TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO, NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO - Pdf 24

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
PHÒNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
***
TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Đề tài 01:
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ, HẠN CHẾ
CỦA TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
Người thực hiện: NGÔ THỊ VÂN ANH
STT: 06
Nhóm: 01
Lớp, khóa: CHKT - K21 - Đêm 5
GVHD: TS. BÙI VĂN MƯA
TP. Hồ Chí Minh, 2012
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
Chương 1: Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo 2
1.1. Về thế giới quan: 2
1.1.1. Vô ngã, vô thường 2
1.1.2. Duyên khởi 3
1.1.3. Duy thức 4
1.1.4. Trung đạo - Bình đẳng quan 4
1.2. Về nhân sinh quan: 5
1.2.1. Tứ diệu đế 5
1.2.2. Nhân quả 5
1.2.3. Nghiệp báo và luân hồi 6
1.2.4. Giải thoát và phương pháp để giải thoát 6
1.2.5. Từ bi 7
Chương 2: Những giá trị và hạn chế của Phật giáo 8
2.1. Những giá trị của Phật giáo: 8
2.1.1. Giá trị về giáo dục 8
2.1.2. Giá trị thiết thực nhân bản 8

lý của Phật giáo nhằm xây dựng một thế hệ trẻ Việt Nam phát triển cả về thể chất và
tinh thần, góp phần xây dựng một xã hội văn minh và phát triển.
Khi nghiên cứu những tư tưởng triết học của Phật giáo, bài tiểu luận sử dụng hai
tài liệu chính là: Triết học - Phần I: Đại cương về lịch sử triết học (Tiểu ban Triết
học, Khoa Lý luận chính trị , Trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh) và
Lịch sử triết học (Hà Thiên Sơn)
4
CHƯƠNG 1
NHỮNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO
Theo truyền thuyết, người sáng lập ra Phật giáo là Xítđácta Gôtama, hiệu là
Thích Ca Mâuni. Người rời bỏ hoàng cung và cuộc sống phú quý, xuất gia đi tu để
tìm kiếm con đường cứu vớt những nỗi khổ của nhân loại. Trải qua nhiều lần tu tập,
Người giác ngộ được con đường giải thoát trong lúc ngồi suy tư dưới gốc cây bồ đề.
Từ đó, Người đi khắp nơi truyền bá đạo của mình. Những lời giảng giải, bàn luận
của Người đều được ghi lại và sau này phát triển thành một hệ thống tư tưởng triết
học - tôn giáo lớn của Ấn Độ và lan truyền sang những nước khác. Kinh điển Phật
giáo hiện nay rất đồ sộ chia thành Tam tạng, gồm Kinh, Luật và Luận, chứa đựng
những tư tưởng triết học nhân sinh quan và thế giới quan sâu sắc.
1.1. Về thế giới quan:
1.1.1. Vô ngã, vô thường:
Vô ngã là không tồn tại đại ngã Brátman và tiểu ngã Átman, được thể hiện trong
câu nói của Phật Thích Ca với các đệ tử trong Trung Bộ Kinh: “Hỡi các Tỳ Kheo,
khi mà Ngã hay bất cứ cái gì thuộc về Ngã không có, thì quan điểm tư duy này: Vũ
trụ là linh hồn, ta sẽ là linh hồn sau khi chết, sẽ trường cửu, tồn tại, vĩnh viễn bất
biến, và ta sẽ hiện hữu như thế cho đến vô tận thời gian - quan điểm ấy có phải là
hoàn toàn điên rồ chăng?" [7]. Vạn vật kể cả con người được tạo thành từ sắc, tức
vật chất như đất, nước, lửa, gió và danh, và tinh thần như thụ, tưởng, hành, thức.
Danh và sắc được chia làm năm yếu tố, còn gọi là ngũ uẩn: sắc (vật chất), thụ (cảm
giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Danh và sắc chỉ hội tụ với
nhau trong thời gian ngắn rồi lại chuyển sang trạng thái khác.

xích liên kết nhân quả nhằm cắt nghĩa nguyên nhân sinh tử luân hồi. Mười hai nhân
duyên này là: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh,
lão tử. Đây được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, giải thích
nguyên nhân của nỗi khổ là do con người mù lòa đối với hiện thực, thiếu sự hiểu
6
biết cơ bản nên bị ảnh hưởng bởi những ảo giác. Vì vậy, trong mười hai nhân duyên
này, khởi đầu “vô minh” là nguồn gốc của đau khổ, của sinh lão tử, là nguyên nhân
thâu tóm tất cả, diệt trừ vô minh là diệt trừ tận gốc sự đau khổ nhân sinh.
1.1.3. Duy thức:
Duy thức hay duy tâm nghĩa là "chỉ có thức", các pháp đều từ “thức” mà sinh ra,
không có gì nằm ngoài “thức”. Giáo lí này chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do
tâm, và vì vậy, không một hiện tượng nào tồn tại ngoài tâm. Duy thức là một tư
tưởng chủ đạo của Duy thức tông. Các học giả Duy thức giải thích quy luật và sự
liên kết của các giác quan nhờ vào thức ẩn tàng A-lại-da và từ tập hợp của năm giác
quan trước (tiền ngũ thức). Chúng hoạt động, tạo nên chủng tử tương ưng với chúng,
theo quy luật thông thường như hạt giống phát triển thành cây. Mỗi chúng sinh đều
có chỗ chứa những cảm nhận và những chúng sinh giống nhau sẽ tạo ra những
nghiệp thức giống nhau phát xuất từ tàng thức vào cùng một thời gian như nhau.
1.1.4. Trung đạo - Bình đẳng quan:
Trung đạo theo nghĩa đen là con đường chính giữa không lệch về bên nào. Phật
giáo cho rằng Hữu và Không chẳng khác nhau: sự vật vừa không được xem là thực
sự tồn tại, vừa không được cho rằng sự vật không hề có vì sự vật tồn tại trong ảo
giác tâm lý. Qua đó, Phật giáo lập phép Tam quán để xem xét mọi sự vật một cách
viên mãn, thể hiện điển hình qua câu nói trong Kinh Kim Cang: “Cái gọi là Phật
pháp, tức chẳng phải là Phật pháp, nên gọi là Phật pháp” [1,179]. Tam quán bao gồm
Không, Giả và Trung. Trong cái Không có cả cái Giả và cái Trung, nghĩa là không
phải chỉ có cái Không tuyệt đối. Trong cái Giả cũng gồm cả cái Không và cái Trung
và Trung là chỗ dung hòa giữa cái Không và cái Giả tức giả hữu.
Thuyết Trung đạo là một phương pháp giảng dạy của Phật giáo, trong nhận thức
không thể chỉ dùng cái “tâm sai biệt” tức lý trí mà còn phải dùng đến cái “tâm bình

nguyên nhân tự thân. Kinh Phật viết “Phật xuất hiện trên thế gian vì một nhân duyên
8
lớn”, nhân duyên lớn đó là để chuyển mê thành ngộ, giải thoát mọi đau khổ để con
người thoát khỏi kiếp luân hồi, nghiệp báo.
Nhân quả thể hiện qua ba phạm trù thời gian là hiện báo, sanh báo và hậu báo.
Hiện báo là kết quả thể hiện ngay trong kiếp này. Sanh báo là quả trổ ở kiếp sau.
Hậu báo là khi con người tạo việc lành hay dữ ở kiếp này, quả không trổ ở kiếp sau
mà nhiều kiếp về sau mới trổ do duyên chưa đủ. Do vậy, Phật giáo có dạy “Phàm
làm việc gì thì phải nghĩ đến kết quả của nó”.
1.2.3. Nghiệp báo và luân hồi:
Luân hồi, theo tiếng Sanskrit là Samsara hay bánh xe quay tròn. Khi một sinh
vật chết đi thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác, đầu thai và nhập vào một thể xác
khác. Chúng sinh nào chưa được giác ngộ, đều phải luân hồi mãi mãi trong bể khổ,
chỉ những người tu hành đắc đạo, được vào cõi Phật mới thoát khỏi luân hồi.
Nghiệp theo tiếng Sanskrit là Karman, tiếng Pāli là Kamma, là cái do hành động
của ta gây ra. Nghiệp báo là sự gánh chịu hậu quả trong kiếp sống hiện tại của con
người do sức mạnh của nghiệp mà con người đã tạo ra trong kiếp trước tốt hay xấu.
Qua đó, Phật giáo lý giải nguyên nhân bất bình đẳng của con người trong xã hội.
Nghiệp được phân loại thành thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp, trong đó
Phật giáo dạy: “Trong ba nghiệp thân, khẩu và ý thì ý nghiệp là tối quan trọng”.
Nghiệp trong Phật giáo hàm chứa tinh thần trách nhiệm của cá nhân trong lộ trình đi
đến bến bờ giác ngộ, dạy cho con người tự mình xây dựng kiếp mai sau chứ không
trông chờ ở Ðấng sáng tạo Brahman ban phát cho một ân huệ siêu hình [11].
Nghiệp báo và Luân hồi là định luật mang tính nhân quả. Theo Phật giáo, sau
khi chết hoặc trước khi sinh ra không có đời sống nào nơi con người là không tuỳ
thuộc vào Nghiệp. Nghiệp báo là hệ luận của Luân hồi, và ngược lại Luân hồi là hệ
luận của Nghiệp báo. Hai lý luận này bổ sung và gắn bó với nhau rất mật thiết.
1.2.4. Giải thoát và phương pháp để giải thoát:
Giải thoát là chấm dứt hoàn toàn các nguyên nhân dẫn đến sinh tử, thoát ra khỏi
luân hồi và đạt niết bàn. Trong Kinh Vinaga, Phật Thích Ca nói: “Nếu nước biển có

NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA PHẬT GIÁO
2.1. Những giá trị của Phật giáo:
2.1.1. Giá trị về giáo dục:
Phật giáo giáo dục con người sống khoan dung và vị tha, hoàn thiện cả tài lẫn
đức, tạo nên một nền đạo đức xã hội tốt đẹp. Đức Phật đã dạy: “Một hạnh phúc vĩnh
cửu chỉ sống mạnh trong một tâm hồn giải thoát và tâm hồn giải thoát chỉ có thể
thực hiện một khi cá nhân chịu nhường bước. Một bản ngã đứng tách riêng ra ngoài
là không thể tồn tại khỏe mạnh được” [15].
Phật giáo khuyên con người phải tiết chế dục vọng, không nên chạy theo danh
lợi, phải biết sống vì người khác. Nhiều của cải không thể tiêu biểu cho sự tốt đẹp về
tinh thần của một cá nhân, công danh lợi lộc chỉ là mây khói thoáng qua, chỉ có tu
dưỡng phẩm chất đạo đức mới có thể giúp con người có cuộc sống hạnh phúc.
Phật giáo khuyên con người phải từ bi hỷ xả, trở thành một trong những nguồn
gốc của lòng thương người, của chủ nghĩa nhân đạo. Xã hội loài người thực hiện
được bốn chữ từ, bi, hỷ, xả trong cuộc sống hàng ngày là một xã hội an lạc, hạnh
phúc. Phật giáo cho rằng “Mình muốn an lạc thì nhất định không thể thiết lập sự an
lạc đó trên đau khổ của kẻ khác”, chỉ khi toàn thể chúng sinh đều được an lạc, cá
nhân con người mới có được sự an lạc chân chính.
Trong Phật giáo, có năm điều giới luật cơ bản (ngũ giới) mà các tín đồ Phật giáo
phải nghiêm túc giữ gìn: không sát sinh, không trôm cắp, không tà dâm, không vọng
ngữ, không uống rượu.
2.1.2. Giá trị thiết thực nhân bản:
Kinh điển của Phật giáo không phải thể hiện quyền uy hay sự tài giỏi của đức
Phật mà tập trung giải thích những vấn đề thế giới quan và nhân sinh quan cơ bản,
dễ đi vào lòng người. Những tư tưởng này mang đậm giá trị nhân bản: “Khi sự trung
thực hướng về con người mô tả phát hiện, soi sáng bao tình cảm khát vọng chính
đáng của con người, giúp con người hiểu thêm về con người, về cuộc sống để mà
mến yêu, trân trọng thì chính đó là nhân bản” [4,41].
11
Phật giáo giáo dục con người sống có đạo đức qua các giáo lý có kết cấu chặt

Phật giáo du nhập vào Việt Nam khoảng thế kỷ thứ II sau Công nguyên. Trong
quá trình tồn tại và phát triển, Phật giáo đã có những đóng góp sâu sắc cho nền văn
hóa Việt Nam.
Phật giáo đã đưa vào những truyện kể dân gian, những câu ca dao tục ngữ và cả
nền văn học Việt Nam một làn gió từ bi. Những tư tưởng từ bi bác ái của Phật giáo
còn được thể hiện qua các loại hình nghệ thuật sân khấu như hát bội, hát chèo, cải
lương và kịch nói. Chất từ bi không những thấm sâu trong những nghệ sĩ dân gian
vô danh mà còn đi sâu vào lòng những người dân bình dị.
Sự ảnh hưởng của Phật giáo thể hiện qua các phong tục, tập quán của người dân
Việt Nam từ xưa đến nay như: tập tục ăn chay thờ Phật, phóng sanh và bố thí, tập
tục cúng rằm, mồng một, lễ chùa, tập tục đốt vàng mã… Phật giáo còn ảnh hưởng
đến nhiều công trình kiến trúc, điêu khắc Việt Nam, hình thành nên một nền kiến
trúc độc đáo, đậm đà bản sắc dân tộc và phật giáo có tầm cỡ quốc tế.
Tư tưởng giáo lý của Phật giáo đã hòa tan với giá trị truyền thống của con người
Việt Nam. Những tư tưởng nhân đạo, bác ái đã từ lâu được đưa vào giáo dục trong
các nhà trường.
2.1.4. Khác:
Phật giáo xuất hiện và thâm nhập vào các dân tộc như một sứ giả của hòa bình.
Đức Phật đã dạy: “Có một con đường đưa đến hòa bình, hận thù không thể diệt hận
thù, chỉ có tình thương, lòng từ bi mới nhiếp phục được hận thù. Đây là quan điểm
về nền hòa bình trên vũ trụ của Như Lai. Những ai thương tưởng đến Như Lai thì
hãy thể hiện tình thương đó bằng cách thương yêu tất cả chúng sinh. Người nào
chinh phục được lòng tham là người đó trở thành người chiến thắng toàn mãn. Mọi
người đều yêu chuộng tự do và công lý, đừng nên xâm phạm đến quyền tự do của
người khác” [13]. Phật giáo giáo dục con người phải biết coi trọng quyền lợi của
13
mọi người, để hết chiến tranh, xây dựng một xã hội văn minh, con người phải hết
tham lam, thù hận cố chấp.
Về lĩnh vực chính trị, nhiều nhà sư tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị
và giữ những cương vị quan trọng trong triều đình xưa. Ngày nay, các nhà sư giữ

Phật giáo chỉ nhận thức được cái biến đổi mà không thấy được cái ổn định tương
đối, chỉ thấy được cái vận động mà không thấy được hình thức của vận động, dễ đi
đến chiều hướng bi quan. Do tuyệt đối hóa quan niệm về “vô thường” nên Phật giáo
đã rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan khi cho rằng vạn vật trên thế giới đều chỉ là
ảo ảnh kể cả con người “vô ngã”.
Hạn chế lớn nhất của Phật giáo đó là “Phật tin kiếp luân hồi cứ vậy mãi, không
bao giờ có tiến hóa gì cả, có cải biến chăng nữa chỉ về hình thức mà thôi” [3,27].
Nhưng xã hội ngày nay không ngừng vận động và biến đổi, cả về hình thức, nội
dung và bản chất của nó.
2.2.2. Phật giáo mang tính duy tâm chủ quan, thần bí:
Thế giới quan Phật giáo nguyên thủy có tính nhị nguyên luận ngả về phía duy
tâm chủ quan. Tính duy vật trong triết học Phật giáo thể hiện rõ trong quan niệm về
tính tự thân sinh thành, biến đổi của vạn vật, không chịu sự chi phối quyết định của
một lực lượng thần linh hay thượng đế tối cao nào. Tuy nhiên, trong lý luận về duy
thức, Phật giáo lại chủ trương tất cả mọi sự hiện hữu đều do tâm, không một hiện
tượng nào tồn tại ngoài tâm. Phật giáo nhằm cứu khổ con người bằng biện pháp diệt
trừ triệt để nguyên nhân của khổ, nhưng diệt trừ bằng một sức tưởng tượng mãnh
liệt chứ không phải bằng hành động thiết thực. Nguyễn An Ninh đã đánh giá về Phật
giáo như sau: “Vì đứng về chủ quan cho nên Phật sợ mâu thuẫn mà không thấy nó là
điều kiện cần thiết cho sinh tồn, tiến triển của vũ trụ và xã hội loài người” [3,28].
Nếu theo quan điểm duy vật biện chứng, mâu thuẫn hay mâu thuẫn biện chứng là
nguồn gốc và động lực của mọi sự vận động, phát triển, ta càng thấy rõ tính duy tâm
trong Phật giáo.
15
Nếu nhìn nhận một cách khách quan, do Phật giáo ra đời trong điều kiện lịch sử
khi mà xã hội còn thấp kém, giai đoạn mà các tôn giáo của Ấn Độ mang nặng tính
chất duy tâm chủ quan thần bí, có xu hướng “hướng nội” đi sâu tìm hiểu đời sống
tâm linh, tinh thần để phát hiện ra sức mạnh của linh hồn con người [6,29], thì Phật
giáo mang tính duy tâm là điều không thể tránh khỏi.
2.2.3. Phật giáo chú trọng phát triển tinh thần mà không chú trọng phát triển vật chất:

tưởng nhân sinh quan Phật giáo đã có những tác động nhất định, cả tích cực và tiêu
cực, trong việc điều chỉnh suy nghĩ và hành vi con người. Một bộ phận dân cư tìm
đến với Phật giáo nhằm tìm kiếm một nơi gửi gắm niềm tin, một nơi an ủi tinh thần,
che chở cho họ trước những khó khăn trong cuộc sống. Họ tìm đến nhà chùa nhằm
cầu mong những ham muốn tầm thường, tự tư tự lợi mà quên đi việc tu dưỡng
nghiền ngẫm những tư tưởng triết học giá trị của Phật giáo.
Mặt khác, do mang tính nhị nguyên luận thiên về phía duy tâm chủ quan, thần bí
và chứa đựng nhiều tư tưởng biện chứng chất phác đồng thời cũng chịu những ảnh
hưởng của điều kiện kinh tế - xã hội thời đại, Phật giáo ngày càng xa rời thế hệ trẻ
và ngày càng mai một nhiều không còn phát huy vai trò hướng đạo.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận hoàn toàn những ưu điểm mang tính nhân sinh
trong triết học Phật giáo, vì vậy cần vận dụng một cách hợp lý, tìm ra một phương
thức để hướng đạo cho người dân một cách đúng đắn: tín ngưỡng Phật giáo thì cần
làm điều thiện, tránh cái ác, từ bi hỉ xả, xây dựng nhân cách con người tốt hơn,
không nên mê tín, dị đoan, cúng bái, lên đồng, …
Trong tương lai, cùng với sự phát triển không ngừng của thế giới và con người,
Phật giáo có thể sẽ biến mất nhưng tinh thần nhân đạo, cao đẹp của Phật giáo sẽ còn
trường tồn theo thời gian.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Nguyễn Duy Cần, Phật học tinh hoa, Nhà xuất bản TP.Hồ Chí Minh, 1997
(2) Giáo hội Phật giáo Việt Nam, Đức Phật và Phật pháp, Nhà xuất bản trẻ, 2005
(3) Đỗ Thị Hòa Hới, Tìm hiểu sự tiếp nhận sáng tạo tư tưởng của Các Mác về tôn giáo ở
Nguyễn An Ninh qua tác phẩm “Phê bình Phật giáo” và ý nghĩa của nó, Tạp chí
Nghiên cứu Tôn giáo - Số 1, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2004, trang 27-28
(4) Đào Nguyên, Kinh Phương Quảng Đại Trang Nghiêm, Tập văn Phật đản, PL 2544
(5) Hà Thiên Sơn, Lịch sử Triết học, Nhà xuất bản trẻ, 1998
(6) Tiểu ban Triết học, Triết học Phần I: Đại cương về lịch sử triết học, Khoa Lý luận
chính trị, Trường Đại học Kinh tế TP.Hồ Chí Minh, 2011
(7) http://vi.wikipedia.org/wiki/Th%E1%BA%A3o_lu%E1%BA%ADn:V%C3%B4_ng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status