Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam - Pdf 23

LỜI MỞ ĐẦU
Đặc trưng quan trọng của tình hình thế giới ngày nay là xu hướng quốc tế
hoá. Nền kinh tế thế giới ngày càng phát triển, mỗi nước dù lớn hay nhỏ đều
phải tham gia vào sự phân công lao động khu vực và quốc tế. Ngày nay không
một dân tộc nào có thể phát triển đất nước mình mà chỉ bằng tự lực cánh sinh.
Đặc biệt đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì việc nhận thức đầy
đủ những đặc trưng quan trọng này và ứng dụng vào tình hình thực tế đất nước
có tầm quan trọng hơn bao giờ hết ở nước ta, khi xác định những quan điểm lớn
về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII của Đảng đã khẳng định “kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu
đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả,
phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng vùng, từng ngành, từng
lĩnh vực trong từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức mạnh cạnh tranh trên thị
trường trong nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới” .
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, trong
những năm qua thương mại Việt Nam đã đạt được những thành tựu bước đầu
quan trọng, góp phần tạo nên những biến đổi sâu sắc nền kinh tế - xã hội nước ta
và vị thế mới trên thị trường quốc tế. Việt Nam đã thiết lập được nhiều mối quan
hệ ngoại giao với nhiều nước, tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo
hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào nền kinh tế thế giới,
tham gia các tổ chức thương mại quốc tế như ASEAN, AFTA, APEC ... Điều
này đã đặc biệt làm cho lĩnh vực xuất nhập khẩu ngày càng trở nên sôi động.
Trong số 10 mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt
Nam, phải kể đến hàng dệt may. Tuy đứng ở vị trí thứ hai, nhưng đây là mặt
hàng có nhiều lợi thế so sánh và có khả năng phát triển cao. Hơn nữa, với điều
kiện tình hình nước ta hiện nay, tập trung phát triển hàng dệt may là hoàn toàn
phù hợp.
Như vậy, cả về mặt lý luận và thực tiễn, đề tài “Một số biện pháp đẩy
mạnh xuất khẩu hàng may mặc ở Tổng Công ty Dệt May Việt Nam” góp phần
giải quyết những vấn đề đặt ra quan trọng và cần thiết. Trong đề tài này, tôi chỉ
tập trung phân tích tình hình thực tế hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng may

nghiệp đã đa dạng hoá hoạt động kinh doanh của mình.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá
của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với
tiêu dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế
nào phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
2. Các hình thức xuất khẩu thông dụng ở Việt Nam
2.1. Xuất khẩu uỷ thác
Trong phương thức này, đơn vị có hàng xuất khẩu là bên uỷ thác giao cho
đơn vị xuất khẩu gọi là bên nhận uỷ thác tiến hành xuất khẩu một hoặc một số lô
hàng nhất định với danh nghĩa của mình (bên nhận uỷ thác) nhưng với chi phí
của bên uỷ thác. Về bản chất, chi phí trả cho bên nhận uỷ thác chính là tiền thu
lao trả cho đại lý. Theo nghị định 64-HĐBT, chi phí uỷ thác xuất khẩu không
cao hơn 1% của tổng số doanh thu ngoại tệ về xuất khẩu theo điều kiện FOB tại
Việt Nam.
* Ưu nhược điểm của xuất khẩu uỷ thác
3
-Ưu điểm: Công ty uỷ thác xuất khẩu không phải bỏ vốn vào kinh doanh,
tránh được rủi ro trong kinh doanh mà vẫn thu được một khoản lợi nhuận là hoa
hồng cho xuất khẩu. Do chỉ thực hiện hợp đồng uỷ thác xuất khẩu nên tất cả các
chi phí từ nghiên cứu thị trường, giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng và thực
hiện hợp đồng không phải chi, dẫn tới giảm chi phí trong hoạt động kinh doanh
của Công ty.
-Nhược điểm: do không phải bỏ vốn vào kinh doanh nên hiệu quả kinh
doanh thấp không bảo đảm tính chủ động trong kinh doanh. Thị trường và khách
hàng bị thu hẹp vì Công ty không có liên quan tới việc nghiên cứu thị trường và
tìm khách hàng.
2.2. Xuất khẩu trực tiếp
Trong phương thức này, đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp ký
kết hợp đồng ngoại thương, với tư cách là một bên phải tổ chức thực hiện hợp
đồng đó. Hợp đồng ký kết giữa hai bên phải phù hợp với luật lệ quốc gia và

tế. Hoạt động này phát triển sẽ khai thác được nhiều lợi thế của hai bên: bên đặt
gia công và bên nhận gia công.
3. Vị trí, vai trò của hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động kinh doanh buôn bán ở phạm vi quốc tế.
Nó không phải là hành vi mua bán riêng lẻ mà là cả một hệ thống các quan hệ
mua bán trong một nền thương mại có tổ chức cả bên trong và bên ngoài nhằm
bán sản phẩm, hàng hoá sản xuất trong nước ra nước ngoài thu ngoại tệ, qua đó
có thể đẩy mạnh sản xuất hàng hoá phát triển, chuyển đổi cơ cấu kinh tế ổn định
từng bước nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy, xuất khẩu là hoạt động kinh tế
đối ngoại để đem lại những hiệu quả đột biến cao hoặc có thể gây thiệt hại vì nó
phải đối đầu với một hệ thống kinh tế khác từ bên ngoài mà chủ thể trong nước
tham gia xuất khẩu không dễ dàng khống chế được.
Xuất khẩu hàng hoá nằm trong lĩnh vực phân phối và lưu thông hàng hoá
của một quá trình tái sản xuất mở rộng, nhằm mục đích liên kết sản xuất với tiêu
dùng của nước này với nước khác. Nền sản xuất xã hội phát triển như thế nào
phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động kinh doanh này.
Đối với nước ta, nền kinh tế đang bước đầu phát triển, cơ sở vật chất kỹ
5
thuật còn thấp kém, không đồng bộ, dân số phát triển nhanh nên việc đẩy mạnh
xuất khẩu thu ngoại tệ cải thiện đời sống và phát triển kinh tế là cực kỳ quan
trọng. Đảng và Nhà nước ta chủ trương phát triển quan hệ đối ngoại và kinh tế
đối ngoại đặc biệt hướng mạnh vào xuất khẩu hàng hoá là một chủ chương đúng
đắn phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Hơn bao giờ hết, xuất khẩu hàng
hoá thực sự có vai trò quan trọng, cụ thể là:
Thứ nhất: Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn vốn ngoại tệ quan trọng để đảm
bảo nhu cầu nhập khẩu.
Trong kinh doanh quốc tế, xuất khẩu không phải là chỉ để thu ngoại tệ về,
mà là với mục đích đảm bảo cho nhu cầu nhập khẩu hàng hoá dịch vụ khác
nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng, tăng trưởng nền kinh tế và tiến tới xuất siêu
(xuất khẩu > nhập khẩu), tích luỹ ngoại tệ (thực chất là đảm bảo chắc chắn hơn

xuất nhập khẩu có ngoại tệ để nhập máy móc, thiết bị tiên tiến đưa năng suất lao
động lên cao. Các lợi thế cần khai thác ở nước ta là nguồn lao động dồi dào, cần
cù, giá thuê rẻ, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú và địa thế địa lý đẹp.
Thứ ba: Hoạt động xuất khẩu góp phần làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất,
định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Chúng ta biết rằng có hai xu hướng xuất khẩu: xuất khẩu đa dạng và xuất
khẩu mũi nhọn.
Xuất khẩu đa dạng là có mặt hàng nào xuất khẩu được thì xuất khẩu nhằm
thu được nhiều ngoại tệ nhất, nhưng với mỗi mặt hàng thì lại nhỏ bé về quy mô,
chất lượng thấp (vì không được tập trung đầu tư) nên không hiệu quả.
Xuất khẩu hàng mũi nhọn: Tuân theo quy luật lợi thế so sánh của David
Ricardo tức là tập trung vào sản xuất và xuất khẩu những mặt hàng mà mình có
điều kiện nhất, có lợi thế so sánh hay chính là việc thực hiện chuyên môn hoá và
phân công lao động quốc tế. Khi đó, nước ta có khả năng chiếm lĩnh thị trường,
trở thành "độc quyền" mặt hàng đó và thu lợi nhuận siêu ngạch. Xuất khẩu mũi
nhọn có tác dụng như đầu của một con tàu, tuy nhỏ bé nhưng nó có động cơ, do
đó nó có thể kéo cả đoàn tàu tiến lên. Hiện nay, đây là hướng xuất khẩu chủ yếu
của nước ta, có kết hợp với xuất khẩu đa dạng để tăng thu ngoại tệ.
Và khi mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn đem lại hiệu quả cao thì các doanh
7
nghiệp sẽ tập trung đầu tư để phát triển ngành hàng đó, dẫn đến phát triển các
ngành hàng có liên quan. Ví dụ: Khi ngành may xuất khẩu phát triển làm cho
ngành dệt cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành may dẫn đến
ngành trồng bông, đay cũng phát triển để cung cấp nguyên vật liệu cho ngành
dệt.
Hơn nữa, xu hướng xuất khẩu là mũi nhọn làm thay đổi cơ cấu các ngành
sản xuất trong nền kinh tế vì cơ cấu một nền kinh tế chính là số lượng các ngành
sản xuất và tỷ trọng của chúng so với tổng thể.
Rõ ràng, tỷ trọng ngành hàng mũi nhọn là tăng lên và tăng mạnh còn
trong nội bộ ngành đó thì những khâu, những loại sản phẩm ưa chuộng trên thị

nền kinh tế nước ta.
II. VAI TRÒ CỦA XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC ĐỐI VỚI VIỆT
NAM
Trước khi tìm hiểu vai trò của xuất khẩu chúng ta phải xác định được
nhiệm vụ của chúng đó là:
- Phải biết khai thác có hiệu quả lợi thế của đất nước, kích thích các ngành
kinh tế phát triển.
- Phải góp phần tăng tích luỹ, mở rộng sản xuất tăng thu nhập cho nền
kinh tế quốc dân.
- Xuất khẩu là cải thiện đời sống nhân dân thông qua việc tạo công ăn
việc làm, tạo nguồn thu nhập.
- Phải biết khai thác những thị trường hiện có và quan tâm tới thị trường
chưa được khai thác.
- Lợi dụng khối lượng mua hàng lớn lao của nước ngoài.
- Tìm thị trường cho sản phẩm khi lượng bán giảm sút.
- Mở rộng nền tảng bán hàng để trải rộng chi phí bán hàng.
- Sử dụng năng lực sản xuất thừa.
- Biết được những phương pháp kỹ thuật tiên tiến được sử dụng ở nước
ngoài.
- Theo dõi sự cạnh tranh của các đối thủ có sản phẩm cùng loại trên thị
trường.
9
Ngoài ra hoạt động kinh doanh xuất khẩu còn phải có nhiệm vụ góp phần
thực hiện tốt chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước: “Đa dạng hoá và đa
phương hoá quan hệ quốc tế, tăng cường hợp tác khu vực “.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kể trên thì công tác xuất khẩu phải nhận rõ các
vai trò quan trọng sau:
- Thu ngoại tệ về cho đất nước, đây là nguồn vốn quan trọng để thoả mãn
nhu cầu nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất. Thật vậy, nhập khẩu cũng như
vốn đầu tư của một nước thường dựa vào ba nguồn chủ yếu là viện trợ, đi vay,

III. THỊ TRƯỜNG CHO HÀNG MAY MẶC VÀ XU HƯỚNG
NHẬP KHẨU HÀNG MAY MẶC TRÊN THẾ GIỚI
1. Về thị trường may mặc Việt Nam
1.1. Thị trường EU
Thị trường EU với dân số 340 triệu là nơi tiêu thụ lớn và đa dạng các loại
quần áo. Mức tiêu thụ thị trường này là khá cao: 17 kg / người / năm. Ở đây,
người ta có thấy đủ loại hàng hoá từ các nước như Mỹ, Trung Quốc, Nhật, Hồng
Kông, Đài Loan. Hàng năm EU nhập khoảng 63 tỷ USD quần áo vừa qua hạn
ngạch mà EU dành cho công nghệ là 22 nghìn tấn hàng dệt may giá trị khoảng
450 triệu USD và hiệp định ký cho giai đoạn tới 2001-200 giá trị sẽ tăng 40% và
so với giá trị hiệp định cũ (chi giai đoạn 1996-2000). Đây là thị trường xuất
khẩu chủ yếu của Việt Nam và EU ký hiệp định buôn bán dệt may từ năm 1995
trong đó có hạn ngạch gia công thuần tuý (TPP). Có nghĩa là khách hàng gửi
nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba thuê gia công tại Việt Nam, sau đó xuất
sang EU. Còn nếu khách hàng EU gửi nguyên phụ liệu từ EU sang gia công tại
Việt Nam, sau đó xuất ngược lại sang EU thì không tính vào hạn ngạch. Qua 5
năm thực hiện hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU sản xuất hàng may mặc
của Việt Nam sang thị trường này đã có bước tiến vững chắc. Năm 1996 tổng
kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam vào EU đạt được khoảng 250
triệu USD, năm 1999 đạt 400 triệu USD và dự kiến năm 2001 sẽ đạt 650 triệu
USD.
11
Bảng 1: Một số chủng loại hàng đạt mức xuất khẩu cao của Việt Nam
vào EU qua các năm
(Đơn vị: Triệu chiếc)
Tên hàng Chủng loại 1998 1999 2000
Jacket Cat 21 8,9 9,4 11,7
T- Shirt Cat 4 2,9 3,71
áo len Cat 5 1,65 1,81
Quần Cat 6 1,65 2,4

ngạch và 43 nhóm tự do). Hạn ngạch năm trước không dùng hết có thể chuyển
sang năm sau. Đặc biệt trong hiệp định này còn quy định hàng năm Việt Nam và
EU sẽ xem xét khả năng xuất khẩu của Việt Nam để nới lỏng hạn ngạch cấp cho
Việt Nam. Bởi vậy, đây là thị trường tiềm năng lớn, các doanh nghiệp của ta cần
tuân thủ tốt các quy định này, tránh làm tổn hại đến quan hệ buôn bán giữa nước
ta và cộng đồng kinh tế Châu Âu.
1.2. Thị trường Nhật Bản
Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu may mặc lớn thứ ba thế giới và đây
là thị trường phi hạn ngạch. Nhưng đây cũng là một thị trường khó tính với
những đòi hỏi khắt khe cả về chất lượng và giá cả, họ thường yêu cầu kiểm tra
chất lượng chi tiết và quan tâm nhiều tới mẫu mốt. Ví dụ như:
- Đồ lót, tất: mốt chiếm 70,5%
- Quần áo nữ: 56,4%là mốt; 37,5% là giá và còn lại là phẩm chất.
- Comple nam: 50% là phẩm chất; 43,7% là mốt và còn lại là giá cả.
Với dân số khoảng 120 triệu người và mức thu nhập bình quân đầu người
26 nghìn USD/năm thì nhu cầu về may mặc là không nhỏ, hàng năm Nhật Bản
nhập khẩu khoảng 7-8 tỷ USD hàng may mặc. Năm 1997 hàng may Việt Nam
xuất sang Nhật xấp xỉ 130 triệu USD, năm 1999 xuất sang Nhật chiếm 90% kim
ngạch của mảng thị trường không hạn ngạch và đạt 500 triệu USD. Mặt khác,
xuất sang Nhật thường là áo Jacket, quần áo sơ mi do các đơn vị phía Bắc gia
công, áo Kimono do các đơn vị phía Nam thực hiện.
Đây tuy là thị trường đòi hỏi cao song cũng đầy hứa hẹn, neus như đầu tư
tốt, nâng cao được chất lượng, mẫu mã phong phú, màu sắc đa dạng, nắm vững
thị hiếu thì có khả năng hàng may mặc của ta sé phát triển mạnh ở thị trường
này.
1.3. Thị trường Hoa Kỳ và Bắc Mỹ
13
Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt-may vì dân số Mỹ
khá đông, hiện có 253 triệu người, đa số sống ở thành thị có mức thu nhập quốc
dân cao. Do đó người Mỹ có sức mua lớn và nhu cầu đa dạng. Riêng hàng dệt

Do những hạn chế nêu trên, kim ngạch hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu
sang Mỹ mới chỉ là mức tương đối. Năm 1997 đạt 2 triệu USD, năm 1998 đạt 5
triệu, năm 1999 đạt 25 triệu và năm 2000 đạt trên 30 triệu USD. Đây mới chỉ là
những con số rất nhỏ bé so với nhu cầu của thị trường Mỹ và khả năng xuất
khẩu của ta. Vậy chúng ta phải làm gì để tích cực xâm nhập được vào thị trường
đầy triển vọng này đang là câu hỏi đặt ra là hết sức cấp bách cho nhiều nhà quản
lý và cả phía doanh nghiệp.
1.4. Thị trường SNG và một số nước Đông Âu
Trong những năm trước khi các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan vỡ
thì tỷ trọng kim ngạch của ta vào thị trường này chiếm vị trí khá lớn và đóng vai
trò quan trọng, xuất khẩu theo những hiệp định hàng đổi hàng. Qua thời gian dài
đó nhà xuất khẩu của ta phần nào nắm bắt được thị hiếu, nhu cầu của người tiêu
dùng ở khu vực này và người tiêu dùng cũng đã phần nào quen với hàng may
mặc của ta. Tuy nhiên, kể từ khi các nước XHCN Đông Âu tan vỡ thì kim ngạch
hàng may mặc của ta vào thị trường này giảm mạnh. Hiện nay, hàng may mặc
của ta vào thị trường này chủ yếu do các thương gia buôn theo từng chuyến còn
về phía doanh nghiệp thì chỉ mức thấp do chưa tìm được phương thức thanh
toán hợp lý thây thế cho phương thức hàng đổi hàng trước đây.
Như vậy có thể nói, với Việt Nam đây là thị trường truyền thống mà mấy
năm vừa qua chúng ta để vượt khỏi tầm tay. Cần nhanh chóng tìm ra giải pháp
cần thiết để nối lại quan hệ với thị trường không kém phần hấp dẫn này. Các
doanh nghiệp cần mạnh dạn triển khai phương thức thanh toán mới phát huy lợi
thế vốn có của ta trong nhiều năm qua trên thị trường này.
1.5. Thị trường các nước ASEAN
Việt Nam đã là thành viên chính thức của ASEAN và đang trên tiến trình
thực hiện AFTA, bên cạnh những cơ hội lớn mở ra cũng còn nhiều thách thức.
Phải tiến hành cắt giảm thuế quan và hàng hoá được lưu chuyển tự do giữa các
nước ASEAN tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với hàng hoá Việt Nam, buộc
các doanh nghiệp Việt Nam phải nỗ lực cải tiến công nghệ, áp dụng phương
thức quản lý hiện đại và phải tạo được cho mình một nền tảng vững chắc về mọi

Thị trường thế giới sau nhiều năm vận hành độc lập nay đã trở nên có tổ
16
chức và đang hoạt động trong sự ràng buộc chặt chẽ các thể chế sau:
- Các định chế kinh tế như WTO. GSP. MFA, các công ước về lao động,
về sở hữu trí tuệ...
- Các thể chế về khu vực: EU, NAPTA, ASEAN...
- Các thể chế về tài chính: WB,IMF, ADB và các hiệp định liên ngân
hàng.
- Các hiệp định về hàng hoá như về cao su thiên nhiên, cà phê, dầu mở ,
hàng dệt may...
- Các trung tâm giao dịch: Sỏ giao dịch hàng hoá ở Luân Đôn, Paris,
Singapore, Chicago...
- Các công hội vận tải biển, tổ chức hàng không quốc tế (ICAO), tổ chức
du lịch quốc tế, các tính chất liên lạc viễn thông quốc tế, các mạng lưới và trung
tâm dịch vụ tiêu thụ...
Hoạt động của các thể chế quốc tế và khu vực đã đưa lại hiệu quả giúp
cho thương mại quốc tế được ổn dịnh và phát triển. Trong tương lai các định chế
này sẽ không thể không tham gia một cách tích cực vào các định chế thế giới và
khu vực nói trên.
Với cơ chế hoạt động của thị trường thế giới như vậy đã ảnh hưởng tới
việc sản xuất và tiêu thụ hàng dệt may trên thế giới. Như khu vực EU đã có các
mức thuế ưu đãi đối với hàng dệt may của các nước đang phát triển xuất khẩu
vào thị trường này. Hiệp định các nước EU đã có hiệp định về hàng may mặc
với từng nước cụ thể, dưới các quy định các sản phẩm Dệt may của Trung Quốc.
Với các định chế này, nó tạo ra sự công bằng giữa các nước có nền công
nghiệp may phát triển và các nước đang phát triển.
Trong bối cảnh chung của thị trường thế giới như hiện nay, tình hình sản
xuất và xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều biến động và nổi lên
một số đặc điểm sau:
+ Năm 2000 đã kết thúc hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU hạn

doanh nghiệp sản xuất mà tổ chức đấu thầu quota. Thông tư liên bộ Thương mại
- Công nghiệp điều chỉnh cơ chế giao quyền sử dụng hạn ngạch hàng dệt may
xuất đi EU. Nhà nước cho phép các doanh nghiệp tự quyết định giá cả.
18
+ Đặc biệt, Viện Mốt của Việt Nam đã đi vào hoạt động đang từng bước
nghiên cứu các kiểu mốt được thịnh hành trên các thị trường thế giới và trong
nước.
+ Hàng may mặc của Việt Nam xuất đi chủ yếu dưới hình thức gia công,
xuất khẩu trực tiếp còn rất thấp. Bên cạnh đó là sự yếu kém trong việc cung cấp
nguyên liệu dầu vào các ngành dệt cho ngành may mặc.
Tính theo kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng thì hàng may mặt Việt Nam
có tốc độ tăng trưởng lớn nhất. Năm 1998 tăng gấp 5 lần so với năm 1994. Đây
là con số khả quan đánh giá sự phát triển ngành may mặc xuất khẩu, song nhìn
vào thực tế thì giá trị ngoại tệ thực thu từ gia công đem lại là 150 triệu USD trên
tổng giá trị xuất khẩu là 874 triệu USD, còn năm 1999 là 194 triệu USD trên
tổng số kim ngạch xuất khẩu là 1,1 tỷ USD thì quả là xuất khẩu kiểu này không
mấy hiệu quả.
Hiện nay năng lực sản xuất hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam có thể
đạt 2,15 tỷ USD. Đó là kết quả của sự đầu tư không ngừng của các doanh
nghiệp, xí nghiệp Việt Nam - hầu hết các địa phương đều có xí nghiệp may ra
đời, các xí nghiệp may như : Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty
may Đức Giang, Công ty may Nhà Bè.. không ngừng cải tiến trang thiết bị, đào
tạo đội ngũ quản lý, công nhân phục vụ quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm chất
lượng cao.
Hiệp hội các xí nghiệp may của Việt Nam hoạt động tích cực, mới đây đã
thành lập Viện mốt với nhiệm vụ tạo mốt, mẫu mã kỹ thuật phục vụ các Công ty
may sản xuất có hiệu quả. Bên cạnh sự đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam
các Công ty nước ngoài cũng đã tham gia đáng kể trong việc đầu tư vào ngành
may mặc, nhiều liên doanh trong lĩnh vực may mặc đã đi vào hoạt động thu kết
quả khả quan. Tất cả đã tạo ra một năng lực sản xuất mới cho ngành may mặc

chứng mua thiết bị lạnh nên phải mất thêm 2 năm mới sử dụng được, hoặc thiếu
sự phối hợp giữa các khâu trong đầu tư dẫn đến máy móc thiết bị nhập về rồi
mới tính chất đào tạo công nhân. Tình trạng đã dẫn tới thời gian vay nợ kéo dài
nhiều khi ảnh hưởng lớn tới uy tín Công ty vì nguồn vốn vay đầu tư không được
trả đúng hạn thậm chí có trường hợp mất khả năng chi trả.
20
Khi giao nhận nguyên vật liệu và thành phẩm có trường hợp Công tylàm
hàng gia công trong nước do sơ xuất trong việc cụ thể hoá các chỉ tiêu như :
định mức tiêu hao vật liệu, kiểu cách kết hợ gam màu thời gian và địa điểm giao
nhận, phương thức thanh toán nên khi thực hiện hợp đồng đã để xảy ra những
kết cục tranh chấp đáng tiếc.
Như chúng ta đã biết, hàng may mặc luôn đi kèm với yếu tố thời trang,
khi tham gia thị trường trên thế giới thì các yếu tố đó lại càng phức tạp. Do đó
tăng cường thực hiện chiến lược sản phẩm là con đường thiết thực nhất, thường
xuyên cách tân, thay đổi mẫu mốt, kiểu dáng và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hãy để chính sản phẩm lên tiiếng là việc làm hiệu quả hơn bất cứ nỗ lực nào.
Đây cũng là bí quyết tất cả các doanh nghiệp thành công nhất trên trường quốc
tế.
Học hỏi kinh nghiệm trong đàm phán, ký kết hợp đồng với nước ngoài
cũng đang được coi là việc làm cần thiết. Công tác đàm phán cần được chuẩn
chu đáo bởi đây sẽ là thời điểm xác định lợi ích kinh tế của các bên. Muốn đạt
được lợi ích lớn trước hết phải có nghệ thuật đàm phán khôn khéo, nhiều khi
khách hàng đang có rất nhiều mối hàng nhưng do nghệ thuật thuyết phục của ta
mà họ vẫn chấp nhận đặt hàng với những điều kiện có lợi cho chúng ta. Trong
đàm phán rất cần thiết phải hiểu rõ đối phương (về văn hoá, tài chính, thái độ,
phong tục..); tuỳ theo từng đối tượng mà sử dụng các chiến lược đàm pháp kiểu
cứng, chiến lược đàm phán kiểu mềm hay chiến lược đàm phán kiểu hợp tác.
Ngoài ra còn phải chủ ý tới việc nên áp dụng chiến thuật đàm phán gì ? chiến
thuật tri thức hay chiến thuật tâm lý.
Kinh nghiệm tạo uy tín và tạo khả năng xâm nhập vào thị trường nước

trong thị trường may thế giới.
22
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG KINH DOANH XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC Ở
TỔNG CÔNG TY DỆT - MAY VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1998-2001
I. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VỀ TỔNG CÔNG TY DỆT-MAY
VIỆT NAM
1. Quá trình hình thành và phát triển của Tổng Công ty Dệt - May
Việt Nam
Ngành Dệt - May xuất khẩu Việt Nam ra đời từ những năm 58 ở miền
Bắc và những năm 70 ở miền Nam, nhưng mãi tới năm 1975 sau khi thống nhất
đất nước thì ngành mới có sự phát triển đáng kể.
Năm 1978, Liên hiệp các xí nghiệp dệt toàn quốc được thành lập trên cơ
sở thống nhất Liên hiệp các xí nghiệp Dệt phía Bắc và Tổng Công ty Dệt phía
Nam, đã phát huy vai trò tích cực trong công tác quản lí ngành kinh tế kĩ thuật,
tạo ra những khả năng liên kết sản xuất giữa hai miền.
Năm 1987-1989, từ tổ chức Liên hiệp các xí nghiệp Dệt chuyển thành
Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu Dệt để kết hợp sản xuất và kinh doanh xuất
nhập khẩu. Đến ngày 5/3/1996 Liên hiệp sản xuất, xuất nhập khẩu Dệt được
chuyển thành Tổng Công ty Dệt Việt Nam với chức năng nhiệm vụ là:
- Trung tâm thương mại của ngành dệt, lấy xuất nhập khẩu là trung tâm
hoạt động để thúc đẩy sự phát triển của ngành.
- Làm đầu mối của ngành kinh tế kĩ thuật và là hạt nhân của hiệp hội Dệt
Việt Nam.
Với mô hình này, không đáp ứng được yêu cầu củng cố và phát triển
ngành Dệt, không phát huy được sức mạnh tổng hợp, không tạo được thế và lực
để thúc đẩy sản xuất kinh doanh. Mặt khác, Nghị định 388/HĐBT ra đời tạo cho
các cơ sở phát huy lợi thế chủ động nhưng lại thiếu sự liên kết với nhau thành
sức mạnh, xuất hiện việc tranh mua tranh bán cục bộ bản vị trong sản xuất kinh
doanh, dẫn đến không có một sự chỉ huy thống nhất trong ngành. Do quản lí

dệt, hàng may mặc (từ đầu tư, sản xuất, cung ứng, tiêu thụ, xuất khẩu, nhập
khẩu), tiến hành các hoạt động kinh doanh ngành nghề khác nhau theo qui định
24
của pháp luật. Liên doanh liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
Lựa chọn, khai thác mở rộng thị trường trong và ngoài nước, hướng dẫn và phân
công thị trường cho các đơn vị thành viên. Nghiên cứu ứng dụng công nghệ và
kỹ thuật tiên tiến, đổi mới công nghệ, thiết bị theo chiến lược chung. Tổ chức
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lí, kĩ thuật và công nhân lành nghề.
Các ngành nghề kinh doanh cụ thể là : Công nghiệp dệt may : sản xuất
kinh doanh từ nguyên liệu vật tư, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất, thuốc
nhuộm và các sản phẩm cuối cùng của ngành dệt may, xuất nhập khẩu hàng dệt
may gồm các chủng loại tơ, sợi vải hàng may mặc, dệt kim, chỉ khâu, khăn
bông, len thảm đay tơ, tơ tằm, nguyên liệu, thiết bị phụ tùng, phụ liệu hoá chất,
thuốc nhuộm, hàng công nghệ thực phẩm, nông lâm hải sản, thủ công mĩ nghệ, ô
tô xe máy, các mặt hàng công nghiệp tiêu dùng khác, kinh doanh kho vận, khu
ngoại quan. Thiết kế, thi công xây lắp phục vụ ngành dệt may và xây dựng dân
dụng. Dịch vụ khoa học công nghệ, du lịch khách sạn, nhà hàng văn phòng, vận
tải, du lịch lữ hành trong nước, xuất nhập khẩu thiết bị, phụ tùng ngành dệt may,
trang thiết bị văn phòng, thiết bị tạo mẫu thời trang, phương tiện vận tải, vật liệu
điện, điện tử cao su.
Với tổng số vốn khi thành lập là 1.562.500 triệu đồng, trong đó:
-Vốn lưu động: 547.140 triệu đồng
-Vốn cố định : 1.015.360 triệu đồng
Hiện tại, Tổng Công ty có 40 doanh nghiệp thành viên tham gia sản xuất
từ kéo sợi dệt vải, hoàn tất và may mặc, một Công ty tài chính, ba xí nghiệp sửa
chữa và sản xuất phụ tùng, một viện thiết kế kĩ thuật dệt may, một viện mẫu và
thời trang, ba trường đào tạo công nhân. Có các chi nhánh ở thành phố Hải
Phòng và Đà Nẵng và hai Công ty du lịch và dịch vụ thương mại ở Hà nội và
thành phố Hồ Chí Minh. Một số đại diện ở nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng Công
ty còn có Công ty tài chính TFC là tổ chức tạo nguồn vốn cho hoạt động đầu tư


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status