Một số giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng tôm sú giống (penaeus monodon fabricius, 1798) sản xuất tại công ty TNHH tư vấn thủy sản huy thuận – tỉnh bến tre - Pdf 22

i

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả trình bày trong luận văn hoàn toàn trung thực và chưa được ai công bố trong bất
cứ công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn Nguyễn Trọng Huy
ii

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, Khoa Nuôi trồng Thuỷ sản, Phòng
Đào tạo Đại học và Sau Đại học Trường Đại học Nha Trang đã quan tâm giúp đỡ và
tạo mọi điều kiện cho tôi làm việc trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Hữu Dũng đã dìu dắt tôi trên
con đường nghiên cứu khoa học, trực tiếp hướng dẫn tận tình, chu đáo trong suốt quá
trình thực hiện đề tài và viết luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn gia đình và bạn bè đã động viên, khích lệ tôi trong suốt quá
trình học tập và thực hiện đề tài.

iii

MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN i

2.3.2. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản của tôm mẹ tại Công ty
Huy Thuận 28
2.3.3. Xác định các nhân tố ảnh hưởng đến cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ sử dụng
trong sản xuất tôm giống tại Công ty Huy Thuận 28
2.3.4. Xác định mối quan hệ giữa cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ và trên đàn ấu trùng
của chúng tại Công ty Huy Thuận 29
2.3.5. Xác định hiệu quả của việc sử dụng hóa chất để rửa ấu trùng nauplius trong việc
giảm thiểu mức độ cảm nhiễm MBV 30
2.4. Phương pháp xác định các chỉ tiêu thí nghiệm 31
2.4.1. Phương pháp xác định các yếu tố môi trường 31
2.4.2. Xác định mức độ cảm nhiễm MBV 31
2.4.2.1. Trên tôm mẹ 31
2.4.2.2. Trên Postlarvae 31
2.5. Chế độ chăm sóc và quản lý 32
2.5.1. Nguồn nước thí nghiệm 32
2.6. Xác định các chỉ tiêu sinh học 33
2.7. Phương pháp xử lý số liệu 34
CHƯƠNG III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 35
3.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, tình hình và kỹ thuật sản xuất tôm sú giống Công ty
Huy Thuận 35
3.1.1. Sơ lược điều kiện tự nhiên tỉnh Bến Tre nói chung và huyện Bình Đại 35
3.1.2. Hệ thống tổ chức sản xuất kinh doanh 38
3.1.3. Qui trình sản xuất tôm sú giống 40
3.1.3.1. Vị trí và mặt bằng xây dựng trại sản xuất: Có những ưu điểm sau: 40
v

3.1.3.2. Nguồn nước phục vụ cho trại tôm giống 41
3.1.3.3. Kỹ thuật nuôi thuần dưỡng tôm bố mẹ cho đẻ 41
3.1.3.4. Kỹ thuật nuôi ấu trùng 43
3.1.3.5. Quản lý bệnh trong trại tôm giống 46

Bảng 1. 3. Kết quả sản xuất tôm sú giống ở Bến Tre 22
Bảng 3.1.3.5 . Nồng độ dung dịch Treflan phòng nấm trong trại giống 46
Bảng 3.1.3.6. Hiệu quả sản xuất giống qua các năm tại Công ty Huy Thuận 48
Bảng 3.2.1: Ảnh hưởng của nguồn gốc đến hiệu quả sinh sản của tôm mẹ tại Công ty
Huy Thuận 49
Bảng 3.2.2: Quan hệ giữa kích cỡ tôm mẹ biển khơi với chất lượng sinh sản 51
Bảng 3.3.1: Mức độ nhiễm MBV trên tôm mẹ đánh bắt từ biển khơi và từ đầm nuôi. 53
Bảng 3.3.2: Mức độ cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ biển khơi theo nhóm khối lượng. 55
Bảng 3.3.3: Mức độ cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ theo tháng đánh bắt. 56
Bảng 3.3.4.1: Quan hệ giữa mật độ nuôi thuần dưỡng với mức độ cảm nhiễm MBV
trên tôm mẹ 58
Bảng 3.3.4.2: Ảnh hưởng của kỹ thuật ghép tinh đến cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ .59
Bảng 3.4: Cảm nhiễm MBV trên tôm mẹ và postlarvae của chúng ở giai đoạn PL
9
60
Bảng 3.5.1: Ảnh hưởng của các chất diệt khuẩn đến thời gian biến thái và tỷ lệ sống
của ấu trùng 64
Bảng 3.5.2: Mức độ cảm nhiễm MBV trên các giai đoạn Postlarvae sản xuất từ
Nauplius của tôm mẹ nhiễm MBV được rửa bằng nước biển sạch có bổ sung Iodine
và/hoặc Formalin 65

vii

DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1.1: Hình thái tôm sú 3
Hình 1.1.2: Bản đồ phân bố địa lý của tôm sú 4
Hình 1.1.3. Sơ đồ vòng đời tôm sú theo Motoh (1985) 5
Hình 1.2.1.1: Sản lượng tôm biển nuôi trên thế giới 7
Hình 1.2.1.2. Biến động sản lượng tôm nuôi cả nước, ĐBSCL và Bến Tre 9
Hình 2.3.2: Sơ đồ nghiên cứu xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng sinh sản

I Iodine
IHHNV Virus gây hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô dưới vỏ (Infectious
Hypodermal and Hematopoietic Necrosis Virus).
MBV Virus gây bệnh còi trên tôm sú (Monodon Baculovirus)
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
PL Tôm ở giai đoạn hậu ấu trùng (Postlarvae)
TSV Virus gây hội chứng Taura (Taura Syndrom Virus).
WSSV Virus gây hội chứng đốm trắng (White Spot Syndrome Virus)
YHV Virus gây bệnh đầu vàng (Yellow Head Virus ). 1

MỞ ĐẦU
Bến Tre là một tỉnh thuộc khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, có hệ thống
sông ngòi chằng chịt với tổng chiều dài hơn 382 km thuộc hệ thống sông Mêkông, đổ
ra biển Đông thông qua bốn cửa sông lớn: Cổ Chiên, Ba Lai, Hàm Luông và Cửa Đại,
cùng với 65 km bờ biển. Thiên nhiên ưu đãi đã tạo cho Bến Tre hơn 60.000ha mặt
nước có khả năng nuôi trồng thủy sản ở cả 3 vùng sinh thái mặn, lợ, ngọt và vùng biển
đặc quyền gần 20.000km
2
với hàng trăm loài thủy sản có giá trị kinh tế cao.
Với những lợi thế về điều kiện tự nhiên như trên, trong thời gian qua, ngành
nuôi trồng thủy sản Bến Tre đã phát triển mạnh mẽ, điển hình nhất là nghề nuôi tôm
sú. Cuối những năm 1980, nghề nuôi tôm sú đã bắt đầu hình thành tại 3 huyện: Bình
Đại, Ba Tri, Thạnh Phú. Người dân bắt đầu nuôi tôm sú bằng hình thức quảng canh,
quảng canh cải tiến. Nhờ nuôi tôm sú mà đời sống người dân 3 huyện ven biển nói trên
đã được cải thiện rất đáng kể. Thu nhập bình quân đầu người ở huyện Bình Đại đã
tăng nhanh từ 4.080.000 đồng/người vào năm 2000 lên đến 10.760.000 đồng/người
vào năm 2007. Nghề nuôi tôm sú đã góp phần tạo thêm việc làm mới, giải quyết được

sản Huy Thuận.
4. Hiệu quả của việc sử dụng hóa chất để rửa ấu trùng nauplius trong việc giảm
thiểu mức độ cảm nhiễm MBV.
Đề tài, ngoài ý nghĩa là xác định một số các nhân tố ảnh hưởng đến mức độ
cảm nhiễm MBV và hiệu quả sản xuất tôm sú giống, còn đưa ra các giải pháp kỹ thuật
nhằm hạn chế các nguồn lây lan mầm bệnh MBV trong trại sản xuất tôm sú giống ở
Bến Tre và đề ra các giải pháp kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng của tôm giống.
3 CHƯƠNG 1- TỔNG QUAN
1.1. Đặc điểm sinh học của tôm sú
1.1.1. Vị trí phân loại
Tôm sú là loài có khối lượng lớn nhất trong họ tôm he [12]. Theo Barnes (1987)
(dẫn bởi Thạch Thanh và cộng sự, 2005)[21], tôm sú được định loại như sau:
Ngành: Arthropoda
Ngành phụ : Antennata
Lớp: Crustacea

tính sống gần bờ biển và rừng ngập mặn ven bờ. Khi trưởng thành, tôm di chuyển xa
bờ, độ sâu cao nhất đến 162m, đáy bùn và cát [17].
1.1.3. Chu kỳ sống
Tôm sú từ 6 - 10 tháng tuổi đã có thể tham gia sinh sản (Nguyễn Thanh Phương
et al. 1999; Phạm Văn Tình, 2004) [16]. Vòng đời của tôm sú được chia ra làm các
giai đoạn: phôi, ấu trùng, hậu ấu trùng, tôm giống, tôm tiền trưởng thành và trưởng
thành .
Giai đoạn phôi: giai đoạn này bắt đầu từ khi trứng thụ tinh và phân cắt thành 2,
4, 8, 16, 32, 64 tế bào, phôi dâu, phôi nang, phôi vị đến khi nở. Thời gian hoàn tất giai
đoạn này khoảng 12 đến 15 giờ tùy thuộc nhiệt độ.
Giai đoạn nauplius: Chia làm 6 giai đoạn phụ (N
1
- N
6
) kéo dài 2 đến 3 ngày.
Giai đoạn zoea: Chia làm 3 giai đoạn phụ (Z
1
-Z
3
) kéo dài 4 - 5 ngày.
Giai đoạn mysis: Chia làm 3 giai đoạn phụ (M
1
-M
3
) kéo dài 3 - 4 ngày.
Hình 1.1.2: Bản đồ phân bố địa lý của tôm sú
5 Hình 1.1.3. Sơ đồ vòng đời tôm sú theo Motoh (1985)

vật mục nát, thảm thực vật đáy…[17].
1.1.5. Hoạt động sinh sản
Tôm đẻ trứng vào ban đêm từ 20 giờ đến 3 giờ sáng ngày hôm sau [12]. Trong
tự nhiên tôm thường đẻ một lần trong mỗi chu kỳ lột xác, trong điều kiện nuôi vỗ tôm
có thể đẻ nhiều lần (có thể đến 6 lần). Tùy loài, kích cỡ và tình trạng sinh lý mà tôm có
sức sinh sản khác nhau. Đối với những loài tôm có kích cỡ lớn như thuộc giống
Penaeus, sức sinh sản từ 100.000-1.200.000 trứng/con (thường 150-300g/con đối với
tôm sú). Trong điều kiện nuôi sức sinh sản của các loài này thường từ 50.000-300.000
trứng/con [16].
1.2. Tình hình nuôi tôm và vấn đề dịch bệnh trên tôm nuôi ở Việt Nam và thế
giới.
1.2.1. Sự phát triển nghề nuôi tôm thế giới và tại Việt Nam
1.2.1.1. Sự phát triển nghề nuôi tôm thế giới
Nghề nuôi tôm biển phát triển nhanh trong vòng hơn hai thập niên trở lại đây.
Vào năm 1970 thế giới chỉ có 15 quốc gia ở châu Á nuôi tôm biển, đến năm 1985 đã
có 35 nước tham gia phát triển nuôi tôm. Ngày nay, có 62 nước phát triển nuôi tôm
biển ở các châu lục: Á , Mỹ, Úc, Phi, và ngay cả châu Âu. Tuy nhiên nuôi tôm biển
vẫn chỉ tập trung ở hai khu vực chính là các nước châu Á và các nước châu Mỹ. Châu
Á là nơi bắt đầu công nghiệp nuôi tôm, hiện vẫn là nơi đóng góp sản lượng nhiều nhất.
Vào năm 2001 sản lượng tôm châu Á chiếm 84,13 %, kế đến là châu Mỹ chiếm 15%
và khoảng còn lại chưa đầy 1% là của các vùng khác (Yap, 2003).
Có 17 loài tôm biển được cho là có thể nuôi được, trong đó có 4 loài nuôi
chính hiện nay là tôm sú Penaeus monodon, tôm thẻ chân trắng Littopenaeu vannamei,
tôm he Trung Quốc P. chinensis, và tôm he Nhật Bản P. japonicus. Sản lượng tôm
nuôi thế giới đã đạt 1 triệu tấn vào năm 1998 đến năm 2001 gần đạt 1,3 triệu tấn và
vẫn tăng đều (Hình 1.2.1.1).
7 Hình 1.2.1.1: Sản lượng tôm biển nuôi trên thế giới

1979
1983
1987
1991
1995
1999
2003
Năm
Tấn
Hình 1.2.1.1: Sản lượng tôm biển nuôi trên thế giới
( Nguồn: FAO, FISHStat Plus ver 2,3)
8

quốc đã có 2.125 cơ sở sản xuất tôm giống, và đã sản xuất được 3,4 tỷ PL
15
đáp ứng
nhu cầu nuôi tôm cho các tỉnh miền Trung, miền Nam và một phần cho các tỉnh miền
Bắc.
Vào các năm 1994-1995, sự phát triển của nghề nuôi tôm ở Việt Nam có phần
chững lại do gặp phải dịch bệnh tôm. Sự bùng nổ của nghề nuôi tôm thương phẩm
được đánh dấu vào năm 2000, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số: 09/2000/NQ-CP
ngày 15/6/2000 (Nghị quyết 09) cho phép chuyển đổi một phần diện tích trồng lúa,
làm muối năng suất thấp, và các vùng đất hoang hoá sang nuôi trồng thuỷ sản. Chỉ
trong vòng 1 năm sau khi Nghị quyết 09 được ban hành, đã có 235.000 ha gồm
232.000 ha ruộng lúa, 1.900 ha ruộng muối và 1.200 ha diện tích đất hoang hoá ngập
mặn được chuyển đổi thành ao nuôi tôm. Do vậy, diện tích nuôi tôm đã tăng nhanh từ
250.000 ha năm 2000 lên đến 540.000 ha năm 2003 [1].
Trước khi công nghệ sản xuất giống tôm biển thành công, nghề nuôi tôm biển
Việt Nam đã tồn tại theo phương thức quảng canh: tôm giống và thức ăn chủ yếu dựa
vào tự nhiên. Từ đầu thập niên 1990 giống tôm biển được sản xuất nhân tạo đại trà góp

giảm giá tôm giống [19].
Bảng 1.2.1.2. Kết quả sản xuất tôm he giống ở nước ta [13, 19, 23]
Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số trại sản xuất giống 2.936 3.777 4.774 5.017 5.094 4.281
Sản lượng postlarvae (triệu con) 10,750

16000 19.053

25.170

26.000

28.800

Thành tựu của công nghệ sản xuất tôm giống nhân tạo, các chính sách khuyến
khích phát triển NTTS của Chính phủ, nhu cầu thị trường thế giới và trong nước ngày
càng cao cùng với điều kiện thiên nhiên thuận lợi, đã thúc đẩy nghề nuôi tôm Việt
Nam nói chung và các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, bao gồm khu vực Bến Tre,
phát triển nhanh chóng cả về diện tích, mức độ thâm canh lẫn sản lượng (Hình
1.2.1.2).
Hình 1.2.1. 2. Biến động sản lượng tôm nuôi cả nước , ĐBSCL và Bến Tre
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực do sự phát triển của nghề nuôi
tôm mang lại đối với đời sông kinh tế xã hội ở các cộng đồng dân cư nghèo ven biển,
sự phát triển nhanh chóng của nghề nuôi tôm ở Việt Nam đã và đang đặt ra những vấn
đề môi trường bức xúc trước mắt và lâu dài, bao gồm suy thoái rừng ngập mặn, mất
cân bằng sinh thái, ô nhiễm môi trường và sự phát triển của dịch bệnh. Trong những
năm gần đây nhiều vùng nuôi tôm sú ở các tỉnh Nam Bộ và Nam Trung Bộ liên tục bị
dịch bệnh với tỷ lệ diện tích thiệt hại rất cao. Dịch bệnh tôm thường xuyên xảy ra là
Hình 1.2.1.2. Biến động sản lượng tôm nuôi cả nước, ĐBSCL và Bến Tre
0

11% 14% 15% 12% 12% 8% 7% 8% 8% 9% 9% 8% 8%
1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
10

mối đe doạ với cộng đồng mà sinh kế chính là nuôi trồng thuỷ sản. Đã có những nơi ao
nuôi tôm bị bỏ hoang ngày một nhiều.
1.2.2. Tình hình dịch bệnh trong nghề nuôi tôm thương phẩm
1.2.2.1 Các loại bệnh nghiêm trọng đối với nghề nuôi tôm thế giới
Trong những bệnh truyền nhiễm, vi khuẩn và virus hoặc là tác nhân sơ cấp
hoặc là tác nhân cơ hội. Chúng đã gây ra những tổn thất rất nặng nề đối với vật nuôi.
Tuy nhiên hiện nay bệnh virus mới chính là nỗi ám ảnh triền miên cho những nhà nuôi
tôm, mặc dù những loài virus này không ảnh hưởng đến sức khoẻ con người nhưng
những thiệt hại mà nó mang lại đã làm suy yếu thực sự nền công nghiệp nuôi tôm trên
thế giới. Năm 1988, Lightner đã liệt kê 6 loại bệnh virus trên tôm he. Năm 1993 ông
đã liệt kê được 11 loại, cho đến bây giờ có trên 20 loại virus khác gây bệnh trên các
loài tôm he nuôi và rất nhiều loại virus tiềm ẩn vẫn chưa được biết đến [44].
Tuy nhiên, sự hiểu biết cơ bản của chúng ta về bệnh tôm vẫn còn rất khiêm
tốn. Một số loài virus, đặc biệt 6 loài virus dưới đây rất phổ biến và gây thiệt hại
nhiều đến năng suất và sản lượng của nghề nuôi tôm Châu Á:
 TSV (Taura Syndrom Virus - Virus gây hội chứng Taura).
 MBV (Monodon type Baculovirus - Virus gây bệnh còi trên tôm sú ).
 HPV (Hepatopancreatic Parvovirus - Parvovirus gây bệnh trên gan tụy).
 IHHNV (Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis Virus – Virus
gây hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô dưới vỏ).
 YHV (Yellow Head Virus - Virus gây bệnh đầu vàng).
 WSSV (White Spot Syndrome Virus - Virus gây hội chứng đốm trắng) [31].
Trong 6 loại virus trên thì virus gây hội chứng đốm trắng (WSSV) là bệnh tôm
nguy hiểm nhất, gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm Châu Á ít nhất là 9 tỷ USD kể từ năm
1993 đến nay [ 31].
1.2.2.2. Tình hình dịch bệnh trong nghề nuôi tôm sú tại Việt nam

gây bệnh trên các loài tôm he nuôi ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, trong đó có
hai loại virus gây bệnh cho tôm là MBV và WSSV. Tỉ lệ nhiễm mầm bệnh WSSV
tương quan với yếu tố DO trong môi trường ao nuôi, tỉ lệ nhiễm và tần số xuất hiện
cao nhất trong mùa mưa và thời điểm giao mùa cuối mùa mưa đầu mùa khô[11].
Kết quả kiểm tra bệnh đốm trắng và tình hình dịch bệnh trên tôm Sú nuôi ở
khu vực Nam Bộ của Viện Nghiên cứu Nuôi trồng thuỷ sản II năm 2003 cũng đã cho
thấy: tỉ lệ nhiễm virus đốm trắng trên tôm giống năm 2001 là 8,5%, năm 2002 là 8,8%
và năm 2003 là 2,6%. Tuy nhiên thiệt hại do bệnh đốm trắng gây ra ở tôm Sú nuôi
thương phẩm lại rất lớn. Trong điều kiện không xảy ra dịch tôm chết trên diện rộng thì
tỉ lệ nhiễm virus đốm trắng ở mức dưới 30% , tuy nhiên ở đợt khảo sát tháng 10/2003
tỉ lệ nhiễm virus tăng rất cao đạt 91-100% trên mẫu tôm bệnh thu từ vùng nuôi thuộc
tỉnh Cà Mau và Kiên Giang [1].
12

Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (2003), trong tổng số 1037 mẫu phân tích
bằng kỹ thuật PCR tại Đại học Cần Thơ từ tháng 10/2001- 5/2003, tỷ lệ nhiễm virus
đốm trắng (WSSV) là 13,1%. Tỷ lệ cao nhất vào tháng 2/2002 là 37,7%, tháng
11/2003 là 28%. Tôm có nguồn gốc Nam Trung bộ là 15,2% và Tây Nam bộ là 8%.
Nhận định của Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thuỷ Sản 2 (Nguyễn Văn Hảo và CTV,
2002, 2003) tôm nuôi thương phẩm ở giai đoạn 1-2 tháng tuổi thường hay nhiễm bệnh
WSSV, bệnh phát triển mạnh vào tháng 2 - 3, tháng 7 - 9 và tháng 11. Theo Lý thị
Thanh Loan (2003) mầm bệnh WSSV có tỷ lệ nhiễm cao và tần số xuất hiện cao nhất
vào mùa mưa và thời điểm giao mùa cuối mùa mưa đầu mùa khô [16].
Theo Bùi Quang Tề (2003) kết qủa phân tích PCR trên 145 mẫu tôm sú và tôm
chân trắng nuôi ở các tỉnh ven biển miển Bắc (Quảng Ninh, Hải phòng, Nam định,
Thanh hoá, Hà Tĩnh) và Postlarvae đưa từ Quảng Nam và Đà Nẵng chuyển ra Bắc. Kết
quả tỷ lệ nhiễm WSSV của tôm post từ miền Trung là 23,8%; Tôm sú nuôi thương
phẩm ở phía Bắc là 26,92%; tôm chân trắng là 13,33% [3].
Ngay vụ 1 năm 2004, báo cáo của Bộ Thủy sản cho biết tại 15 tỉnh duyên hải
Nam trung bộ và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long có 33.563 ha tôm nuôi (chiếm

Bệnh do MBV gây hại chủ yếu trên tôm sú chủ yếu trong giai đoạn hậu ấu
trùng (postlarvae) trong các trại sản xuất giống, mặc dù đã có vài thông báo về hiện
tượng tôm chết do MBV trên tôm ấu niên và tôm trưởng thành [41]. Tỷ lệ tử vong của
đàn postlarvae nhiễm bệnh có thể đạt đến 90% chủ yếu trong giai đoạn từ PL
16
đến
PL
25
[47]. Tuy nhiên, theo các nhà khoa học Thái Lan, tuy tỷ lệ cảm nhiễm MBV
trong các đàn tôm giống ở Thái Lan rất cao nhưng lại không gây chết nghiêm trọng
tôm ở giai đoạn hậu ấu trùng nếu postlarvae được ương nuôi trong điều kiện môi
trường và chế độ dinh dưỡng tốt. Vấn đề là khi đưa các đàn tôm giống này ra ao nuôi
thương phẩm thì tôm sinh trưởng chậm và dễ cảm nhiễm các bệnh do các tác nhân
khác, đặc biệt là virus gây hội chứng đốm trắng [34].
Theo Lightner (1988), do tính chất của bệnh là cấp tính ở các giai đoạn ấu trùng
tôm nên ấu trùng tôm nhiễm MBV thường không thể hiện rõ rệt các dấu hiệu bệnh lý
bên ngoài, ngoại trừ hiện tượng tôm bỏ hoặc giảm bắt mồi và sự gia tăng sinh vật bám
trên mang và bề mặt cơ thể. Những cá thể nhiễm nặng có thể thể hiện gan tụy và ruột
giữa màu trắng đục [44].
Về tổ chức bệnh lý học, MBV hình thành nên các thể vùi (occlusion bodies - OB)
hình cầu bắt màu eosin trong nhân của các tế bào gan tụy. Các thể vùi này có thể nằm
rời rạc hoặc dính chùm lại với nhau. Có thể phát hiện sớm cảm nhiễm MBV trên tôm
bằng sự hiện diện của các tế bào có nhân bị phì đại, thể nhiễm sắc tập trung ở rìa và
hạch nhân dịch chuyển ra mép ngoài của nhân. Khi tôm nhiễm nặng các tế bào biểu
14

mô của phần trước ruột giữa cũng có thể bị cảm nhiễm [43]. Theo Brock và Lightner
(1990), kích thước nucleocapsid trung bình của MBV là 246 x 42 nm. Bệnh do MBV
trên tôm có thể chẩn đoán bằng kỹ thuật mô học với sự hiện diện của thể vùi bắt màu
eosin trong nhân tế bào gan tụy. Các thể vùi này có thể hiển thị trên mẫu ép gan tụy

Kết quả nghiên cứu tỷ lệ cảm nhiễm WSSV và MBV trên ấu trùng tôm sú tại
Việt Nam từ tháng 12 năm 2001 đến giữa tháng 5 năm 2002, Đặng Hoàng Oanh và
cộng sự (2005) đã công bố tỷ lệ cảm nhiễm MBV trên ấu trùng tôm sú sản xuất tại
Việt Nam là 46,4% sau khi phân tích 388 mẫu bằng phương pháp kiểm tra nhanh bằng
xanh malachite và không có sự sai khác về tỷ lệ cảm nhiễm MBV giữa ấu trùng tôm sú
sản xuất từ các tỉnh Miền Trung và các tỉnh Miền Nam [32]
Theo Đỗ Thị Hòa và cộng sự (2004), mức độ cảm nhiễm MBV trên postlarvae
quan hệ không chặt với các tháng, các mùa vụ khác nhau trong năm. Nhận định này
được Đặng Thị Hoàng Oanh và cộng sự (2007) củng cố khi nghiên cứu tỷ lệ cảm
nhiễm tự nhiên của một số vi rút gây bệnh trên tôm sú bột thả nuôi ở một số tỉnh
ĐBSCL, tỷ lệ cảm nhiễm virus (WSSV, MBV, YHV và GAV) trên tôm sú giống dao
động qua các tháng thu mẫu và không theo qui luật nhất định [5]. Đàn postlarvae
thường xuyên mang mầm bệnh MBV, bệnh có xảy ra được hay không chịu ảnh hưởng
lớn vào điều kiện gây sốc do mật độ cao, môi trường biến động [6]. MBV thường xuất
hiện nhiều ở giai đoạn postlarvae liên quan đến điều kiện môi trường bất lợi và khi mẻ
sản xuất kiểm tra dương tính với MBV, nếu chất lượng nước được cả thiện mẻ
postlarvae có thể âm tính nếu kiểm tra sau đó vài ngày [33].
16

Bảng 1.2.2.3. Tình hình nhiễm bệnh trên tôm sú giống ở Việt Nam năm 2001-2002 [32]
WSSV(*) MBV (#) Nhiễm hỗn hợp
Vị trí thu mẫu

Mẻ PL
đã phân
tích
Số mẻ bốt
dương tính (%)

Mẻ PL

CI: 5,8-20,2%)
10 (11,2%; 95%
Các cơ sở ương ở Đồng bằng Sông Cửu Long
Tổng 126
29 (23%; 95%
CI: 16,2-
31,5%)
85
45 (52,9%; 95%
CI: 41,9-63,8%)
9 (7,1%; 95% CI: 3,5-13,5%)
(*) WSSV Phát hiện bằng PCR, (#) MBV Phát hiện bằng mô học
17

Theo Đặng Thị Hoàng Oanh và cộng sự (2007), tỷ lệ cảm nhiễm tự nhiên vi rút
MBV trên tôm sú bột thả nuôi ở một số tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long là 39,4%.
Tôm Sú bột sản xuất tại các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long có tỷ lệ nhiễm các virus
(WSSV, MBV, YHV và GAV) cao hơn tôm giống nhập từ các tỉnh Trung và Nam
Trung bộ [5].
Với đặc điểm lây nhiễm nêu trên, biện pháp ngăn ngừa cảm nhiễm MBV trong các
trại sản xuất tôm giống là hạn chế tạp nhiễm và áp dụng biện pháp thanh trùng nghiêm
ngặt. Phải loại bỏ hết các cá thể nhiễm bệnh [41]; thanh trùng các dụng cụ và các bể
ương sau mỗi đợt sản xuất [53]; tách trứng ra khỏi phân tôm mẹ và rửa sạch bằng nước
biển vô trùng, dung dịch iodophore và / hoặc Formalin [31, 52], công bố rằng MBV có
thể bị bất hoạt khi xử lý bằng 1000 mg/l calcium hypochlorite trong 24 giờ.
Một số công trình nghiên cứu về khả năng chịu đựng của MBV với các điều
kiện môi trường và thuốc sát khuẩn đã được công bố. Theo Natividad (1992), MBV có
khả năng chịu đựng cao với thuốc sát trùng và tồn tại trong 6 –8 giờ với Iodine 15ppm,
Chlorine 10ppm virus vẫn có thể sống ở độ mặn 0 ppt và ở nhiệt độ 37
0


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status