Tiểu luận tư tưởng triết học phật giáo và ảnh hưởng của phật giáo đến xã hội việt nam - Pdf 23

PHẦN MỞ ĐẦU
Phật giáo là một trường phái triết học - tôn giáo điển hình của nền tư tưởng
Ấn Độ cổ đại có ảnh hưởng rộng rãi, lâu dài trên phạm vi thế giới. Hệ thống giáo lý
của nó rất đồ sộ và có số lượng phật tử đông đảo phân bố rộng khắp. Đạo Phật
được truyền bá vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã nhanh chóng
trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của người Việt
Nam bên cạnh đạo Nho, đạo Lão, đạo Thiên Chúa…
Từ khi du nhập Việt Nam đến nay, Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với lịch
sử dân tộc, nó ngấm sâu vào tư duy và trở thành một bộ phận văn hoá, nếp sống của
người Việt. Với bề dày lịch sử hàng nghìn năm, Đạo Phật đã khẳng định chân giá
trị của nó trong các lĩnh vực xã hội, văn hóa, chính trị… Đặc biệt, xét trên khía
cạnh hệ thống tư tưởng, thì Phật giáo đã trực tiếp hoặc gián tiếp góp phần hình
thành một quan niệm sống và sinh hoạt cho con người Việt Nam.
Hiện nay, tư tưởng chủ đạo, vũ khí lí luận của chúng ta trong công cuộc xây
dựng đất nước quá độ lên CNXH là chủ nghĩa Mác-Lênin; nhưng bên cạnh đó, bộ
phận kiến trúc thượng tầng của xã hội cũ vẫn có sức sống dai dẳng, trong đó giáo lý
nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của một bộ phận lớn dân cư Việt
Nam. Việc xoá bỏ hoàn toàn ảnh hưởng của nó là không thể thực hiện được nên
chúng ta cần vận dụng một cách hợp lí để góp phần đạt được mục đích của thời kì
quá độ cũng như sau này. Vì vậy, nghiên cứu lịch sử, giáo lý và sự tác động của
Phật giáo đối với thế giới quan, nhân sinh quan của con người là hết sức cần thiết.
Việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá những mặt hạn chế cũng như tiến bộ của Phật
giáo giúp ta tìm ra được phương cách để hướng đạo cho người dân một cách đúng
đắn cũng như định hướng cho sự phát triển nhân cách, tư duy con người Việt Nam
trong tương lai.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, em chọn nghiên cứu đề tài “Tư
tưởng triết học Phật giáo và ảnh hưởng của Phật giáo đến xã hội Việt Nam”.
1
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA PHẬT GIÁO

cùng đó, Ngài vẫn tiếp tục giảng dạy và khuyên bảo các đệ tử để họ tiếp tục tu tập
theo giáo pháp của Ngài: "Này các tỳ kheo, Như Lai khuyên quý vị rằng mọi pháp
hữu vi đều vô thường, quý vị hãy tinh tấn với chánh niệm". Đó là những lời cuối
cùng của đức Phật, và Ngài nhập diệt vào năm 80 tuổi, trong năm 543 trước Công
Nguyên.
Sau khi Phật qua đời, các đồ đệ tổ chức Hội nghị kết tập để tổng kết, ghi lại
những lời Phật dạy. Khoảng 100 năm sau, Hội nghị kết tập lần thứ hai được tổ chức
để hoàn thiện kinh Phật.
1.1.2. Sự phát triển của Phật giáo
Sau khi Buddha qua đời, đạo Phật chia thành hai giáo phái: Thượng tọa bộ
(Theravada) gồm các tu sĩ già có khuynh hướng bảo thủ và Đại chúng bộ
(Mahasanghika) gồm các tu sĩ trẻ có khuynh hướng cải cách việc tu luyện để thu
hút được nhiều tín đồ hơn. Về sau từ hai bộ lớn này Phật giáo tiếp tục phân chia
thành 18 tông phái nhỏ.
Đầu Công nguyên, trong Phật giáo xuất hiện giáo phái Đại thừa (Mahayana:
cỗ xe lớn) chủ trương đại chúng hóa đạo Phật để thu hút được đông đảo quần
chúng, đối lập với phái nguyên thủy Theravada chủ trương duy trì việc tu luyện với
những luật lệ khắt khe nên ít người có thể theo được gọi là phái Tiểu thừa
(Hinayana: cỗ xe nhỏ).
Phật giáo Đại thừa thịnh hành ở Tây Tạng, Mông Cổ, Trung Hoa, Triều Tiên
và Nhật Bản. Trong khi đó, Phật giáo Tiểu thừa được lưu truyền rộng rãi ở Sri
Lanka, Mianma, Thái Lan, Lào và Campuchia. Riêng Việt Nam, cả hai giáo phái
lớn này đều có mặt từ rất sớm. Giáo phái Đại thừa có một truyền thống lâu đời và
3
đã có mặt tại Việt Nam do các tu sĩ Ấn Độ truyền sang vào cuối thế kỉ thứ II. Giáo
phái nguyên thủy Theravada cũng có mặt tại vùng đất này qua nhiều thế kỉ trong
các cộng đồng người Khơme tại Nam Bộ và được truyền bá đến các phât tử người
Kinh trong thập niên 1940.
1.1.3. Phật giáo du nhập vào Việt Nam
Phật giáo hiện diện trong nền văn hóa Việt Nam đã hai nghìn năm. Ngay từ

1.2. Nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Phật giáo
Tam tạng kinh điển của Phật giáo rất đồ sộ có tới trên 5000 quyển được chia
thành ba loại gồm Kinh tạng – Luật tạng – Luận tạng (gọi là Tam tạng tức “ba kho
kinh điển”). Về mặt triết học thì quan trọng nhất là “Kinh” và “Luận”.
- Kinh tạng: Chép lời Đức Phật giảng về giáo lý.
- Luật tạng: Ghi lại việc tu tập và toàn bộ những giới luật của Phật giáo quy
định
- Luận tạng: Luận tạng do các bậc cao tăng viết ra nhằm giới thiệu giáo lý
của Phật giáo một cách có hệ thống, đó là những bài bình chú, giải thích gồm bảy
bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về giáo pháp của Phật giáo.
Những tư tưởng triết học cơ bản của Phật giáo gồm mấy vấn đề lớn sau:
- Thế giới quan Phật giáo là một thế giới quan có nhiều yếu tố duy vật và
biện chứng nhưng về cơ bản triết học Phật giáo vẫn là triết học duy tâm chủ quan.
Đặc điểm:
+ Thế giới là vô tạo giả: Đây là nét độc đáo của Phật giáo, không thừa nhận
tồn tại Brahman sáng tạo ra thế giới và Atman – linh hồn bất tử. Phật giáo cho rằng
thế giới tồn tại khách quan không phụ thuộc vào thần thánh, không do thần thánh
sáng tạo ra, mặc dù Đạo Phật thừa nhận có thần tiên là đẳng cấp cao hơn con người,
nhưng thần tiên lại không có vai trò đặc biệt, không sáng tạo thế giới. Theo Phật
giáo, mọi sự vật hiện tượng đều có nguyên nhân của nó nhưng không có gì xác
5
định được nguyên nhân của mọi nguyên nhân, tức không thể tìm ra một nguyên
nhân đầu tiên (nghĩa là không có một Đấng tối cao nào sáng tạo ra vũ trụ).
Phật giáo thừa nhận thế giới tồn tại cả vật chất và tinh thần: Thế giới do các
yếu tố vật chất và tinh thần kết hợp với nhau tạo nên. Vật chất gồm sắc là những
yếu tố có hình thù như địa (đất), thủy (nước), hỏa (lửa), phong (gió) và không là
những yếu tố không có hình thù. Các yếu tố tinh thần gọi là danh gồm thụ (cảm
giác), tưởng (suy nghĩ, tư tưởng), hành (suy lí), thức (ý thức).
Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc
luận chứng về tính chất vô ngã và vô thường của vạn vật.

quả khác… Như vậy mối quan hệ nhân duyên bao trùm toàn bộ thế giới, thế giới đa
dạng, phong phú, nhiều hình vẻ cũng chỉ là một dòng biến hóa hư ảo vô cùng
không có gì là thường định, là thực và là không thực. Tất cả đều nằm trong một
dòng sinh diệt bất tận. Ở quan điểm này cho thấy một hạn chế của Phật giáo là chỉ
thấy sự vận động, tuyện đối hóa sự vận động mà không nhìn thấy sự đứng yên
tương đối.
+ Thuyết vô ngã: phủ nhận sự tồn tại vĩnh viễn của linh hồn cá thể, phủ nhận
sự tồn tại thực sự của con người, coi sự tồn tại của con người chỉ là giả hợp của các
yếu tố danh và sắc. Vì vậy không có cái tôi thường định, cái tôi hôm nay khác cái
tôi hôm qua và cái tôi ngày mai. Con người chỉ là sự hội tụ tạm thời giây lát của
các yếu tố vật chất và tinh thần rồi lại tan ra trong dòng chảy biến hóa tan hợp hợp
tan một cách vô tận.
- Nhân sinh quan Phật giáo:
+ Triết lí nhân sinh và con đường giải thoát: Con người không phải do
Thượng đế sinh ra mà chỉ là sự kết hợp của ngũ uẩn bao gồm sắc (vật chất: đất,
nước, lửa, gió) và danh (tinh thần: hành, tưởng, thụ, thức).
Thuyết luân hồi, nghiệp báo: Phật giáo tuy bác bỏ Brahman và atman nhưng
lại kế thừa thuyết luân hồi, nghiệp báo trong đạo Balamôn. Con người sau khi chết
7
sẽ chịu sự luân hồi qua 6 kiếp: địa ngục, ác quỷ, attula, súc vật, người, thần tiên.
Muốn chuyển nghiệp thoát khỏi vòng luân hồi sinh tử con người sẽ phải tu luyện,
tu hành, tu nhân tích đức. Cái chi phối luân hồi là nghiệp lực (ý nghiệp, khẩu
nghiệp, thân nghiệp) tức là hành vi, suy nghĩ của con người gây ra ở kiếp trước quy
định kiếp sau là gì, từ đó Phật giáo đưa ra con đường giải thoát luân hồi sinh tử.
+ Tứ diệu đế: là bốn chân lí cao cả về sự đau khổ của con người và con
đường giải thoát. Đó là:
1/ Khổ đế: Theo Phật giáo, đời là bể khổ. Ở đời có vạn sự khổ, vạn sự có thể
biến thành cái khổ mà khái quát lại có 8 cái khổ phổ biến là: sinh khổ, lão khổ,
bệnh khổ, tử khổ, ái biệt ly khổ, oán tăng hội khổ, sở cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn khổ.
- Sinh khổ: Sự sinh sống của con người khổ (khổ trong lúc sanh và khổ trong

chia rẽ; phải nói lời có ích, nói đúng chỗ, đúng lúc).
- Chính nghiệp: hành vi đúng, ứng xử đúng, làm điều thiện.
- Chính mệnh: sinh sống lương thiện, tiết chế dục vọng và giữ giới luật.
- Chính tinh tiến: cố gắng, nỗ lực phấn đấu một cách đúng đắn; siêng năng
học tập, tu luyện, tìm kiếm và truyền bá chân lí của Đức Phật.
- Chính niệm: thường xuyên tâm niệm chính pháp, nhớ Phật, niệm Phật.
- Chính định: tập trung tư tưởng cao độ để suy nghĩ về tứ đế, về vô ngã, vô
thường để kiên định theo con đường chân chính của Đức Phật.
Tám con đường này được gộp lại thành 3 điều: Giới gồm chính ngữ, chính
nghiệp, chính mệnh, Định gồm chính tinh tiến, chính niệm, chính định; Tuệ gồm
chính kiến, chính tư duy. Muốn thực hiện được Bát chính đạo thì phải có phương
pháp để thực hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và
khuyến khích những người làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho người. Nội
dung của các phương pháp đó là thực hiện Ngũ giới (Năm điều răn) và Lục độ (Sáu
phép tu).
9
- Ngũ giới gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giá họa cho kẻ khác,
không nói dối.
- Lục độ gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp người một cách thành
thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhường nhịn, chịu đựng để làm chủ
được mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vươn lên.
+ Thiền định: Tư tưởng phải tập trung vào điều ngay, chính không để

11
Chương 2
MỘT SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ĐẾN XÃ HỘI VIỆT NAM
Đạo phật truyền vào nước ta khoảng thế kỷ II sau công nguyên và đã trở
thành một trong những hệ tư tưởng, tôn giáo có sức sống lâu dài, tồn tại cho đến
mãi ngày nay, đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội và tinh thần của người
Việt Nam. Phật giáo là một tôn giáo hoà bình, bác ái vì thế nên ảnh hưởng của Phật
giáo chủ yếu là tích cực.
2.1. Những ảnh hưởng tích cực của tư tưởng triết học Phật giáo đến xã
hội và con người Việt Nam
2.1.1. Phật giáo góp phần kiến tạo một xã hội bình đẳng, bác ái
Đức Phật dạy rằng hạnh phúc tối thượng là an lạc, và không thể có hạnh
phúc chân thật nếu không có an lạc.
Đức Phật không hề chia cấp bậc mà có cái nhìn ngang bằng với tất cả chúng
sinh. Đạo Phật chủ trương bình đẳng, Phật là đức Phật đã thành, chúng sinh là Đức
Phật sẽ thành, chúng sinh đều có Phật tính, đều bình đẳng trước Phật. Với Phật,
không ai tiểu nhân, không ai quân tử, cũng không có quân, không có dân, chia cắt
nhau bằng các hàng rào cấp bậc giai cấp; chỉ có một niềm từ bi bác ái, không có
hằn học, oán ghét, phục thù. Đó cũng là điều phù hợp với bản chất dân tộc Việt
Nam. Tiếp đó Phật kêu gọi sự tự giác, vị tha không những để giải quyết nỗi khổ của
mình mà còn phải cứu nhân độ thế. Người ta chỉ thấy ở đây một chủ nghĩa nhân
đạo lớn lao và có phần tích cực. Có thực hiện được hay không là vấn đề khác mà
chúng ta cần xem xét, để phê phán giá trị của học thuyết này nhưng ở đây thì rõ
ràng đó là những điểm chính yếu làm cho Phật giáo gắn bó được với quần chúng.
Phật giáo khuyến khích mọi người sống chan hoà, cảm thông và thân ái dù
khác nhau sắc tộc, tôn giáo, màu da… Có tôn giáo đã truyền bá bằng gươm đao và
chiếm đoạt. So với điều này, Đạo Phật là một tôn giáo không có lực lượng vũ trang,
cũng không có thánh chiến trong việc truyền bá giáo lý. Đạo Phật đã lan rộng một
cách từ từ nhưng vững vàng chắc chắn đến nhiều nước, nhiều vùng đất: Tây Tạng,
12

vậy, Ngài thuyết giảng về đặc tính chung nhất của nhân loại, bất kể màu da chủng
tộc hoặc các đặc tính sinh lý và tạo ra một cuộc cách mạng loại bỏ các hệ thống giai
cấp mà rất thịnh hành tại Ấn Độ thời bấy giờ. Để biểu lộ khái niệm đồng nhất của
nhân loại, Đức Phật đã khơi dậy mối đồng cảm không những của giai cấp vua chúa,
quý tộc, thương gia, mà còn với giai cấp cùng đinh, người xin ăn, kẻ cướp…
Lối sống mà Đức Phật đã dạy rất đơn giản, đối với người tại gia, chỉ áp dụng
năm nguyên tắc sống: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối
và không uống rượu, đây là một bảng nguyên tắc thật sự rất đơn giản. Nhưng lối
sống của Phật giáo, con đường mà Đức Phật đã mô tả không ngừng lại ở nguyên
tắc này. Lời dạy đó được đơn giản hóa theo một cách mà ai cũng có thể hiểu được
và làm được là bố thí (dàna), trì giới (sila) và thiền định (bhàvana).
Giáo lý nghiệp báo hay nghiệp nhân quả báo của Đạo Phật đã trở thành nếp
sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ.
Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên
âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn
ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều
qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương
bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế
hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động
sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người.
Tâm lý dân gian Việt Nam ta thiên về sự cân bằng, sự bù đắp. Nỗi khổ hôm
nay phải được đền bù bằng sự sung sướng ngày mai. Cô Tấm trong cổ tích trải qua
bao gian nan cuối cùng được hưởng hạnh phúc. Phật giáo cũng hứa hẹn với con
người sự đền bù không do quyền phép nào, chỗ dựa nào của Nho giáo, cũng không
do cán cân phúc tội của Đạo gia, Pháp gia mà do chính nỗ lực của bản thân mình.
Người dân bình thường ở xứ ta ở phần bản chất cũng có quan niệm nhận thức như
14
vậy. Tinh thần ấy là sự cố gắng tu dưỡng, vun thêm cho bản thân mình. Và họ cũng
mong mỏi, tin tưởng sự đền bù này, khi thấy Phật tổ vạch ra cho họ và khẳng định
điều tất nhiên sẽ đến.

các cụ già neo đơn Hình ảnh hàng đoàn thanh niên, sinh viên hàng ngày vẫn lăn
lội trên mọi nẻo đường tổ quốc góp phần xây dựng đất nước, tổ quốc ngày càng
giàu mạnh thật đáng xúc động và tự hào. Tất cả những điều đó chứng tỏ thanh niên,
sinh viên ngày nay không chỉ năng động, sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống
mà còn thừa hưởng những giá trị đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau giữa mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn
hoạn nạn mà không chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã
góp phần tạo nên những giá trị tốt đẹp ấy. Và ta càng phải nhắc đến giá trị đó trong
khi cuộc sống ngày nay ngày càng xuất hiện những hiện tượng tiêu cực. Trong khi
có những sinh viên còn khó khăn đã dồn hết sức mình để học tập cống hiến cho đất
nước thì vẫn còn một số bộ phận thanh niên ăn chơi, đua đòi, làm tiêu tốn tiền bạc
của cha mẹ và đất nước. Tối đến, người ta bắt gặp ở các quán Bar, sàn nhảy những
cô chiêu, cậu ấm đang đốt tiền của bố mẹ vào những thú vui vô bổ. Rồi những học
sinh, sinh viên lầm đường lỡ bước vào ma tuý, khiến cho bao gia đình tan nát, biết
bao ông bố bà mẹ cay đắng nhìn những đứa con của mình bị chịu hình phạt trước
pháp luật. Thế hệ trẻ ngày nay nhiều người chỉ biết chạy theo vật chất, bị cuốn hút
bởi những thứ ăn chơi sau đoạ làm hại đến gia đình và cộng đồng. Hơn bao giờ hết
việc giáo dục nhân cách cho thế hệ trẻ trở nên rất quan trọng và một trong những
phương pháp hữu ích là nêu cao truyền bá tinh thần cũng như tư tưởng nhà Phật
trong thế hệ trẻ. Đó thực sự là công việc cần thiết để giáo dục lớp trẻ hiện nay.
2.1.4. Phật giáo có ảnh hưởng tích cực đến các mối quan hệ gia đình, xã hội
Những mối quan hệ trong gia đình và xã hội như cha mẹ, anh em, vợ chồng,
con cái, bạn bè, họ hàng, láng giềng,… Phật giáo xem là thiêng liêng đáng được tôn
kính và lễ lạy, tôn thờ. Nhưng người ta phải lễ lạy, tôn thờ những mối quan hệ ấy
16
như thế nào? Đức Phật dạy rằng người ta có thể lễ lạy và tôn thờ những điều ấy chỉ
thông qua việc thực thi trách nhiệm và bổn phận của anh ta đối với những điều ấy.
Trước tiên, cha mẹ là thiêng liêng đối với con cái, nhắc đến công lao dưỡng dục
của cha mẹ, Phật dạy: "muôn việc ở thế gian, không gì hơn công ơn nuôi dưỡng lớn
lao của cha mẹ" (Kinh Thai Cốt), hay kinh Nhẫn Nhục dạy: "cùng tốt điều thiện

hiếu khách và nhân từ đối với nhau, nói lời vui vẻ và dễ chịu, làm việc lợi lạc cho
nhau, đối xử bình đẳng với nhau, giúp đỡ nhau trong những lúc cần thiết, và cưu
mang lẫn nhau khi gặp khó khăn, hoạn nạn.
2.2. Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng triết học Phật giáo
Bên cạnh những mặt tích cực thì Phật giáo cũng có những ảnh hưởng tiêu
cực đến xã hội ngày nay. Nhưng cần phải nhận thức một điều là những ảnh hưởng
tiêu cực này không phải xuất phát từ bản chất, lý luận của đạo Phật mà do những
người thừa hành. Có thể Kinh Phật qua nhiều nước, nhiều xã hội với nhiều nền văn
hoá khác nhau khiến có nhiều cách giải thích và cách hiểu khác nhau về đạo Phật.
Hơn nữa từng cá nhân tiếp thu đạo Phật cũng theo nhiều cách khác nhau, có thể
làm thay đổi ý nghĩa tốt đẹp của đạo Phật.
Thời đại ngày nay là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy chục năm
chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ bao cấp, đời sống còn nghèo nàn,
lạc hậu rất cần đến sự phát triển. Phát triển có nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng
về kinh tế, đời sống vật chất và văn hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ
trước mắt là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Để đạt mục tiêu đó, nước ta cần có những người có tham vọng lớn, năng động, lạc
quan, tin tưởng, dũng cảm mở rộng sáng tạo…Những phẩm chất này phần lớn trái
với giáo lý nhà Phật, vì tham vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật
Theo giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng
với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi niết bàn
khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy đạo đức Phật giáo đã tách con người
18
ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người có thái độ chấp
nhận, chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải là cải tạo thế giới, chế ngự thiên
nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo không phải
cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo đức, trong xã hội
đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục Vì vậy việc cần làm hiện nay là phải
xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của người Việt Nam như thế
nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù hợp với lòng dân, làm cho xã

dân. Phật giáo bình dân cũng sa sút. Người dân lên chùa thường quá chú trọng đến
lễ vật, đến các ham muốn tầm thường. Do không được giáo dục đầy đủ, đúng đắn
giáo lý nhà Phật, số đông thanh thiếu niên đã đua theo thị hiếu của mọi người. Họ
đến chùa cúng bái, thắp hương vái xin phật, Bồ Tát, La Hán phù hộ độ trì cho họ
đạt được mong muốn của mình. Những mong muốn ấy thường là chuyện học hành,
tình cảm, sức khoẻ, vật chất hoặc hơn nữa, họ coi đến chùa chỉ là hình thức đi
chơi, giải trí với bạn bè kèm theo đó là sự thiếu nghiêm túc trong ăn mặc, đi đứng,
nói năng. Số lượng học sinh, sinh viên nói riêng cũng như số lượng người dân đi
chùa gần đây càng đông, song xem ra ý thức cầu thiện, cầu mạnh về nội tâm còn
quá ít so với những mong muốn tư lợi. Có rất ít người đến chùa để tìm sự thanh
thản trong tâm hồn, để tu dưỡng nghiền ngẫm đạo lý làm người, về thiện - ác. Như
vậy mục đích đến chùa của người dân đã sai lầm, tầm thường hoá so với điều mà
giáo lý nhà Phật muốn hướng con người ta vào.
20
PHẦN KẾT LUẬN
Ngày nay, mặc dù có rất nhiều tôn giáo xuất hiện ở Việt Nam như Thiên
Chúa giáo, Đạo Cao Đài, Hòa Hảo, Cơ đốc giáo, nhưng Phật giáo vẫn giữ một vai
trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội Việt Nam. Nhìn vào đời sống xã hội và
tinh thần người Việt Nam trong thời gian qua, ta thấy qua nhiều biểu hiện Phật giáo
đang được phục hồi và phát triển. Ở nhiều vùng đất nước, số người theo Phật giáo
ngày càng đông, số gia đình Phật tử xuất hiện ngày càng nhiều, lễ hội Phật giáo và
sinh hoạt Phật giáo ngày một có vị trí cao trong đời sống tinh thần xã hội, điển hình
như Lễ hội Quán Thế Âm ở Ngũ Hành Sơn đã trở thành lễ hội lớn thu hút chư
khách thập phương.
Qua việc nghiên cứu đề tài này chúng ta phần nào hiểu thêm được nguồn gốc
ra đời của Phật giáo, hệ tư tưởng của Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến xã hội và
người dân ta, đồng thời hiểu thêm về lịch sử nước ta. Đặc biệt đề tài này cho chúng
ta thấy rõ vấn đề có ý nghĩa quan trọng, đó là vấn đề xây dựng hình thành nhân
cách và tư duy con người Việt Nam trong tương lai với sự hỗ trợ của những giá trị
đạo đức nhân văn của Phật giáo, cũng như một số tư tưởng tôn giáo khác.

những bài sau.
Em xin chân thành cảm ơn!
Học viên:
Trương Thị Yến Nga
Lớp Cao học Quản lý giáo dục K22
22
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. PGS.TS. Lê Hữu Ái, PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, Giáo trình Triết học,
NXB Đà Nẵng, 2010.
2. Nguyễn Duy Cần, Tinh hoa Phật giáo, NXB TPHCM, 1997.
3. Thích Nữ Trí Hải dịch, Đức Phật đã dạy những gì (con đường thoát khổ),
NNXB Tôn giáo, 2000.
4. PGS. Nguyễn Tài Thư , Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối
với con người Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, 1997.
5. PTS. Phương Kỳ Sơn, Lịch sử Triết học, NXB Chính trị quốc gia, 1999.
6. Viện triết học, Lịch sử Phật giáo Việt Nam, NXB Khoa học Xã hội Hà
Nội, 1988.
7. GS.TS Nguyễn Ngọc Long, GS.TS Nguyễn Hữu Vui, Giáo trình Triết
học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005.
8. Các tư liệu từ Internet (Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, website
Phatgiao.vn, …)
23


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status