skkn một số biện pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh lớp 5 học tốt tiết tập làm văn trả bà - Pdf 24

Sáng kiến kinh nghiệm
chương i: Đặt vấn đề:
Để bắt nhịp với thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa của thế kỉ 21, đáp
ứng được mục tiêu giáo dục đào tạo của nước ta là đào tạo con người Việt Nam
phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức sức khỏe thẩm mĩ… hơn lúc nào hết
người thầy cần phải kích thích ham muốn học tập của học sinh. Horaceman đã
từng nói: “Một ông thầy mà không dạy cho học sinh được ham muốn học tập
thì chỉ là đập búa trên sắt nguội mà thôi.” Muốn vậy người giáo viên cần phải
đào sâu suy nghĩ, tìm tòi để tìm ra phương pháp dạy học hiệu quả nhất.
Tập làm văn là một môn quan trọng trong chương trình Tiếng Việt ở trường
tiểu học. Thông qua môn học này, học sinh có điều kiện tiếp cận với vẻ đẹp của
con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Các em có dịp
hướng tới cái chân, thiện, mĩ từ đó làm nảy nở tình yêu thiên nhiên, gắn bó với
thiên nhiên, với người và việc xung quanh mình. Tâm hồn , tình cảm càng thêm
phong phú. Đó là những nhân tố góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp của trẻ.
Tuy nhiên đây là môn khó dạy, đặc biệt đối với những tiết trả bài. Theo quy
trình dạy học Tập làm văn thì tiết trả bài nằm ở giai đoạn cuối, nghĩa là giai
đoạn “ tổng kết đánh giá sản phẩm” vì thế, tiết học này luôn luôn đòi hỏi ở
người thầy sự nỗ lực không ngừng để tìm ra cách dạy sao cho người học cảm
thấy sự lý thú, ham muốn.
Bản thân tôi, khi dạy tiết Tập làm văn trả bài gặp nhiều khó khăn. Trong
tiết học, các em chỉ thích biết điểm số của mình, còn đến phần sửa các lỗi đã
mắc các em thường tỏ ra lúng túng và rất “ngại” sửa lỗi. Tôi thường phải đặt các
câu hỏi gợi ý, giảng giải cách sửa để từ đó các em biết được cách sửa lỗi đã mắc
trong bài viết của mình. Với phương pháp đó, học sinh được hoạt động một cách
độc lập nhưng không phát huy được trí lực của học sinh. Học sinh thường không
suy nghĩ xem sửa lỗi đã mắc thì phải làm như thế nào? Các em thường thụ động
chỉ sửa theo cách cô giáo đã gợi ý. Một số em làm bài sai chỉ biết là sai rồi chữa
bằng cách chép bài của bạn đã sửa trên bảng (phần sửa lỗi chung). Vì vậy, giờ
Tập làm văn trả bài trở nên rất khô khan, đôi khi trở thành nặng nề. Khi cần diễn
Sáng kiến kinh nghiệm

trong xã hội chủ nghĩa.
Trong chương trình tiếng Việt lớp 3, phân môn Tập làm văn tiếp tục trang bị
kiến thức và rèn luyện các kĩ năng làm văn cho học sinh, góp phần cùng các
môn học khác mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy logic hình thành nhân cách
cho học sinh.
II. PHÂN TíCH thực trạng học sinh khi học tiết tập làm văn trả bài:
Ngay từ đầu năm học, khi mới nhận lớp tôi đã có kế hoạch khảo sát chất
lượng học môn tập làm văn của lớp mình.
Tôi ra đề kiểm tra:
Đề bài: Tả con vật mà em yêu quý nhất.
Kết quả bài viết của học sinh như sau: Học sinh viết bài tỏ ra hiểu đề,
song diễn đạt còn lộn xộn, viết câu sai nhiều, dùng từ chưa chính xác, chưa biết
viết những câu gợi tả, gợi cảm. Một vài học sinh đã biết sử dụng biện pháp tu từ
song chưa biết chọn chính xác để diễn đạt.
Kết quả cụ thể là:
Tổng số học sinh Giỏi Khá Trung bình Yếu
Sáng kiến kinh nghiệm
32 3 5 16 8
- Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài, tôi nhận thấy các em hoạt động không
sôi nổi. Phần sửa lỗi chung các em chữa bài rất thụ động, giáo viên phải gợi ý
nhiều. Phần tự sửa lỗi, học sinh chữa các lỗi đã mắc trong bài viết của mình rất
lúng túng. Khi tôi gọi học sinh nhận xét phần sửa lỗi đã mắc trong bài viết của
bạn thì chẳng có học sinh nào biết nhận xét. Học sinh nêu các ý kiến của mình
ấp úng, chưa biết cách sửa từ, sửa câu. Tiết học rất nặng nề, không hiệu quả.
- Sau tiết học, tôi yêu cầu học sinh viết lại bài viết của mình sau khi đã sửa
lỗi để nộp cho cô giáo. Học sinh viết lại bài song một số lỗi vẫn chưa được sửa.
Sau khi tìm hiểu qua điều tra thực tế, tôi có nhận xét như sau:
- Đa số học sinh chưa ý thức tốt trong học tập chữa bài.
- Học sinh chưa thực sự hứng thú học môn văn, chưa hiểu được các lỗi đã
mắc trong bài viết để mình viết bài văn hay hơn mà chỉ quan tâm đến việc nhận

lại trên bài làm ảnh hưởng đến hứng thú, niềm tin của học sinh.
- Đối với mỗi bài kiểm tra viết, sách giáo khoa Tiếng Việt 5 thường đưa ra
nhiều đề để học sinh lựa chọn. Chính vì vậy, trước khi chấm bài, tôi thường
chọn và xếp riêng các bài của từng đề, sau đó, xác định yêu cầu của đề bài, xây
dựng dàn bài của mỗi đề. Tuy nhiên, tôi không xem suy nghĩ cảm thụ của mình
là khuôn mẫu, chuẩn mực để áp đặt việc đánh giá học sinh mà tôn trọng, khuyến
khích cái riêng, cái mới, cái độc đáo trong mỗi bài viết của các em.
- Tôi tiến hành việc chấm bài theo 2 bước:
+ Bước 1: Phát hiện, đánh dấu những ưu, khuyết điểm trong bài viết của học
sinh: gạch dưới và ghi nhận xét ra ngoài lề bên trái. Ví dụ: lỗi chính tả ghi c.t,
thiếu chủ ngữ ghi c.n…
Đối với những học sinh yếu, kém, tôi chỉ ra sai sót trầm trọng nhất, không
bao giờ gạch nát cả bài, tránh gây cho em đó tâm lý thất vọng, chán nản. Tìm và
phát hiện cái hay, sự tiến bộ trong mỗi bài viết của các em một cách kịp thời.
“Phải biết khen các em bằng những nhận xét lạc quan, dù đó là một cố gắng
nhỏ nhất” đó là lời của những đồng nghiệp đi trước truyền lại mà tôi thật sự tâm
Sáng kiến kinh nghiệm
đắc và áp dụng triệt để khi chấm bài Tập làm văn. Tôi không bao giờ tiết kiệm
lời khen khi bình giá bài làm của các em, trăn trở với mỗi lời phê vào bài. Phát
hiện được một câu văn hay, một ý nghĩ độc đáo, sáng tạo, tôi đều đưa ra lời bình
(viết vào phần bài chữa được trình bày ở vở Tập làm văn), VD: “Một ý kiến thú
vị”, “Câu văn có hình ảnh”, “Bài viết thật độc đáo” …Tôi nhớ một lần, khi
chấm bài viết của một học sinh tả mẹ rất hay và xúc động, tôi đã phê như sau:
“Hiểu đề, bài viết có cảm xúc tốt. Chắc mẹ vui lắm khi đọc bài làm của em!”.
Tôi nhớ mãi ánh mắt tràn đầy niềm vui của em khi nhận được lời phê của tôi.
Em đã phát huy được những ưu điểm của mình trong các bài viết sau.
+ Bước 2: Chấm bài – ghi các ưu, khuyết điểm của học sinh vào sổ chấm chữa
của giáo viên.
Sau khi chỉ rõ ưu khuyết điểm của từng bài, tôi cho điểm dựa trên biểu điểm
đã được xây dựng trước. Điểm số ghi ngay ngắn, rõ ràng, đẹp bằng mực đỏ.

2. Hoạt động của cô trò trong một tiết Tập làm văn trả bài:
2.1 Hoạt động 1: Tôi giới thiệu tiết học, học sinh nêu lại đề bài văn đã viết
ở tiết trước, giáo viên viết đề bài lên bảng.
Giới thiệu tiết học là hoạt động tưởng như rất nhỏ nhưng lại vô cùng quan
trọng. Một tiết học có thành công hay không bên cạnh việc chuẩn bị công phu,
kĩ lưỡng của giáo viên còn phụ thuộc rất lớn vào học sinh. Chính vì vậy, việc
kích thích hứng thú học tập ban đầu cho các em là vô cùng cần thiết. Cổ nhân có
câu “Vạn sự khởi đầu nan”, việc làm này sẽ giúp các em tạo được hứng khởi
trong các hoạt động tiếp theo.
- Trước đây tôi rất ít khi để ý đến hoạt động này. Tôi thường giới thiệu bài
bằng phương pháp thuyết trình. Tiết nào cũng như tiết nào, bản thân tôi cũng
thấy nó khô cứng, nhàm chán, còn học sinh thì bị động, căng thẳng, thậm chí
không khí căng thẳng còn lan tràn đến hết tiết học. Giờ dạy không đạt hiệu quả.
Chính vì vậy tôi đã suy nghĩ cách tổ chức để tạo ra một không khí vui gây hứng
thú cho các em trong tiết học.
Tôi đã tìm ra được khá nhiều cách mở bài thú vị như:
Sáng kiến kinh nghiệm
Cách 1: Cho các em hát một bài hát gắn với một đề gần gũi nhất trong tiết trả
bài, sau đó gợi mở cho các em nhớ và nhắc lại đề đó rồi nối tiếp nêu các đề còn
lại.
Ví dụ: Khi dạy tiết Tập làm văn trả bài “Tả người”, trong đó có đề: “Tả một
người thân (ông, bà, cha, mẹ…) của em”, tôi cho các em hát bài “Tổ ấm gia
đình” rất sôi nổi, rất hay. Tôi khen ngợi và gợi lại cho các em: Ai cũng có một tổ
ấm gia đình. Đó là nơi ta được sống trong tình yêu thương vô bờ bến của mỗi
người thân. Tiết trước, các em cũng viết một bài văn về người thân. Đó là đề
nào?”
Sau khi học sinh nêu đề: “ Tả một người thân (ông, bà, cha, mẹ…) của em”,
tôi yêu cầu một vài em khác nối tiếp nêu những đề còn lại.
Cách 2: Cho học sinh xem một số hình ảnh liên quan đến các vấn đề có trong
tiết trả bài và yêu cầu học sinh nhớ lại từng đề. Khi dạy bài Tập làm văn tả bài

đánh giá bài viết của học sinh.
- Một đề bài đưa ra cho học sinh viết ẩn chứa đến 3 yêu cầu: Yêu cầu về thể
loại bài (hay kiểu bài); yêu cầu về nội dung; yêu cầu về trọng tâm. Ví dụ bài viết
1 ở tuần lễ 4 lớp 5:
Tả cảnh một buổi sáng (hoặc trưa, chiều) trong một vườn cây (hay trong
công viên, trên đường phố, trên cánh đồng, nương rẫy)
Yêu cầu thể loại của đề là: Miêu tả, thể hiện ở từ “tả” trong đề bài.
Yêu cầu về nội dung là: Buổi sáng (hoặc trưa, chiều).
Yêu cầu trọng tâm là: ở trong một vườn cây (hay trong công viên, trên đường
phố, trên cánh đồng, nương rẫy) thể hiện ở cụm từ nằm cuối đề bài.
Nhưng trên thực tế không phải đề văn nào cũng xác định đủ 3 yêu cầu trên.
Ví dụ như ngay tuần 4 lớp 5, sách tiếng Việt 5 đưa ra đến 3 đề cho chọn. Đề nói
trên là đề 1. Đề 2 lại chỉ có yêu cầu về thể loại và nội dung: Tả một cơn mưa.
Trong trường hợp này, người làm bài nhất thiết phải tự xác định thêm yêu cầu
về trọng tâm của bài viết. Chẳng hạn phải là “Tả một cơn mưa ở quê hương
em”, hay “Tả một cơn mưa khi em đang trên đường đi học về”. Việc xác định
Sáng kiến kinh nghiệm
đúng trọng tâm của đề sẽ giúp cho bài viết được thu hẹp nên em có được ý cụ
thể, chính xác, tránh được việc viết tràn lan, chung chung.
Quan trọng hơn nữa là phải giúp học sinh nhận rõ ý nghĩa của việc xác định
các yêu cầu này trong việc viết bài. Giáo viên phải làm sao giúp học sinh nhận
rõ các yêu cầu của đề bài quyết định nội dung bài viết. Các yêu cầu này một khi
xác định đúng sẽ là hướng tìm ý cho bài viết.
VD: Thể loại miêu tả sẽ hướng dẫn cho các em phải quan sát đối tượng để
tìm cho ra những nét đặc sắc, những nét nổi bật của đối tượng. Không thể cứ liệt
kê tràn lan các chi tiết của đối tượng.
Nội dung buổi sáng đòi hỏi người quan sát phải tìm được nét đặc trưng giúp
người đọc nhận ngay ra cảnh đương tả không phải buổi trưa, buổi chiều. Cũng
vậy, buổi sáng ở vườn cây có gì khác buổi sáng ở công viên, đường phố, cánh
đồng, nương rẫy. Phải nêu cho được những nét tiêu biểu đó mới đáp ứng đúng

Trọng tâm: trên đường phố
Tả cảnh đường phố vào một buổi sáng
Thể loại: miêu tả
Nội dung: cảnh đường phố
Trọng tâm: vào một buổi sáng
Chỉ thay đổi 2 cụm từ cuối bài không làm thay đổi yêu cầu thể loại (vẫn là
miêu tả) nhưng làm thay đổi đối tượng miêu tả (1đề là cảnh buổi sáng, 1 đề là
cảnh trên đường phố) và cũng làm thay đổi phạm vi miêu tả (1 đề là cảnh buổi
sáng trên đường phố, 1 đề là cảnh đường phố vào buổi sáng)
Đối với những tiết trả bài có nhiều đề, ví dụ: tiết “Trả bài văn tả cảnh” có 3
đề, “trả bài văn tả người” có 3 đề…tôi cũng tiến hành tương tự như trên. Tuy
nhiên để tiết kiệm thời gian, tôi sử dụng phần mềm Powerpoint để hỗ trợ. Việc
dạy học sinh tìm hiểu đề văn sẽ giúp học sinh có những hiểu biết để vạch hướng
làm bài cũng như sửa bài cho bản thân.
2.3 Hoạt động 3: Nhận xét chung về bài viết của học sinh trong lớp:
Những năm trước, khi tổ chức hoạt động này, tôi dùng phương pháp giảng
giải và thuyết trình. Tôi thường nêu những nhận xét về bài viết của mình (đã viết
sẵn) về ưu, nhược điểm trong bài viết của học sinh (về nội dung và hình thức) và
kết thúc là tổng kết điểm và biểu dương một số học sinh có bài viết hay, sáng
Sáng kiến kinh nghiệm
tạo. Học sinh ngồi nghe. Tôi thấy việc tổ chức hoạt động trên không hiệu quả.
Tôi đã mạnh dạn cải tiến phương pháp dạy và thấy rõ hiệu quả cao hơn. Tôi tiến
hành như sau:
Khi nhận xét chung về bài viết của học sinh, tôi đã tổ chức cho học sinh tham
gia hoạt động nhận xét đánh giá, chứ không chỉ là việc làm riêng của cô giáo.
Các em được trực tiếp tham gia tập bình giá. Do đó học sinh hiểu và dễ dàng
chấp nhận việc đánh giá của cô giáo.
Tôi thường nhận xét ưu điểm (nội dung và hình thức) trước. Khi chấm bài
viết của học sinh, tôi đã thống kê được những ưu điểm chung của bài viết. Trong
các ưu điểm, tôi chú ý đến những suy nghĩ riêng, những cảm xúc hồn nhiên, tế

Học sinh nhận xét bạn giới thiệu cô giáo ở trường nhưng không dạy mình
trong khi đề bài yêu cầu giới thiệu cô giáo dạy mình trong năm học trước đã để
lại cho em những ấn tượng và tình cảm tốt đẹp nhất. Như vậy, mở bài không sát
với yêu cầu của đề, phải sửa lại.
- Tôi đọc một mở bài khác “Cô giáo Lan Phương ở trường Tứ Hiệp ai cũng
biết. Cô là giáo viên dạy giỏi, là chiến sĩ thi đua của trường, hết lòng tận tụy với
học sinh.”
- Học sinh thảo luận theo câu hỏi “Bạn giới thiệu cô giáo dạy ai? dạy lúc
nào?
- Học sinh nhận xét: mở bài của bạn không nói rõ cô giáo đã dạy bạn không.
Do đó, chưa đáp ứng được yêu cầu của đề bài. Tôi nêu nhận xét chung về phần
mở bài còn mắc các lỗi nào?
- Đối với các lỗi khác thường mắc trong bài viết, tôi tổ chức cho các em tập
nhận xét, đánh giá như trên.
- Sau khi nhận xét chung xong, tôi tổng kết điểm của cả lớp với mục đích
các em tự nhận thấy kết quả chung của bài biết của cả lớp so với đề bài trước có
tiến bộ không…
2.4 Hoạt động 4: Học sinh sửa lỗi chung:
Sáng kiến kinh nghiệm
Tôi tổ chức cho học sinh thực sự làm việc và làm việc có trí tuệ. Đặc biệt
quan tâm đến vấn đề dạy học phân hóa đối tượng.
- Tôi chia lớp thành 3 nhóm, mỗi nhóm tương ứng với một đối tượng: Khá -
Giỏi, Trung bình, Yếu. (Tất nhiên học sinh không nhận biết được điều đó mà
chỉ hiểu đơn thuần là học tập theo nhóm)
Căn cứ vào sổ chấm chữa tôi chọn ra những lỗi điển hình mà học sinh thường
mắc như lỗi chính tả, lỗi dùng từ, diễn đạt…thiết kế một phiếu học tập chung
cho cả lớp. Tuy nhiên có những yêu cầu riêng cho từng đối tượng.
Ví dụ: ở phần lỗi chính tả, đối với học sinh trung bình, yếu tôi chỉ yêu cầu
học sinh sửa lại cho đúng còn đối với học sinh khá giỏi, tôi yêu cầu các em giải
thích cách sửa.

- Vì sao viết là “Trú mưa” thì đúng còn
“chú mưa” lại sai?
Chốt: Ngoài việc nhớ các quy tắc viết
VD khi ghép âm “gờ”, “ngờ” với “i”,
“e”, “ê” các con cần phải dựa vào
nghĩa của từ tạo nên nó. Có như vậy
khi viết văn các em mới không mắc
phải lỗi chính tả.
- Các nhóm soát bài
- Học sinh trung bình – khá trả lời: Vì
âm “gờ” khi ghép với “i”, “e”, “ê” phải
viết thành “gh”. Như vậy phải sửa “gồ
gề” thành “gồ ghề”.
- Học sinh giỏi: Vì xét về nghĩa “chú”:
danh từ chỉ người. “Trú”: động từ chỉ
hành động. Vậy “chú mưa” phải sửa
thành “trú mưa”
b) Chữa các lỗi dùng từ:
Sau khi cho học sinh làm bài tập trong phiếu, tôi tiến hành chữa bài. Đối với
học sinh yếu, trung bình, tôi cho các em phát hiện từ dùng sai trong câu và tìm
từ thích hợp thay thế hay hơn, giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm bằng cách đặt
những câu hỏi gợi mở để các em trả lời.
VD: Khi chữa lỗi dùng từ trong câu “Một làn gió nhẹ thoảng qua làm cho
mặt hồ cử động.”
Tôi yêu cầu học sinh yếu, trung bình chỉ ra lỗi sai và tìm từ thay thế. Học
sinh tìm được từ dùng sai là từ “cử động” và thay bằng từ “xao động”
Đối với học sinh khá-giỏi, tôi khuyến khích các em tìm những từ khác hay
hơn, sinh động hơn.
Sáng kiến kinh nghiệm
VD: - Ngoài từ “xao động” ta còn có thể thay thế bằng những từ nào để câu

Sửa câu chỉ có trạng ngữ, thiếu cả chủ ngữ và vị ngữ:
VD: Khi mặt trời ló rạng.
Cách sửa: Bỏ từ “khi” hoặc thay dấu chấm bằng dấu phẩy rồi thêm một vế
câu.
vd: “Khi mặt trời vừa ló rạng, các bác nông dân đã vác cuốc ra đồng.” (bài
làm của học sinh)
* Đối với học sinh khá-giỏi, tôi hướng dẫn các em kĩ phần chữa lỗi diễn đạt và
biết cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật, những từ ngữ gợi tả, gợi cảm để viết
lại câu văn hay hơn.
VD: Một học sinh có óc quan sát tinh tế nhưng diễn đạt còn chưa thoát ý. Khi
tả ông mình đang tưới cây (đề 4, tiết 1, tuần 16: “Tả một người lao động (công
nhân, nông dân, thợ thủ công,…) đang làm việc”) đã viết:
“Đọng lại trên những chiếc lá xanh thẫm, trên vầng trán đã nổi nhiều vết
nhăn của ông là những giọt mồ hôi như muốn tưới cây giúp ông.”
Tôi sửa bằng cách cho học sinh có câu sai nêu rõ ý muốn trình bày và nêu rõ
trực tiếp trước lớp điều muốn viết.
Học sinh: Mồ hôi của ông rơi trên lá, lẫn trong những giọt nước tưới.
Giáo viên: Vậy trên cơ sở ý của bạn chúng ta sẽ cùng sửa để làm cho câu văn
mang tính thuyết phục hơn.
Giáo viên nhấn mạnh: ở đây có 2 thứ nước:- mồ hôi, nước tưới, do đó muốn
nhấn mạnh sự vất vả của ông.
Tôi gọi một học sinh giỏi sửa lại. Em đó đã sửa như sau: “ Đọng lại trên
những chiếc lá xanh là những giọt nước mát, trong vắt và cả những giọt mồ
hôi rơi từ trán ông.”
Sáng kiến kinh nghiệm
Tôi khen ngợi và cho điểm khuyến khích động viên em đó. Việc làm này có
tác dụng kích thích học sinh tích cực trong việc sửa lỗi câu và viết câu hay hơn.
• Lưu ý chung trong quá trình phân tích sửa lỗi:
- Định hướng dẫn dắt bằng hệ thống câu hỏi phù hợp, sát đối tượng học sinh
(chú trọng học sinh yếu, kém, trung bình), giúp các em tự phát hiện lỗi và tìm

chấm chữa, nhận xét. Trường hợp có lỗi cả nhóm không sửa được, tôi ghi lỗi cần
sửa đó lên bảng, yêu cầu các nhóm khác sửa giúp dưới sự điều khiển của cô
giáo.
2.6 Hoạt động 6: Đọc bài văn hay
Chọn đọc bài theo kiểu:
a) Đọc câu hay, ý sáng tạo
b) Đọc đoạn hay
c) Đọc bài hay
a. Đọc câu hay, ý sáng tạo:
Tôi thường nhặt ra trong bài của học sinh những câu hay, sử dụng tốt biện
pháp nghệ thuật để đọc và phân tích. (Có thể có bài viết chưa tốt nhưng bài viết
lại có câu hay và những câu này được đánh dấu sẵn trong quá trình chấm bài)
Ví dụ: “Nhìn từ xa, ngôi nhà như một tòa biệt thự nhỏ xinh nằm núp mình
dưới bóng cây xanh mát. Xung quanh nhà được xây bao bọc bởi những bức
tường kiên cố. Phía trước là khoảng sân rộng trồng cỏ xanh và hoa đủ màu sắc
sặc sỡ. Kế bên là một lỗi đi nhỏ được rải bằng sỏi trắng” (Đề tả ngôi nhà thân
yêu của em)
Tôi cho học sinh phân tích để thấy rõ: Câu văn đã cho thấy khả năng quan sát
tinh tế và khả năng dùng từ tốt. Em đã viết câu văn hay, rõ ý, sinh động, rất
đúng ngữ pháp, biết sử dụng biện pháp nghệ thuật so sánh, nhân hóa, dùng từ
gợi tả, gợi cảm giúp người đọc hình dung một cách cụ thể về ngôi nhà của bạn
Sáng kiến kinh nghiệm
đó: một ngôi nhà đẹp, xinh xắn có cây cối hoa lá và cả lối đi nhỏ được rải bằng
sỏi trắng.
Cuối cùng, tôi yêu cầu cả lớp học tập cách viết câu hay, ý sáng tạo của bạn
b. Đoạn văn hay:
Với đoạn hay – tôi chọn đoạn có cấu trúc câu chặt chẽ, ý liên kết, biết sử
dụng biện pháp tu từ.
Với quá trình phân tích đoạn như: Cấu trúc đoạn - Đề tài nhỏ – Cách viết câu
được phân tích kỹ cho học sinh nắm được cái hay, cái đúng cần học tập.

Những năm trước, tôi rất “ngại” công việc này vì như thế sẽ mất rất nhiều
thời gian của giáo viên. Chính vì vậy, hiệu quả của việc sửa lỗi không cao. Mặc
dù tiết trước, giáo viên đã sửa rất triệt để nhưng đến tiết sau học sinh lại mắc
phải chính lỗi đó, thậm trí có trường hợp điều đó bị lặp lại ngay chính ở cùng
một học sinh. Do đó, trong năm học này, ngay từ tiết trả bài đầu tiên, tôi đã yêu
cầu học sinh nộp bài cũ đã sửa trước khi viết bài mới. Tôi yêu cầu học sinh viết
lại bài viết của mình sau khi đã sửa lỗi đã mắc.
Việc làm này tuy có tạo thêm việc cho giáo viên thật nhưng lại rất cần thiết.
Có vậy các em mới thực hiện việc sửa bài một cách nghiêm túc, hiệu quả luyện
viết văn mới cao được.
Từ khi thực hiện công việc này, tôi thấy tình trạng mắc lỗi của học sinh giảm
hẳn, chỉ còn ở một số học sinh trung bình yếu. Tôi yên tâm tập trung vào công
việc hướng dẫn học sinh cách viết văn hay hơn, sinh động hơn.
- Việc nhắc nhở học sinh chuẩn bị bài mới là việc làm giáo viên thường hay
quên.Mặc dù nó rất nhỏ nhưng cũng không kém phần quan trọng. Việc làm này
sẽ giúp học sinh định hình trước được công việc phải làm, có điều kiện, thời
gian để chuẩn bị cho tiết học sau, góp phần tạo nên thành công của tiết học mới.
Sáng kiến kinh nghiệm
IV. Kết quả
Ngay từ đầu năm học 2007-2008, tôi đã mạnh dạn lên chuyên đề Tập làm
văn trả bài. Tôi đã áp dụng phương pháp tổ chức, hướng dẫn học sinh theo các
hoạt động đã nêu ở trên. Giờ dạy thành công, xếp loại tốt được Ban giám hiệu,
anh chị em đồng nghiệp nhất trí dạy như vậy.
Tôi thấy việc áp dụng các biện pháp tổ chức giờ dạy Tập làm văn trả bài nêu
trên đã đạt hiệu quả cao. Với phương pháp này, giáo viên phải chuẩn bị chu đáo,
kỹ lưỡng và cẩn thận hơn nhưng đổi lại tôi nhận được từ phía học sinh sự tiến bộ
rõ rệt. Từ chỗ học sinh sợ tiết này, thờ ơ với việc phát hiện và sửa lỗi trong bài
văn, đến nay, các em đã rất hăng hái phát biểu ý kiến của mình, đã biết cách sửa
lỗi thường mắc trong bài viết của mình.
Sáng kiến kinh nghiệm

Song đó chỉ là những kinh nghiệm, sự vận dụng của bản thân kính mong sự
góp ý tận tình của phòng giáo dục, ban giám hiệu và sự trao đổi thẳng thắn chân
tình của các đồng nghiệp.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status