Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doạnh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới - Pdf 24

1
Lời nói đầu
Thương mại là một ngành của nền kinh tế quốc dân, là lĩnh vực trao đổi
hàng hóa thông qua mua bán trên thị trường. Thương mại Việt Nam rất phát
triển từ sau thời kỳ đổi mới (1986) và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong
phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại góp phần nâng
cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại trong việc lưu
thông hàng hóa phục vụ tiêu dùng và sản xuất.
Để tăng cường sự hội nhập quốc tế, đẩy mạnh hơn công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đặc biệt sau khi gia nhập AFTA vào năm
2006 thì phát triển thị trường hàng hóa cho các doanh nghiệp thương mại nước
ta là yêu cầu khách quan, cấp thiết.
Trong bài viết này, em xin trình bày về "Những biện pháp nhằm phát
triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời
gian tới" nhằm mục đích nhận thức đúng đắn hơn về thực trạng phát triển thị
trường hàng hóa của các doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian qua
từ đó nêu ra những biện pháp đúng đắn nhằm phát triển thị trường hàng hóa
của doanh nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Trong bài viết này em xin trình bày các vấn đề sau:
+ Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường hàng hóa ở doanh
nghiệp thương mại.
+ Phát triển thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta
trong thời gian tới.
+ Những biện pháp nhằm phát triển thị trường hàng hóa của doanh
nghiệp thương mại nước ta trong thời gian tới.
Em xin chân thành cám ơn thầy: ThS Nguyễn Văn Tuấn và PGS.TS
Đặng Đình Đào đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất nhiều trong quá trình hoàn
thành bài viết này!
2
Chương 1
Những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển thị trường

Ba là, khách hàng phải có khả năng thanh toán, tức là khách hàng phải có
khả năng trả tiền để mua hàng.
1.1.2. Các yếu tố thị trường.
Các yếu tố của thị trường gồm: cung, cầu và giá cả thị trường.
Tổng hợp các nhu cầu của khách hàng (người mua) tạo nên cầu về hàng hóa.
Tổng hợp các nguồn cung ứng sản phẩm cho khách hàng trên thị trường
tạo nên cung hàng hóa.
Sự tương tác giữa cung và cầu, tương tác giữa người mua và người mua,
người bán với người bán và người bán với người mua hình thành giá cả thị
trường. Giá cả thị trường là một đại lượng biến động do sự tương tác của cung
và cầu trên thị trường của một loại hàng hóa, ở địa điểm và thời điểm cụ thể.
1.1.3. Các quy luật của thị trường.
* Quy luật giá trị:
Đây là quy luật kinh tế của kinh tế hàng hóa. Khi nào còn sản xuất và lưu
thông hàng hóa thì quy luật giá trị còn phát huy tác dụng. Quy luật giá trị yêu
cầu sản xuất và lưu thông hàng hóa phải dựa trên cơ sở giá trị lao động. Xã
hội, cần thiết trung bình để sản xuất và lưu thông hàng hóa và trao đổi ngang
giá. Việc tính toán chi phí sản xuất và lưu thông bằng giá trị là cần thiết bởi
đòi hỏi của thị trường, của xã hội với nguồn lực có hạn phải sản xuất được
nhiều của cải vật chất cho xã hội nhất, hay là chi phí cho một đơn vị sản phẩm
là ít nhất với điều kiện chất lượng sản phẩm cao nhất. Người sản xuất hoặc
kinh doanh nào có chi phí lao động xã hội cho một đơn vị sản phẩm thấp hơn,
trung bình thì người đó có lợi, ngược lại người nào có chi phí cao thì khi trao
đổi thì sẽ không thu được giá trị đã bỏ ra, không có lợi nhuận và phải thu hẹp
sản xuất, người kinh doanh phải tiết kiệm được chi phí, phải không ngừng cải
tiến kỹ thuật công nghệ, đổi mới sản phẩm, đổi mới kinh doanh, dịch vụ để
thỏa mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng, để bán được nhiều hàng hóa và
4
dịch vụ.
* Quy luật cung cầu.

Nếu hàng hóa bán được, tức là được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp
thương mại mới thu hồi được vốn có nguồn thu trang trải chi phí và có lợi
nhuận. Ngược lại, nếu hàng hóa đưa ra bán nhưng không có ai mua, tức là
không được thị trường thừa nhận. Để được thị trường thừa nhận, doanh nghiệp
thương mại phải nghiên cứu nhu cầu của khách hàng, hàng hóa phải phù hợp
với nhu cầu của khách hàng, phù hợp ở đây là phù hợp về số lượng, chất
lượng, sự đồng bộ, quy cách, cỡ loại, mầu sắc, bao bì, giá cả, thời gian và địa
điểm thuận tiện cho khách hàng.
* Chức năng thực hiện.
Chức năng này đòi hỏi hàng hóa và dịch vụ phải được thực hiện giá trị
trao đổi: hoặc bằng tiền hoặc bằng hàng, bằng các chứng từ có giá trị khác.
Người bán hàng cần tiền, còn người mua cần hàng. Sự gặp gỡ giữa người bán
và người mua được xác định bằng giá hàng. Hàng hóa bán được tức là có sự
dịch chuyển hàng hóa từ người bán sang người mua.
* Chức năng điều tiết và kích thích.
Qua hành vi trao đổi hàng hóa và dịch vụ trên thị trường, thị trường điều
tiết và kích thích sản xuất và kinh doanh phát triển hoặc ngược lại. Đối với
doanh nghiệp thương mại, hàng hóa và dịch vụ bán hết nhanh sẽ kích thích
doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động tạo nguồn hàng, thu mua hàng hóa để cung
ứng ngày càng nhiều hơn hàng hóa và dịch vụ cho thị trường. Ngược lại, nếu
hàng hóa và dịch vụ không bán được, doanh nghiệp sẽ hạn chế mua, phải tìm
khách hàng mới, thị trường mới, hoặc chuyển hướng kinh doanh mặt hàng
khác đang hoặc sẽ có khả năng có khách hàng. Chức năng điều tiết kích thích
này luôn điều tiết sự gia nhập ngành hoặc rút ra khỏi ngành của một số doanh
nghiệp. Nó khuyến khích các nhà kinh doanh giỏi và điều chỉnh theo hướng
đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh có lợi, các mặt hàng mới, chất lượng cao, có
khả năng bán được khối lượng lớn.
* Chức năng thông tin.
Thông tin thị trường là những thông tin về nguồn cung ứng hàng hóa dịch
6

chất lượng cao văn minh và hiện đại.
Ba là, dự trữ hàng hóa phục vụ sản xuất và tiêu dùng sản xuất, giảm bớt
dự trữ ở các khâu tiêu dùng, bảo đảm việc điều hòa cung cầu.
Bốn là, phát triển các hoạt động dịch vụ phục vụ tiêu dùng sản xuất và
tiêu dùng cá nhân ngày càng phong phú, đa dạng, văn minh. Giải phóng con
người khỏi các công việc không tên trong gia đình, vừa nặng nề vừa mất thời
gian. Con người được nhiều thời gian tự do hơn.
Năm là, thị trường hàng hóa dịch vụ ổn định có tác dụng to lớn để ổn
định sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân.
1.1.6. Phân loại thị trường hàng hóa.
1.1.6.1. Căn cứ vào công dụng của hàng hóa.
* Thị trường hàng tư liệu sản xuất.
Đó là những sản phẩm dùng để sản xuất. Thuộc về hàng tư liệu sản xuất
có: các loại máy móc, thiết bị như máy tiện, phay, bào... các loại nguyên vật
liệu, các loại nhiên liệu, các loại hóa chất, các loại dụng cụ, phụ tùng... Người
ta con gọi thị trường hàng tư liệu sản xuất là thị trường yếu tố đầu vào của các
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
* Thị trường hàng tư liệu tiêu dùng.
Đó là những sản phẩm dùng để phục vụ cho tiêu dùng cá nhân của con
người. Ví dụ: lương thực, quần áo, giày dép, thuốc chữa bệnh, các sản phẩm hàng
tiêu dùng cho cá nhân người tiêu dùng. Các sản phẩm này ngày càng nhiều theo
đà phát triển của sản xuất và nhu cầu đa dạng, nhiều vẻ của con người.
1.1.6.2. Căn cứ vào nguồn sản xuất ra hàng hóa.
* Thị trường hàng công nghiệp.
Thị trường hàng công nghiệp bao gồm sản phẩm hàng hóa do các xí
nghiệp công nghiệp khai thác, chế biến sản xuất ra.
Công nghiệp khai thác tạo ra sản phẩm là nguyên liệu. Nguyên liệu trải
qua một hoặc một vài công đoạn chế biến thì thành vật liệu. Công nghiệp chế
biến tạo các nguyên vật liệu thành các sản phẩm hàng công nghiệp. Đó là các
loại hàng hóa có tính chất kỹ thuật cao, trung bình hoặc thông thường, có đặc

Trên thế giới ngày nay, không có một quốc gia nào lại không có ngoại
thương, không có xuất nhập hàng hóa. Xuất nhập khẩu hàng hóa là lợi dụng
được ưu thế tương đối và tuyệt đối của mỗi quốc gia và là yếu tố cho cả hai
9
bên có quan hệ xuất nhập khẩu.
1.2. Doanh nghiệp thương mại (DNTM).
1.2.1. Khái niệm.
Doanh nghiệp thương mại là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp
pháp nhằm mục đích thực hiện hoạt động kinh doanh thương mại, tổ chức lưu
chuyển hàng hóa, mua hàng hóa ở nơi sản xuất và đem bán ở nơi có nhu cầu
nhằm thu lợi nhuận.
Đặc thù của DNTM là hoạt động trong lĩnh vực phân phối lưu thông,
thực hiện lưu chuyển hàng hóa từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng chứ không
sản xuất ra các hàng hóa đó, mua để bán chứ không phải để tiêu dùng.
DNTM là một tổ chức, một đơn vị kinh doanh có đủ các điều kiện mà
pháp luật qui định và cho phép kinh doanh những mặt hàng pháp luật không
cấm. DNTM phải có tổ chức, đảm bảo những điều kiện về vốn, về tư cách
pháp nhân và chịu trách nhiệm trước pháp luật về hành vi kinh doanh và hàng
hóa kinh doanh của mình.
1.2.2. Các loại hình doanh nghiệp thương mại.
1.2.2.1. Căn cứ vào tính chất của mặt hàng kinh doanh.
* Doanh nghiệp kinh doanh chuyên môn hóa: đó là các doanh nghiệp
chuyên kinh doanh một hoặc một số mặt hàng có cùng công dụng, trạng thái
hoặc tính chất nhất định.
* Các doanh nghiệp kinh doanh tổng hợp: là các doanh nghiệp kinh
doanh nhiều mặt hàng có công dụng, trạng thái, tính chất khác nhau.
* Các doanh nghiệp kinh doanh đa dạng hóa (hỗn hợp): các doanh
nghiệp kinh doanh cả sản xuất, cả kinh doanh hàng hóa và thực hiện các hoạt
động dịch vụ thương mại.
1.2.2.2. Theo quy mô của doanh nghiệp.

hiện, tìm ra những chủng loại hàng hóa, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu và
tìm mọi cách tạo ra chúng nhằm đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu đó của khách hàng.
Chức năng thứ hai: là DNTM phải không ngừng nâng cao trình độ thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh. DNTM phải là
người hậu cần tốt của sản xuất và tiêu dùng, đem đến cho người tiêu dùng
những hàng hóa đủ về số lượng, tốt về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu, kịp thời
11
gian với giá cả hợp lý.
Chức năng thứ ba: giải quyết tốt các mối quan hệ bên trong nội bộ doanh
nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Vì giải quyết tốt các mối
quan hệ bên trong và bên ngoài là việc cần thiết để tạo ra sự phối hợp nhịp
nhàng trong kinh doanh. Giải quyết các mối quan hệ bên trong doanh nghiệp
là giải quyết tốt các mối quan hệ giữa các thành viên trong doanh nghiệp với
nhau, làm cho mọi người thân thiện, hiểu biết lẫn nhau, hiểu biết được mục
tiêu nhiệm vụ của doanh nghiệp từ đó đoàn kết, phấn đấu vì mục tiêu chung.
Giải quyết mối quan hệ bên trong là cơ sở, là nền tảng để giải quyết mối quan
hệ bên ngoài DNTM. Đó là quan hệ với bạn hàng, người cung ứng, với cơ
quan cấp trên, với cơ quan quản lý, với khách hàng... tạo nền văn hóa doanh
nghiệp, quyết định thành bại trong kinh doanh.
1.2.4. Nhiệm vụ của DNTM.
DNTM có nhiệm vụ kinh doanh đúng theo ngành, nghề đã đăng ký và
mục đích thành lập doanh nghiệp. Theo luật Việt Nam, các DNTM có quyền
tự do kinh doanh và chủ động trong mọi hoạt động kinh doanh mà pháp luật
cho phép.
DNTM có nhiệm vụ quản lý tốt lao động, vật tư, tiền vốn để không
ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để thực hiện kinh doanh có lợi nhuận
DNTM phải sử dụng triệt để các nguồn lực của doanh nghiệp, đề ra các chiến
lược chiếm lĩnh thị trường để tiêu thụ hàng hóa một cách nhanh chóng. Vì thị
trường hàng hóa là đầu ra của DNTM, quyết định thành công hay thất bại. Vì
có bán được hàng hóa thì DNTM mới thu được vốn và lãi để từ đó tiếp tục

đáng là công cụ chủ yếu của Nhà nước trong việc điều tiết và quản lý vĩ mô.
Doanh nghiệp thương mại có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sản
xuất, mở rộng lưu thông tạo điều kiện không ngừng nâng cao hiệu quả kinh
doanh của các doanh nghiệp, tích cực góp phần tăng tích lũy xã hội nhằm thực
hiện thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập mau
chóng vào nền kinh tế thế giới.
Doanh nghiệp thương mại thông qua hoạt động kinh doanh của mình đã
làm tốt việc phân phối hàng hóa từ nơi thừa đến nơi thiếu qua đó nâng cao
mức hưởng thụ của người dân. Và khi mức sống của người dân được tăng lên
13
thì vai trò của doanh nghiệp thương mại càng quan trọng.
DNTM có vai trò quan trọng trong việc mở rộng thị trường, đặc biệt là
thị trường nước ngoài thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, đưa hàng hóa
trong nước ra nước ngoài và nhập hàng hóa, thiết bị kỹ thuật.
1.3. thị trường hàng hóa của doanh nghiệp thương mại.
1.3.1. Khái niệm.
Thị trường hàng hóa của DNTM là một hay nhiều nhóm khách hàng với
các nhu cầu về hàng hóa, có khả năng thanh toán và những người bán cụ thể
nào đó mà ở đó DNTM có thể mua hàng hóa, dịch vụ để cung cấp và làm thỏa
mãn nhu cầu của khách hàng.
Đối với DNTM, thị trường hàng hóa bao gồm các nhân tố: khách hàng có
nhu cầu và khả năng thanh toán, các doanh nghiệp cung cấp hàng hóa bao
gồm bản thân doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh, hàng hóa và giá cả.
Thị trường hàng hóa của DNTM bao gồm: thị trường nguồn hàng và thị
trường bán hàng.
Thị trường nguồn hàng của DNTM là nơi cung cấp toàn bộ khối lượng và
cơ cấu hàng hóa mà doanh nghiệp thương mại cần mua.
Thị trường bán hàng của DNTM là tất cả các khách hàng có nhu cầu, có
khả năng thanh toán về hàng hóa mà doanh nghiệp kinh doanh.
1.3.2. Vai trò của thị trường hàng hóa đối với DNTM.

còn một số hàng hóa có giá trị cao thì lợi nhuận phụ thuộc vào độ tin cậy về
chất lượng và công tác dịch vụ.
Ví dụ: để mua một chiếc xe máy trị giá 25 triệu VND thì khách hàng sẽ
hết sức chú ý tới chất lượng của xe còn giá cả chênh lệch 1 triệu đến 2 triệu thì
không quan trọng miễn là chất lượng xe tốt.
Thị trường nguồn hàng thuận lợi, cách thu mua phù hợp sẽ giúp cho
DNTM đạt hiệu quả cao trong kinh doanh. Thị trường nguồn hàng càng gần
DNTM hoặc điều kiện giao thông vận tải thuận lợi thì sẽ giúp cho DNTM mua
được hàng nhanh chóng, kịp thời, giảm chi phí cho vận chuyển, làm cho giá
thành của sản phẩm giảm đáng kể. Còn cách thu mua hợp lý tránh cho DNTM
những khoản chi phí không cần thiết mà vẫn mua được hàng hóa đạt yêu cầu.
DNTM có thể áp dụng các hình thức thu mua sau:
15
Mua theo đơn đặt hàng và hợp đồng kinh tế ký trước. Hình thức mua này
giúp cho DNTM ổn định được nguồn hàng, có nguồn hàng chắc chắn để đáp
ứng nhu cầu của khách hàng.
Mua hàng không theo hợp đồng: đây là hình thức mua đứt bán đoạn và
mua hàng trôi nổi (vãng lai) trên thị trường. Với hình thức này thì người mua
hàng cần có một nghiệp vụ mua hàng thông thạo, có kỹ năng mua hàng để bảo
đảm hàng mua về có thể bán được.
Mua qua đại lý: áp dụng khi nguồn hàng không tập trung, không thường xuyên.
Mua hàng bằng hình thức liên doanh liên kết: DNTM có thể lợi dụng ưu
thế của mình về vốn, nguyên vật liệu hoặc thị trường tiêu thụ cùng các doanh
nghiệp khác liên doanh liên kết để nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao
sản lượng sản phẩm sản xuất ra và tiêu thụ sản phẩm trên thị trường.
Nhận bán hàng ủy thác hoặc ký gửi: DNTM sẽ nhận được chi phí ủy thác
hoặc chi phí ký gửi. Với hình thức này DNTM có thể lợi dụng được vốn kinh
doanh và làm phong phú thêm nguồn hàng của doanh nghiệp.
Gia công hoặc bán nguyên liệu thu mua thành phẩm: DNTM đưa nguyên
vật liệu đến xí nghiệp gia công, trả phí gia công hoặc bán nguyên vật liệu cho

cầu thì sẽ không bán được hàng. Khi đời sống của nhân dân được cải thiện thì
nhu cầu của họ càng tăng lên và những đòi hỏi về chất lượng hàng hóa,
phương thức phục vụ của DNTM ngày càng tăng cao. DNTM phải có phương
thức phục vụ tốt nhất, xem khách hàng là "thượng đế" để khách hàng được
thỏa mãn tốt nhất. Khách hàng có xu hướng mua hàng hóa của những DNTM
có phương thức phục vụ nhiệt tình, có uy tín, đảm bảo chất lượng hàng hóa.
+ Thị trường bán hàng trở thành vấn đề sống còn đối với DNTM. Nếu
DNTM có thị trường bán ổn định, tiêu thụ được hàng hóa và thu được lợi
nhuận cao thì DNTM có điều kiện tiếp tục phát triển, tiếp tục mở rộng kinh
doanh. Còn nếu DNTM không bán được hàng, bị thua lỗ thì DNTM có thể
phải ngừng hoạt động hoặc phải chuyển sang kinh doanh mặt hàng khác.
DNTM có thể áp dụng các phương thức bán hàng sau:
Căn cứ vào địa điểm giao hàng cho khách hàng có hình thức bán tại kho
của người cung ứng, tại kho của DNTM, bán qua cửa hàng quầy hàng và bán
17
tại đơn vị tiêu dùng.
Hình thức bán tận đơn vị tiêu dùng, bán tại nhà theo yêu cầu của khách
hàng là hình thức bán tạo thuận lợi cho người mua và là phương thức chủ yếu
nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng và cạnh tranh lẫn nhau, đang được
các DNTM áp dụng hiệu quả.
Theo khâu lưu chuyển hàng hóa có bán buôn và bán lẻ. Bán buôn là khối
lượng lớn, theo hợp đồng và thanh toán không dùng tiền mặt, giá bán rẻ hơn
và doanh số thường cao hơn so với bán lẻ.
Bán lẻ là bán theo yêu cầu nhỏ lẻ của người tiêu dùng, đáp ứng yêu cầu
kịp thời của khách hàng thanh toán ngay. Vì hàng hóa phải qua khâu bán
buôn, lưu kho, chi phí cho bán hàng nên giá bán lẻ thường cao hơn, việc tăng
doanh số của DNTM chậm hơn nhưng lại được nhiều thông tin trực tiếp từ
người tiêu dùng.
Theo phương thức bán theo hợp đồng và đơn hàng, thuận mua vừa bán,
bán đấu giá và xuất khẩu hàng hóa.

và định hướng thị trường trong và ngoài nước, giải quyết các vấn đề về thị
trường hàng hóa.
Thị trường hàng hóa phát triển trên cơ sở tự do lưu thông hàng hóa dịch
vụ theo quy luật kinh tế thị trường và theo pháp luật. Đây là điều kiện nhất
thiết phải có vì nếu không được tự do lưu thông hàng hóa dịch vụ thì hàng hóa
sẽ không được chuyển đến người tiêu dùng có nhu cầu, không được phân phối
theo đúng quy luật thị trường thì thị trường hàng hóa không phát triển được.
Giá cả được hình thành trên cơ sở giá trị và quy luật cung - cầu trên thị
trường. Giá cả thị trường được hình thành trên cơ sở giá trị thị trường, nó là
giá trị trung bình và là giá trị cá biệt của những hàng hóa chiếm phần lớn trên
thị trường. Mua bán theo giá cả thị trường tạo ra động lực để thúc đẩy sản xuất
19
kinh doanh phát triển, tạo cơ hội để doanh nghiệp vươn lên.
Tất cả các mối quan hệ được tiền tệ hóa, tuân theo các quy luật của lưu
thông hàng hóa của kinh tế thị trường.
2.1.2. Hệ thống các doanh nghiệp thương mại nước ta hiện nay.
2.1.2.1. Doanh nghiệp thương mại nhà nước.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước được nhà nước đầu tư hoặc cấp vốn
100% để kinh doanh, phục vụ những mục tiêu chiến lược của nhà nước. Khi
chuyển sang nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã
có sự thay đổi về số lượng và hiệu quả kinh doanh. Về số lượng các doanh
nghiệp thương mại nhà nước đã giảm đáng kể. Tính đến thời điểm 31/12/1999
nước ta có khoảng 1576 doanh nghiệp thương mại nhà nước. Các doanh
nghiệp thương mại nhà nước chưa đạt được hiệu quả cao trong kinh doanh,
còn thua lỗ. Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thương mại nhà nước còn
thấp. Tuy nhiên doanh nghiệp thương mại nhà nước có vai trò quan trọng
trong việc định hướng, điều tiết thị trường hàng hóa ở nước ta.
2.1.2.2. Doanh nghiệp thương mại tập thể.
Loại doanh nghiệp này vốn do tập thể người lao động góp, tạo nên theo
nguyên tắc tự nguyện hoặc một phần vốn tập thể, một phần vốn do Nhà nước

trách nhiệm hữu hạn sẽ ngày càng phát triển.
2.1.2.6. Hệ thống tiểu thương.
Đây là hệ thống cửa hàng, quầy hàng, điểm bán hàng của cá nhân. Lực
lượng này rất đông đảo và rất khó quản lý. Thành phần tham gia rất đa dạng:
cán bộ nhân viên Nhà nước về hưu, mất sức và các tầng lớp dân cư. Kinh
doanh hàng hóa dịch vụ rất đa dạng và nhiều người trong số họ không có đăng
ký kinh doanh.
Ưu thế của tiểu thương thể hiện trong việc đáp ứng tốt các yêu cầu nhỏ
lẻ, không thường xuyên, nhanh nhạy đáp ứng yêu cầu của thị trường. Là lực
lượng đáng kể, hệ thống tiểu thương cần mẫn đáp ứng nhu cầu của dân cư và
điều tiết hàng hóa giữa các vùng. Một số tiểu thương kinh doanh có hiệu quả, có
thể tích lũy mở rộng kinh doanh và chuyển thành các doanh nghiệp tư nhân.
2.2. Những thành tựu đạt được trong việc phát triển thị trường
hàng hóa của doanh nghiệp thương mại nước ta.
2.2.1. Thị trường trong nước phát triển mạnh.
2.2.1.1. Quy mô ngày càng tăng.
21
Trong những năm qua quy mô thị trường trong nước đã tăng liên tục,
trước hết phải kể đến sự gia tăng nhanh chóng về số lượng các đơn vị tham gia
hoạt động thị trường, bao gồm các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế
và đông đảo hộ kinh doanh cá thể. Mạng lưới chợ, các điểm bán hàng hóa và
kinh doanh dịch vụ phát triển rộng khắp trên phạm vi cả nước. Đặc biệt, các
loại hình thị trường "văn minh" như trung tâm thương mại, siêu thị và các
loại khách sạn, nhà hàng đạt tiêu chuẩn cao cũng được hình thành và phát
triển trong những năm vừa qua. Tình hình này được thể hiện qua các số liệu
dưới đây:
Về số lượng doanh nghiệp tham gia hoạt động thương mại dịch vụ: Năm
1991 có 1.774 doanh nghiệp nhà nước, năm 1995 có 10.806 doanh nghiệp và
năm 1999 có 16.226 doanh nghiệp. Trong số hơn 12.000 doanh nghiệp mới
được thành lập của năm 2.000 có tới 3.000 doanh nghiệp thương mại, dịch vụ,

Vùng
Tổng số
DNTMDV
DNNN TNHH DNTN CTCP DNTT DTNN
1. Đồng bằng sông Hồng 3075 540 1594 806 27 102 42
2. Đồng bằng Bắc Bộ 643 171 115 316 3 35 3
3. Tây Bắc Bắc Bộ 90 51 6 28 1 4
4. Bắc Trung Bộ 642 165 86 364 6 20 1
5. Duyên hải Nam Trung Bộ 1545 128 202 1178 5 29 5
6. Tây Nguyên 808 80 39 682 3 2 2
7. Đông Nam Bộ 5571 307 1688 3400 36 81 59
8. Đồng bằng Sông Cửu Long 3852 172 286 3559 4 26 5
Cả nước 16226 1576 3816 10333 85 299 117
Chú thích: + DNTMDV: Doanh nghiệp thương mại, dịch vụ
+DNNN: Doanh nghiệp nhà nước
+ TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
+ DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
+ CTCP: Công ty cổ phần
+ DNTT: Doanh nghiệp tập thể
+ DTNN: Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ tăng lên đáng kể theo
các vùng trong cả nước. Tính đến năm 1999 cả nước có 1501,6 nghìn người
tham gia thì đến năm 2000 đã tăng lên 1584,8 nghìn người tham gia, tăng 83,2
nghìn người. Đồng bằng sông Hồng có 262,1 nghìn người tham gia năm 2000
chiếm 16,54% số người tham gia hoạt động thương mại, dịch vụ trong cả
nước. Đông Nam Bộ có số người tham gia là lớn nhất với 431,7 nghìn người
23
(năm 2000) chiếm 27,24% cả nước.
Theo số liệu thống kê thì số người kinh doanh thương mại, dịch vụ phân
theo địa phương như sau:

Hộ cá thể
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và
dịch vụ tiêu dùng xã hội
Số lượng
doanh nghiệp
thương mại,
dịch vụ
Số lượng hộ
(nghìn hộ)
Tỷ trọng hồ
TMDV trong
tổng số hộ (%)
Số điểm bán
hàng và
cung cấp
dịch vụ
(Nghìn điểm)
Tổng mức
(Nghìn tỷ
đồng)
Chỉ số phát
triển so với
năm trước %
1991 1774 630 27 33 175,5
1992 1774 698 65,5 24 51 153,3
1993 5444 743 62,1 22 67 131,4
1994 8029 793 62,0 22 93 139,0
1995 10806 1160 65,1 26 121 129,6
1996 14871 840 57,7 31 196 120,4
1997 15685 949 61,0 34 162 111,0

thị trường nội địa.
2.2.1.3. Hình thành được thị trường cạnh tranh theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ngoài 3 lực lượng truyền thống là
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã mua bán và hộ tư thương đã xuất hiện
thêm nhiều thành phần kinh tế khác như doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách
nhiệm hữu hạn, Công ty cổ phần và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Số lượng các loại hình doanh nghiệp ngày càng tăng, trong đó tăng nhanh nhất
là doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn. Năm 1993, hai loại
hình này mới có 3415 doanh nghiệp, đến năm 1999 đã có 14.149 doanh
nghiệp. Số lượng doanh nghiệp nhà nước tuy có giảm từ 1799 doanh nghiệp
năm 1993 xuống còn 1576 doanh nghiệp năm 1999 nhưng doanh nghiệp nhà
nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, trước hết là định hướng phát triển.
Khái niệm "cạnh tranh" cũng chỉ mới được sử dụng dè dặt trong những
năm đầu của thập kỷ 90, nhưng đến nay đã trở thành phổ biến và được chấp
nhận như một tất yếu. Có thể nói thị trường cạnh tranh đã được tạo dựng trong
giai đoạn này, nhờ đó đã tạo ra được luồng sinh khí mới, động lực mới cho
thương mại Việt Nam. Đây là một thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng
trong những năm qua đối với nền kinh tế nói chung và đối với thương mại Việt

Trích đoạn Nâng cao năng lực sản xuất hàng hóa ở các doanh nghiệp sản Hạn chế nguy cơ rủi ro, tổn thất trong kinh doanh thương mạ Xác định loại hình kinh doanh quyết định chiến lược thị trường Phát triển các trung tâm thương mại ở Việt Nam
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status