một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý ngân sách cấp xã trên địa bàn tỉnh trà vinh - Pdf 24

Website: Email : Tel : 0918.775.368
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN VỀ NGÂN SÁCH XÃ
I. Ngân sách Nhà nước và hệ thống ngân sách
1. Khái niệm Ngân sách Nhà nước
Ngân sách Nhà nước là phạm trù kinh tế mang tính chất lịch sử, bao giờ
cũng gắn liền với sự xuất hiện của Nhà nước và sự tồn tại phát triển của kinh tế
hàng hóa tiền tệ.
Sở dĩ ngân sách Nhà nước xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước
là do khi Nhà nước ra đời đòi hỏi phải có nguồn lực để nuôi sống bộ máy Nhà
nước. Do đó đòi hỏi phải tập trung một bộ phần của cải xã hội vào tay Nhà nước
để phục vụ yêu cầu quản lý của Nhà nước. Đây là điều kiện cần để ngân sách
nhà nước ra đời.
Sự phát triển mạnh mẽ của các quan hệ hàng hóa tiền tệ là điều kiện đủ để
ngân sách nhà nước ra đời, bởi vì quan hệ hàng hóa tiền tệ phát triển sẽ tập trung
các nguồn thu, dự tóan thu chi được giá trị hóa và diễn ra nhanh hơn, phong phú
và linh hoạt hơn. Mặt khác sản xuất hàng hóa đã tạo ra khả năng ngày càng lớn
hơn cho việc tập trung của cải vào tay Nhà nước.
Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu chi của Nhà nước trong dự
toán được cơ quan có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm
để đảm bảo thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước .
- Thu ngân sách nhà nước : là tổng thể các quan hệ kinh tế phát sinh trong
quá trình phân phối nhằm tạo lập quỹ ngân sách Nhà nước.
- Chi ngân sách Nhà nước : là tập hợp các quan hệ kinh tế gắn liền với
quá trình sử dụng ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện các chức năng quản lý
kinh tế - xã hội của Nhà nước.
2. Bản chất và vai trò của ngân sách Nhà nước
2.1. Bản chất
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Bản chất của ngân sách Nhà nước là hệ thống các quan hệ kinh tế phát

và dân cư. Một bộ phận dân cư làm nghĩa vụ tài chính với Nhà nước thông qua
các khoản thuế, lệ phí, ủng hộ tự nguyện, đồng thời một bộ phận dân cư khác
nhận từ ngân sách Nhà nước các khoản trợ cấp xã hội theo chính sách qui định.
Thứ tư : Quan hệ kinh tế giữa ngân sách Nhà nước với thị trường tài chính.
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi không chỉ các nhà doanh nghiệp mà cả Nhà nước,
các đơn vị không sản xuất kinh doanh, các hiệp hội tổ chức quần chúng và dân cư
phải tiếp cận với thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Xuất phát từ chính sách tài
chính - tiền tệ, từ cung cầu về vốn trên thị trường, Nhà nước có thể tham gia trên
thị trường tài chính bằng việc phát hành các loại chứng khoán của Kho bạc Nhà
nước (tín phiếu, trái phiếu, chứng từ đầu tư) nhằm huy động vốn của tất cả các
chủ thể trong xã hội đáp ứng yêu cầu cân đối vốn của ngân sách Nhà nước hoặc
Nhà nước tham gia góp vốn cổ phần, hùn vốn hoặc cho các đơn vị kinh tế vay
bằng hình thức Nhà nước mua các loại chứng khoán của doanh nghiệp .
Như vậy, bằng các quan hệ kinh tế trong quá trình phân phối các nguồn
tài chính của xã hội giữa những chủ thể nhất định đã hình thành quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước và quỹ đó được sử dụng vào mục đích phát triển kinh tế - xã
hội, thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước.
2.2 Vai trò của ngân sách Nhà nước trong cơ chế thị trường.
a. Vai trò huy động nguồn tài chính của ngân sách Nhà nước để đảm bảo
nhu cầu chi tiêu của Nhà nước .
Vai trò về mặt tài chính này của ngân sách Nhà nước được xác định trên
cơ sở bản chất kinh tế của ngân sách Nhà nước. Sự hoạt động của Nhà nước
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài
chính để chi tiêu cho những mục đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu của Nhà
nước phải được thỏa mãn của các nguồn thu bằng hình thức thuế và thu ngoài
thuế. Đây là vai trò lịch sử của ngân sách Nhà nước được xuất phát từ nội tại của
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phạm trù tài chính mà trong bất kỳ chế độ xã hội và cơ chế kinh tế nào, ngân
sách Nhà nước đều phải thực hiện và phát huy.

nghiệp với ngân sách Nhà nước khi là nghĩa vụ tài chính.
Trong cơ chế thị trường kinh tế, Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế xã
hội bằng việc định hướng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần,
bằng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và quy hoạch tổng thể nền kinh tế quốc
dân, bằng sử dụng các công cụ tài chính, giá cả, tiền tệ dưới hình thức các luật
và pháp lệnh, chính sách, cơ chế trong lĩnh vực phân phối phù hợp với vai trò
của Nhà nước với cơ chế kinh tế, cơ chế tài chính và với những yêu cầu của
chính sách tài chính quốc gia, ngân sách Nhà nước.
- Công cụ quản lý kinh tế trong cơ chế thị trường. Bằng quá trình phân
phối, huy động và sử dụng các nguồn tài chính bằng cơ chế hoạt động ngân sách
Nhà nước tác động trực tiếp đến việc thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô và tác
động đến sự hoạt động của các quan hệ hàng hoá tiền tệ trong nền kinh tế theo
quỹ đạo của Nhà nước. Nhà nước sử dụng ngân sách Nhà nước là công cụ để
điều tiết quản lý vĩ mô nền kinh tế - xã hội theo 3 nội dung cơ bản :
c. Kích thích sự tăng trưởng kinh tế theo định hướng xã hội:
Để duy trì sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô và thúc đẩy sự tăng
trưởng kinh tế Nhà nước sử dụng công cụ thuế và chi ngân sách Nhà nước để
hướng dẫn, kích thích và tạo ra sức ép đối với các chủ thể kinh tế trong hoạt
động kinh tế. Bằng công cụ thuế : một mặt, Nhà nước tạo ra nguồn thu chủ yếu
của ngân sách Nhà nước, mặt khác sẽ góp phần kích thích sản xuất phát triển,
thu hút được các doanh nghiệp và tư nhân bỏ vốn đầu tư vào các ngành nghề cần
thiết và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế theo các định hướng phát triển. Hướng
dẫn, khuyến khích thúc đẩy các thành phần kinh tế mỡ rộng phát triển sản xuất
kinh doanh thì thuế phải có tác động điều tiết trên các lĩnh vực : sản xuất, phân
phối lưu thông và tiêu dùng. Mặt khác, ngân sách Nhà nước có tác dụng định
hướng và điều chỉnh các hoạt động kinh tế bằng các giải pháp lớn về chi ngân
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
sách Nhà nước thông qua các khoản chi phát triển kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ
tầng, vào các ngành kinh tế mũi nhọn hoặc trợ giá cho các ngành có ảnh hưởng

loại hàng hóa nào đó vượt quá nhu cầu xã hội làm cho giá mặt hàng đó giảm
mạnh dẫn đến nguy cơ thiệt hại về lợi ích kinh tế cho người sản xuất kinh doanh
và dẫn đến xu hướng dịch chuyển vốn sang các ngành nghề khác thì lúc này Nhà
nước sẽ tác động lên thị trường và giá cả bằng việc mua hàng hóa đó với một giá
thích hợp hoặc vận dụng hình thức trợ giá để đảm bảo lợi ích của người sản xuất
kinh doanh cũng như lợi ích của xã hội trong quá trình phát triển kinh tế. Sự
điều tiết của Nhà nước lên thị trường hàng hóa được thực hiện bằng việc bố trí
các khoản chi ngân sách Nhà nước về dự trữ tài chính, dự trữ Nhà nước trong
ngân sách hàng năm bao gồm dự trữ bằng tiền, vàng, ngoại tệ, các loại hàng hoá
vật tư chiến lược.
Bên cạnh thị trường hàng hóa, Nhà nước còn tác động đến thị trường tiền
tệ, thị trường vốn bằng việc vận dụng đồng bộ các công cụ tài chính, giá cả tiền
tệ trong đó ngân sách Nhà nước là một trong những công cụ quan trọng. Ngân
sách Nhà nước điều tiết thị trường tài chính bằng các biện pháp tích cực như :
khai thác các nguồn vay trong nước bằng phát hành các loại trái phiếu ( công
trái, chứng chỉ đầu tư, tín phiếu kho bạc ), tranh thủ các khoản vay vốn viện trợ
của nước ngoài bằng các biện pháp thu hút và gọi vốn tham gia trên thị trường
chứng khoán với tư cách là người vừa phát hành đồng thời với cả tư cách người
mua chứng khoán. Thực hiện các biện pháp này, ngân sách Nhà nước tác động
tích cực vào mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể trên thị trường tài chính đồng
thời vừa tạo nguồn tài chính cho ngân sách lại vừa thúc đẩy giao lưu các nguồn
vốn góp phần điều tiết lượng tiền trong lưu thông, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát .
e. Điều tiết thu nhập dân cư góp phần thực hiện công bằng xã hội:
Nền kinh tế thị trường với những khuyết tật của nó sẽ dẫn đến xã hội bị
phân hóa về thu nhập. Để giảm bớt sự chênh lệch và điều tiết thu nhập giữa các
tầng lớp giai cấp trong xã hội cần phải có “bàn tay hữu hình” của Nhà nước tác
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
động bằng sử dụng ngân sách Nhà nước. Khả năng của ngân sách Nhà nước
trong tái phân phối thu nhập tùy thuộc vào các yếu tố khác trong nền kinh tế như

cấp ngân sách gắn với nhau bởi hệ thống các quan hệ tài chính. Ngân sách
Trung Ương với ngân sách Địa phương và giữa các cấp trong ngân sách Địa
phương có mối quan hệ với nhau thông qua các khoản trợ cấp theo mục tiêu.
Các khoản trợ cấp này bảo đảm cân đối ngân sách Địa phương, giúp địa phương
khắc phục những khó khăn do điều kiện lịch sử, điều kiện tự nhiên xã hội tạo ra.
Cơ cấu hệ thống ngân sách Nhà nước được mô tả theo sơ đồ sau:
Sơ đồ hệ thống ngân sách Nhà nước

Quan hệ giữa các cấp ngân sách được thực hiện theo nguyên tắc :
+ Ngân sách mỗi cấp được phân định nhiệm vụ chi và nguồn thu cụ thể.
+ Thực hiện cơ chế bổ sung từ ngân sách cấp trên cho ngân sách cấp dưới
để đảm bảo tính công bằng và yêu cầu phát triển cân đối giữa các vùng, các địa
phương . Số bổ sung này được coi là khoản thu của ngân sách cấp dưới.
9
Ngân sách Trung ương Ngân sách địa phương
Ngân sách cấp tỉnh
(Thành phố thuộc trung ương)
Ngân sách thành phố Ngân sách Ngân
sách
thuộc tỉnh cấp thị xã cấp
huyện
Ngân sách cấp xã, phường, thị trấn
Hệ thống Ngân sách nhà nước
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Trường hợp cơ quan quản lý nhà nước cấp trên uỷ quyền cho cơ quan
quản lý Nhà nước cấp dưới thực hiện nhiệm vụ chi thuộc chức năng của mình
thì phải chuyển kinh phí từ ngân sách cấp trên cho cấp dưới để thực hiện nhiệm
vụ đó.
+ Ngoài cơ chế bổ sung nguồn thu và cơ chế uỷ quyền không được dùng
ngân sách của cấp này để chi cho các nhiệm vụ của cấp khác, trừ trường hợp đặc

phương thức phân phối lại và không hoàn trả một cách trực tiếp.
+ Đặc điểm riêng
Hiện nay ngân sách Việt Nam bao gồm 4 cấp. Tuy chức năng, nhiệm vụ
giống nhau, phạm vi và qui mô hoạt động có khác nhau nhưng ngân sách xã có
đặc điểm riêng; đó là : ngân sách xã vừa là một cấp ngân sách cơ sở trong hệ
thống ngân sách nhà nước, vừa là một đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí. Đặc
điểm riêng này có ảnh hưởng không nhỏ đến việc thiết lập các chính sách trong
quản lý ngân sách xã
2. Vai trò của ngân sách xã
- Ngân sách xã là nguồn tài chính chủ yếu để đảm bảo cho chính quyền
Nhà nước cấp xã thực thi các nhiệm vụ kinh tế xã hội trên địa bàn. Để thực hiện
các chức năng nhiệm vụ về quản lý kinh tế, xã hội trên địa bàn theo sự phân cấp
trong hệ thống chính quyền Nhà nước, chính quyền xã cần phải có được nguồn
tài chính đủ lớn. Trong số các quỹ tiền tệ mà chính quyền xã được quyền quản
lý và sử dụng, thì ngân sách xã được coi là quỹ tiền tệ có qui mô lớn nhất, chỉ
được phép sử dụng cho việc thực hiện các nhiệm vụ mà chính quyền xã phải
đảm nhận. Do vậy khả năng đảm bảo nguồn tài chính từ ngân sách xã như thế
nào sẽ có ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế,
xã hội của chính quyền Nhà nước cấp xã.
- Ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng để giúp chính quyền Nhà
nước các xã khai thác thế mạnh về kinh tế, xã hội trên địa bàn. Cùng với quá
trình hoàn thiện luật ngân sách Nhà nước, cơ chế phân cấp về quản lý kinh tế -xã
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hội cho chính quyền xã càng ngày càng nhiều hơn, tạo thế chủ động cho các xã
trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, xã hội trên địa bàn. Trong quá
trình đó ngân sách xã đóng góp vai trò không nhỏ thông qua việc tạo lập các
nguồn tài chính cần thiết để chính quyền xã đầu tư cho khai thác các thế mạnh
về kinh tế, xã hội nông thôn và từng bước tạo đà cất cánh cho kinh tế xã những
năm sau này

ngân sách cấp trên hoặc thu trựo cấp).
Theo luật ngân sách Nhà nước năm 2002 các khoản thu dành cho ngân
sách xã được hưởng bao gồm những khoản gì là tùy thuộc vào quyết định của
Hội đồng nhân dân tỉnh. Tuy vậy Bộ Tài chính cũng khuyến cáo có thể đưa các
khoản thu sau vào danh mục dành cho ngân sách xã được hưởng: cụ thể:
1.1 Các khoản thu ngân sách xã được hưởng 100%.
- Các khoản phí, lệ phí thu vào ngân sách xã theo quy định
- Thu từ các hoạt động sự nghiệp của xã phần nộp vào ngân sách Nhà
nước theo chế độ quy định.
- Thu đấu thầu, thu khoán theo mùa vụ từ quỹ đất công ích và hoa lợi
công sản khác theo quy địnhcủa pháp luật do xã quản lý
- Các khoản thu huy động đóng góp của các tổ chức cá nhân gồm: các
khoản đóng góp theo pháp luật quy định, các khoản đóng góp theo nguyên tắc tự
nguyện để đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng do Hội đồng nhân xã quyết định đưa
vào ngân sách xã quản lý và các khoản đóng góp tự nguyện khác.
- Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài trực
tiếp cho ngân sách xã.
- Thu kết dư ngân sách năm trước
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
1.2 Các khoản thu ngân sách xã được hưởng theo tỷ lệ điều tiết
- Thuế sử dụng đất nông nghiệp từ hộ gia đình
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Thuế nhà, đất
- Tiền cấp quyền sử dụng đất ( đối với xã, thị trấn)
- Lệ phí trước bạ nhà, đất
Các khoản thu, tỷ lệ ngân sách xã được hưởng tối thiểu 70%. Căn cứ vào
nguồn thu và nhiệm vụ chi của xã, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có thể quyết định
tỷ lệ ngân sách xã được hưởng cao hơn đến tối đa 100%.

xuyên và chi đầu tư phát triển.
2.1 Chi thường xuyên
- Chi cho hoạt động của các cơ quan Nhà nước ở xã bao gồm
+ Tiền lương, tiền công cho cán bộ công chức cấp xã
+ Sinh hoạt phí đại biểu HĐND
+ Các khoản phụ cấp khác theo quy định của Nhà nước
+ Chi về phúc lợi tập thể, y tế, vệ sinh
+ Công tác phí
+ Chi về hoạt động, văn phòng như: tiền điện, tiền nước, vật liệu văn
phòng, bưu phí, điện thoại, hội nghị, chi tiếp tân.
+ Chi mua sắm sữa chữa thường xuyên trụ sở, phương tiện làm việc
+ Chi khác
- Kinh phí hoạt động của cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam của xã
- Kinh phí hoạt động của tổ chức chính trị xã hội của xã sau khi trừ các
khoản thu theo điều lệ và các khoản thu khác ( nếu có)
- Đóng bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) cho cán bộ xã và
các đối tượng khác theo chế độ hiện hành.
- Chi công tác dân quân tự vệ, trật tự an toàn xã hội:
+ Huấn luyện dân quân tự vệ, các khoản phụ cấp huy động dân quân tự vệ
và các khoản chi khác về dân quân tự vệ thuộc nhiệm vụ chi của ngân sách xã
theo quy định của pháp lệnh dân quân tự vệ
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
+ Đăng ký nghĩa vụ quân sự, công tác nghĩa vụ quân sự khác thuộc nhiệm
vụ chi của ngân sách xã theo quy định của Pháp lệnh dân quân tự vệ
+ Tuyên truyền vận độngvà tổ chức phong trào bảo vệ an ninh, trật tự an
toàn xã hội trên địa bàn xã.
+ Các khoản chi khác theo chế độ quy định
- Chi cho công tác xã hội và hoạt động văn hóa thông tin, thể dục thể thao
do xã quản lý

hội của xã không có khả năng thu hồi vốn theo phân cấp của cấp tỉnh
- Chi đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội của xã
hội của xã từ nguồn huy động đóng góp của các tổ chức cá nhân cho từng dự án
nhất định theo qui định pháp luật, do Hội đồng nhân dân (HĐND) xã quyết định
đưa vào ngân sách xã quản lý.
- Các khoản chi ĐTPT khác theo quy định của pháp luật.
IV. Chu trình ngân sách xã
1. Khái niệm về chu trình ngân sách xã
Khi xem xét trên giác độ biểu hiện bên ngoại thì ngân sách Nhà nước
được nhìn nhận như một bảng dự toán thu chi bằng tiền của Nhà nước trong một
năm nhất định. Qua đó cho thấy, hoạt động của ngân sách Nhà nước luôn gắn
với từng năm cụ thể gọi là năm ngân sách (hay năm tài chính, năm tài khóa).
Năm ngân sách được hiểu là khoảng thời gian mà hoạt động thu chi ngân
sách Nhà nước được thực hiện theo dự toán đã được các cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền xét duyệt. Năm ngân sách ở nước ta được tính từ 0h00 ngày 01/01
đến 24h00 ngày 31/12 năm dương lịch.
Dự tóan ngân sách gắn chặt với các năm ngân sách nên khi năm ngân sách
này kết thúc cũng đồng thời là thời gian khởi đầu cho một năm ngân sách mới.
Do vậy, hoạt động ngân sách có tính chu kỳ lặp đi lặp lại hình thành nên chu
trình ngân sách liên tục.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chu trình ngân sách là khoảng thời gian cần thiết để tổ chức quản lý các
hoạt động của ngân sách Nhà nước theo một trình tự khoa học nhất định. Trình
tự các bước của các chu trình ngân sách kế tiếp nhau luôn có sự lặp lại nhưng ở
mức độ cao hơn.
Trong một chu trình ngân sách phải bao gồm 3 khâu : Lập dự toán ngân
sách Nhà nước, chấp hành và quyết tóan ngân sách Nhà nước.
Để thực hiện được 3 khâu trong một chu trình ngân sách Nhà nước rất cần
phải có thời gian hợp lý cho mỗi khâu đó. Do đó, độ dài về thời gian của một

hoàn thành khi dự toán đó được HĐND xã thảo luận và thông qua. Do vậy thời
gian tiến hành lập dự toán ngân sách cho một chu trình ngân sách kế tiếp phải
được thực thi ngay trong thời gian diễn ra chấp hành ngân sách của chu trình
ngân sách hện tại.
Trong 3 khâu của chu trình ngân sách thì lập dự toán được coi là khâu mở
đầu và có tầm quan trọngđặc biệt đối với chu trình ngân sách xã vì:
- Nó xác định và dự đóan tất cả các khả năng thu, nhu cầu chi dự kiến có
thể phát sinh trong năm kế hoạch để rồi cân nhắc lựa chọn các phương án phân bổ
ngân sách nhằm thiết lập cân đối ngân sách một cách vững chắc và phản ảnh trên
các biểu mẫu dự tóan trình cho các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt.
- Quyền quyết định dự toán ngân sách xã thuộc về thẩm quyền của HĐND
xã sau đó giao lại cho UBND tổ chức chấp hành ngân sách xã. Nên những nội
dung thu, chi nào không được ghi vào trong dự toán hoặc không được HĐND
xét duyệt và thông qua thì không thể có cơ hội phát sinh.
- Các chỉ tiêu của dự toán thu chi ngân sách xã là một trong những căn cứ
pháp lý quan trọng để tổ chức chấp hành và quyết toán ngân sách xã. Đặc biệt
đối với những khoản chi ngân sách xã thì các chỉ tiêu trong dự tóan chi ngân sách
là điều kiện quan trọng hàng đầu để Kho bạc Nhà nước thực hiện kiểm soát chi.
2.2 Chấp hành ngân sách xã
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các chỉ tiêu trong dự toán ngân sách xã đã được HĐND xã thông qua bắt
buộc UBND xã và các ban ngànhcó liên quan phải triển khai và biến chúng
thành hiện thực, không được tự ý điều chỉnh. Nhằm nhấn mạnh nghĩa vụ đó của
UBND và các ban ngành có liên quan đến thu, chi ngân sách xã nên người ta
dùng thuật ngữ “chấp hành ngân sách xã ”.Việc chấp hành ngân sách xã đạt
được mức độ nào là một trong những căn cứ để đanhs giá năng lực của các
thành viên UBND, năng lực của trưởng (hoặc phó) các ban ngành đoàn thể có
liên quan đến quản lý ngân sách xã. Sự bộc lộ năng lực trên phương diện này là
dễ so sánh hơn ở các phương diện khác.

nhánh của sông Tiền); phía Tây Nam giáp với Sóc Trăng và Cần Thơ qua ranh
giới sông Hậu; phía Tây giáp Vĩnh Long; phía Đông là Biển Đông.
Trà Vinh nối với thị xã Vĩnh Long bằng quốc lộ 53 - tuyến giao thông đối
ngoại duy nhất nối tỉnh với các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long và vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Ở vị trí nằm kẹp giữa 2 sông Cổ Chiên, Hậu Giang và một mặt giáp biển
Đông (dài 65 km), nơi đây có 2 cửa sông: Cung Hầu và Định An. Đây là lợi thế
của tỉnh mà các tỉnh khác không có được. Tuy nhiên do nằm ở vị trí không phải
trên đường giao lưu của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long nên đây là điểm bất
lợi đối với sự phát triển kinh tế của tỉnh.
2. Về kinh tế - xã hội
Tỉnh Trà Vinh có diện tích sản xuất nông nghiệp lớn chiếm trong tổng
diện tích tự nhiên, vừa có diện tích lúa, vừa có diện tích nuôi trồng thủy sản và
vườn cây ăn trái. Là tỉnh có đông đồng bào dân tộc Khơmer, nền kinh tế địa
phương đang ở điểm xuất phát thấp, thu nhập bình quân đầu người đến cuối năm
2005 đạt 6,3 triệu đồng ( tương đương 400USD/người/năm ), là tỉnh có thu nhập
thấp so với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
Toàn tỉnh có 7 huyện và 1 thị xã, có 102 xã - phường - thị trấn với 736 ấp khóm
Tổng diện tích tự nhiên là 221.515,03 ha
Trong đó có:
- Đất nông nghiệp: 180.004,31 ha
- Đất lâm nghiệp : 6.080,20 ha
- Đất chuyên dùng: 9.936,22 ha
- Đất ở : 3.251,36 ha
- Đất chưa sử dụng: 22.242,94 ha
Về dân số toàn tỉnh có 1.067.981 người; trong đó dân tộc Khmer chiếm
23,33% dân số toàn tỉnh. Nhìn chung dân số Trà Vinh phân bố không đồng đều
giữa các khu vực hành chánh và các vùng trong tỉnh. Do cơ cấu dân số trẻ và tốc

vùng này chỉ thích hợp cho việc trồng miá. Mặc dù hiệu quả kinh tế từ ngành
này không đạt cao, do nhà máy hoạt động theo mùa vụ, nhưng đã góp phần
trong việc giải quyết việc làm và các vấn đề về xã hội, sản lượng đường chế biến
trong những năm 2001 đến năm 2005 giảm so năm 2000, bình quân hàng năm
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
giảm trên 2000 tấn (giảm 9,33%), nguyên nhân do chi phí lên cao, giá miá thấp,
người dân không có lãi nên thu hẹp diện tích trồng miá.
Khu vực thương nghiệp và dịch vụ trong những năm qua tăng khá, giá trị
tăng thêm của khu vực này năm 2005 so năm 2000 tăng 92,18% hay tăng
576.890 triệu đồng và chiếm tỷ trọng 23,79% trong GDP, bình quân giai đoạn
2001-2005 tăng 13,96%.
Xét theo các thành phần kinh tế thì thành phần kinh tế nhà nước đóng góp
vào giá trị GDP với một tỷ lệ tương đối cao, thể hiện qua các năm, năm 2003
góp 16,09%, năm 2004 góp 14,44%, năm 2005 góp 14,00%, sở dĩ năm 2004
mức đóng góp giảm là do một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh hiệu quả, phải
giải thể. Năm 2005, dự báo mức độ đóng góp cũng không cao, vì một số doanh
nghiệp (công ty khảo sát thiết kế, công ty sách thiết bị trường học, công ty vận
tải, công ty nước khoáng Sam vi) đã cổ phần và chuyển 100% sở hữu nhà nước
về người lao động, tuy nhiên trong thời gian qua kinh tế nhà nước luôn chiếm
vai trò chủ đạo, toàn tỉnh có 37 doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh
vực như công nghiệp chế biến, xây dựng, giao thông vận tải, phân phối điện
nước, tài chính tín dụng, khảo sát thiết kế, công trình công cộng.
Đối với khu vực kinh tế tư nhân và cá thể mức dộ đóng góp vào GDP tăng
lên hàng năm, bình quân hàng năm mức đóng góp của kinh tế tư nhân tăng
0,53% (năm 2000 là 1,87%, năm 2005: 4,53%), mức đóng góp của kinh tế cá thể
tăng 0,24%. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: với chính sách ưu đãi về
thuế, vốn và hỗ trợ lãi suất, tỉnh thu hút các doanh nghiệp nước ngoài và liên
doanh nước ngoài đến đầu tư, năm 2005 có 5 doanh nghiệp: Công ty Đại Việt,
công ty Vạn Tỷ, công ty giày Mỹ Phong, Công ty Hoá chất Mỹ Lan, công ty

chính sự nghiệp, Phòng Đầu tư, Phòng Quản lý doanh nghiệp, Phòng Quản lý
giá – Công sản, Phòng Tin học – Thống kê và Ban Thanh tra tài chính làm việc
theo chế độ thủ trưởng.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status