất thải (tại các bãi
đổ rác thải, các lò đốt rác) và những người bới rác, thu gom rác.
 Các loại hình rủi ro:
Việc tiếp xúc với các chất thải y tế có thể gây nên bệnh tật hoặc tổn thương.
Khả năng gây rủi ro từ chất thải y tế có thể do một hoặc nhiều đặc trưng cơ bản
sau:Chất thải y tế chứa đựng các yếu tố truyền nhiễm, là tác nhân nguy hại có trong
rác thải y tế; Các loại hóa chất dược phẩm có thành phần độc, tế bào nguy hiểm;
Các chất chứa đồng vị phóng xạ; Vật sắc nhọn có thể gây tổn thương; Chất thải có
yếu tố ảnh hưởng tâm lý xã hội.
 Nguy cơ từ chất thải truyền nhiễm và các vật sắc nhọn:
Các vật sắc nhọn không những gây thương tích (các vết xước, xuyên thủng da)
cho người phơi nhiễm mà còn có thể làm nhiễm khuẩn tại các vị trí gây xước hoặc
15
chọc thủng. Do nguy cơ tổn thương gấp hai lần và sự truyền bệnh nên các vật sắc
nhọn được coi là loại chất thải rất nguy hại.
Do sự quản lý yếu kém các chất thải y tế tại các cơ sở y tế, một số vi khuẩn đã
có tính đề kháng cao đối với các loại thuốc kháng sinh và các hoá chất sát khuẩn.
Điều này đã được minh chứng, chẳng hạn các plasmit từ các động vật thí nghiệm có
trong chất thải y tế đã được truyền cho vi khuẩn gốc qua hệ thống xử lý chất thải.
Hơn nữa, vi khuẩn E. Coli kháng thuốc đã cho thấy nó vẫn còn sống trong môi
trường bùn hoạt mặc dù ở đó có vẻ như không phải là môi trường thuận lợi cho loại
vi sinh vật này trong điều kiện thông thường của hệ thống thải bỏ và xử lý rác,
nước.
Ở các nước đang phát triển, còn thêm nguy hiểm do tìm bới và phân loại rác
bằng tay ở bãi rác của các cơ sở y tế. Những người thu nhặt rác có nguy cơ tổn
thương do kim tiêm và tiếp xúc với các độc chất.
Các vật thể trong thành phần chất thải y tế chứa đựng một lượng lớn các tác
nhân vi sinh vật gây bệnh truyền nhiễm như tụ cầu, HIV, viêm gan B. Những virus
này thường lan truyền qua vết tiêm hoặc các tổn thương do kim tiêm có nhiễm máu
người bệnh.

Não mô cầu (Neisseria
meningitidis)
Dịch não tuỷ
AIDS
HIV
Máu, chất tiết sinh
dục
16
Nhiễm khuẩn huyết do tụ
cầu
Staphylococcus spp
Máu
Nhiễm khuẩn huyết (do các
loại VK khác nhau)
Enterobacter, Enterococcus,
Klebssiella
Máu
Nấm Candida
Candida albican
Máu
Viêm gan A
Virus viêm gan A
Phân
Viêm gan B và C
Virus viêm gan A, C
Máu, dịch cơ thể
(Nguồn: [13])
Tỷ lệ các tổn thương hàng năm do các vật sắc nhọn trong chất thải y tế và dịch
vụ vệ sinh môi trường cả trong và ngoài các bệnh viện gây ra đã được cơ quan Đăng
ký các Độc chất và Bệnh tật Hoa Kỳ (ATSDR) đánh giá. Nhiều tổn thương gây ra

liệu.
Nhiều loại thuốc có độc tính cao và gây nên hậu quả hủy hoại cục bộ sau khi
tiếp xúc trực tiếp với da hoặc mắt (Bảng 1.3). Chúng cũng có thể gây ra chóng mặt
buồn nôn, đau đầu hoặc viêm da.
Bảng 1.3. Các thuốc độc hại tế bào gây nguy hiểm cho mắt và da
Nhóm Alkyl hoá:

Các thuốc gây rộp da (*):
Aclarubicin, Chlormethine, Cisplatin, Mitomycin
Các thuốc gây kích thích:

Carmustine, Cyclophosphamide, Dacarbazine,
Ifosphamide, Melphalan, Streptozocin, Thiotepa
Nhóm thuốc xen kẽ:

Các thuốc gây rộp da:

Asacrine, Dactinomycin, Daunorubicin,
Doxorubicin, Epirubicin, Pirarubicin, Zorubicin
Các thuốc gây kích thích:
Mitoxantrone
Các alkaloid thuộc nhóm
Vinca và các dẫn xuất:

Các thuốc gây rộp da:
Vinblastine, Vincristine, Vindesine, Vinorelbine,
Epipodophyllotoxins.
Các thuốc gây kích thích:
Teniposide
(*)


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status