Phân tích nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần kiên long - Pdf 22

1

PHẦN MỞ ĐẦU
Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Ngân hàng là tổ chức trung gian tài chính, trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày
càng gia tăng, những bất ổn khó lường của thị trường ngày càng trở nên mạnh mẽ và
hết sức nguy hiểm, để có thể tồn tại và phát triển ngày càng vững mạnh trên thị trường
này đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có những chiến lược riêng phù hợp với năng lực và
trình độ của mình. Vậy vấn đề đặt ra là chính từng tổ chức tín dụng nói chung và ngân
hàng nói riêng phải có sự nghiên cứu đánh giá đúng hiệu quả hoạt động của mình và
xác định những nhân tố nào có ảnh hưởng trực tiếp, gián tiếp đến hiệu quả hoạt động
của mình từ đó mới xác định yếu tố nào mạnh để phát huy và yếu tố nào yếu cần phải
cải tiến nâng cao. Qua đó nâng dần hiệu quả hoạt động kinh doanh và tạo ra vị thế
riêng trên thị trường mang đầy tính nhạy cảm này, đã có nhiều nghiên cứu có liên quan
đến hiệu quả hoạt động của NHTM như:
Luận án “Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của các NHTM trên địa bàn Hà Nội
trong tiến trình hội nhập quốc tế” của nghiên cứu sinh Đàm Hồng Phương, hoàn thành
tháng 8 năm 2009, luận án có phân tích các chỉ tiêu đo lường hiệu quả hoạt động của
ngân hàng thương mại và phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến các hiệu quả sử dụng
vốn của ngân hàng. Nhưng luận án chỉ dừng lại ở khía cạnh đánh giá hiệu quả của hoạt
động sử dụng vốn qua đó đưa ra giải pháp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của
NHTM.
Đối với việc nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của
ngân hàng Việt Nam đã có Nguyễn Việt Hùng (2008) sử dụng phương pháp nghiên
cứu định tính phối hợp với định lượng bằng việc phân tích các chỉ số tài chính nhằm
xác định các nhân tố có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống ngân
hàng thương mại của Việt Nam. Nghiên cứu trên mang tính chất chung cho toàn hệ
thống, tập trung xoay quanh các chỉ số tài chính trong hoạt động của các ngân hàng
thương mại.
Luận án “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM Nhà nước
Việt Nam hiện nay” của nghiên cứu sinh Phạm Thị Bích Lương – chi nhánh Ngân

Từ kết quả nghiên cứu gợi ý một số định hướng về giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của NHTMCP Kiên Long trong thời gian tới.
Giới hạn nghiên cứu:
3

Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt
động của NHTMCP Kiên Long.
Phạm vi nghiên cứu: Tại NHTMCP Kiên Long đặt tại 44 Phạm Hồng Thái –
Rạch Giá – Kiên Giang và NHTMCP Kiên Long chi nhánh Sài Gòn.
Thời gian nghiên cứu: 6 tháng
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp thống kê mô tả và
phân tích định lượng để phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động kinh
doanh của NHTMCP Kiên Long.
Nguồn dữ liệu sử dụng trong nghiên cứu:
Dữ liệu sơ cấp: Lấy ý kiến từ các chuyên gia và các nhà quản trị cấp cao của
NHTMCP Kiên Long và phân tích định lượng thông qua bảng câu hỏi khảo sát được
xử lý bằng phần mềm SPSS.
Dữ liệu thứ cấp: Số liệu trong phân tích lấy từ báo cáo tài chính hằng năm của
NHTMCP Kiên Long kết hợp sử dụng phần mềm excel xử lý số liệu phân tích.
Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu:
Phân tích thực trạng và đánh giá hiệu quả hoạt động NHTMCP Kiên Long dựa
trên phân tích định tính và phân tích định lượng để thấy những nhân tố ảnh hưởng đến
hiệu quả hoạt động, đồng thời qua kiểm định mô hình xác định những nhân tố nào là
quan trọng đóng góp vào hiệu quả hoạt động của chính bản thân NHTMCP Kiên Long.
Gợi ý những định hướng giải pháp để hoàn chỉnh khung pháp lý (dưới góc độ vĩ
mô) và giải pháp nâng cao các nhân tố có ảnh hưởng nhằm mục tiêu nâng cao hiệu quả
hoạt động của NHTMCP Kiên Long trong điều kiện cạnh tranh hiện nay (dưới góc độ
vi mô)
Kết cấu luận văn: gồm 4 chương
5

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ HIỆU QUẢ VÀ NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HIỆU QUẢ
HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm, hoạt động của Ngân hàng thương mại:
1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại:
Lịch sử phát triển của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền
kinh tế hàng hóa, và sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế thị trường đã làm biến
đổi mạnh mẽ hệ thống ngân hàng từ những hệ thống ngân hàng đơn giản, sơ khai ban
đầu nay đã trở thành những ngân hàng hiện đại, những tập đoàn tài chính khổng lồ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa, các tư tưởng kinh tế, sự đa dạng của
các sản phẩm dịch vụ và đặc thù của đạo luật của từng quốc gia mà khái niệm ngân
hàng thương mại có nhiều cách nhìn khác nhau, theo Peter S.Rose thì Ngân hàng là
loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất -
đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài
chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế; còn theo Luật
tổ chức tín dụng Việt Nam thì Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được
thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng, theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các
loại hình ngân hàng bao gồm ngân hàng thương mại, ngân hàng chính sách, ngân hàng
hợp tác xã. Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các
hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật tổ
chức tín dụng nhằm mục tiêu lợi nhuận.
Như vậy Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính có vai trò
quan trọng của nền kinh tế, trước hết nó có vai trò là trung gian tài chính trong việc

qua tài khoản của khách hàng.
Tóm lại NHTM, một trong những loại hình tổ chức kinh tế hoạt động trong lĩnh
vực kinh doanh tiền tệ, luôn được xem là loại hình doanh nghiệp đặc biệt trong nền
kinh tế. Tính chất đặc biệt đó là: thứ nhất đối tượng kinh doanh của các NHTM là tiền
tệ, thứ hai NHTM hoạt động dựa trên uy tín, được phép huy động và sử dụng phần vốn
này cho vay theo quyết định tỷ lệ an toàn của Ngân hàng nhà nước đây được xem là
một đặc quyền đối với doanh nghiệp xuất phát từ vai trò trung gian tài chính trong nền
kinh tế, thứ ba cũng chính từ những điểm đặc biệt nêu trên mà hiệu quả hoạt động của
mỗi NHTM có ảnh hưởng sâu sắc đến hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống ngân hàng
nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Ngoài ra đặc thù của nền kinh tế Việt Nam trong
các giai đoạn khác nhau càng khiến các NHTM trở nên khác biệt.
7

1.2. Hiệu quả hoạt động của NHTM:
1.2.1 Khái niệm
Đại từ điển tiếng việt của Nguyễn Như Ý (1998) định nghĩa “hiệu quả” là kết
quả đích thực.
Theo Perter S.Rose giáo sư kinh tế học và tài chính trường đại học Yale thì về
bản chất
NHTM
cũng có thể được coi như một tập đoàn kinh doanh và hoạt động
với mục tiêu tối
đa
hóa lợi nhuận với mức độ rủi ro cho phép. Tuy nhiên, khả năng
sinh lời là mục tiêu được các
ngân
hàng quan tâm hơn cả vì thu nhập cao sẽ giúp
các ngân hàng có thể bảo toàn vốn, tăng khả
năng


tăng trưởng kinh tế.
(2) Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho phù hợp với cơ chế kinh tế mới là một tất
yếu khách quan trong quá trình đổi mới cơ chế kinh tế. Để góp phần chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì cần phải đầu tư, muốn
gia tăng đầu tư mà chủ yếu là đầu tư dài hạn thì cần phải có nguồn vốn trung và dài
hạn. Nguồn vốn trung, dài hạn sẽ được đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật, đầu tư chiều sâu
trong các ngành chế biến, các ngành công nghiệp mũi nhọn
Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển, để đáp ứng nhu cầu vốn
trung, dài hạn ngày càng tăng cho các doanh nghiệp và nền kinh tế nhằm phục vụ cho
công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì các NHTM cần phải chú trọng đến việc tăng qui mô
hoạt động, đến chiến lược huy động vốn của mình mà đặc biệt là huy động vốn trung,
dài hạn đồng thời cũng phải quan tâm đến việc nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn
này.
(3) Tạo điều kiện luân chuyển vốn nhanh hơn, tiết kiệm được chi phí lưu thông
xã hội.
Do hoạt động trung gian thanh toán của các NHTM ngày càng phát triển và mở
rộng. Với các phương tiện thanh toán hiện đại, đa dạng và các phương thức thanh toán
linh hoạt đã thúc đẩy nhanh quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, từ
đó tạo điều kiện để luân chuyển vốn nhanh hơn, hiệu quả và giảm thiểu rủi ro hơn, tiết
kiệm được thời gian và chi phí lưu thông xã hội. Mặt khác, nó cũng giúp cho các
doanh nghiệp tập trung vào việc chuyên môn hóa các hoạt động sản xuất, kinh doanh
của mình, giảm chi phí giao dịch trong quan hệ thanh toán, chi trả. Thông qua đó cũng
giúp cho NHTM tập trung được nguồn vốn lớn và quan trọng trong xã hội để cấp tín
dụng ngày càng nhiều hơn cho nền kinh tế. Để đẩy mạnh hoạt động trung gian thanh
toán nhằm thu hút khách hàng ngày càng nhiều, các NHTM luôn tìm cách hiện đại hóa
công tác thanh toán qua ngân hàng theo hướng nhanh chóng, thuận tiện, an toàn, kịp
thời và chính xác.
(4) Tạo điều kiện thực thi có hiệu quả các cơ chế, chính sách của nhà nước góp
phần ổn định tài chính, ổn định kinh tế vĩ mô.

lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đời sống xã hội.
1.2.1.2 Hiệu quả đối với bản thân các NHTM
Hoạt động của các NHTM ngoài việc mang lại hiệu quả cao để đóng góp cho nền
kinh tế thì hiệu quả thiết thực và cụ thể cũng chính là mục tiêu hàng đầu của tất cả các
NHTM, đó chính là lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là yếu tố đầu
tiên được xem xét khi đánh giá về hiệu quả hoạt động của bất kỳ một tổ chức kinh tế
nào, do đó trong quá trình hoạt động, NHTM nào có mức lợi nhuận càng cao thì vị thế
của nó càng được củng cố và nâng cao. Lợi nhuận tích lũy của NHTM trở thành giá trị
thuần, cung cấp một khoản dự trữ để bổ sung cho các khó khăn về tài chính trong
tương lai. Đối với NHTM thì lợi nhuận tích lũy là nguồn tăng trưởng chủ yếu của vốn
chủ sở hữu. NHTM có mức vốn chủ sở hữu cao sẽ nâng cao mức độ an toàn về vốn
trong hoạt động kinh doanh của mình, đồng thời tăng cường được khả năng huy động
10

vốn và khả năng cạnh tranh không những ở phạm vi trong nước mà có thể vươn ra đến
ngoài nước.
Vì vậy, trong hoạt động, NHTM nào có khả năng cung cấp các nghiệp vụ, dịch
vụ với số lượng và chất lượng có thể đáp ứng được nhu cầu của các tổ chức, cá nhân
trong nền kinh tế một cách tốt nhất thì NHTM đó sẽ có doanh số hoạt động tăng lên
cùng với lợi nhuận ròng lớn hơn và ngược lại NHTM nào kém cỏi về chất lượng, hạn
chế về số lượng các dịch vụ cung cấp thì doanh số hoạt động sẽ ít hơn và tất nhiên lợi
nhuận cũng sẽ giảm đi.
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động:
1.2.2.1: Chỉ tiêu về tài chính:
Các hệ số tài chính là công cụ được sử dụng phổ biến nhất trong đánh giá, phân
tích và phản ánh hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại ở cấp ngành và cấp
quản lý của Chính phủ.
Mỗi hệ số cho biết mối quan hệ giữa hai biến số tài chính qua đó cho phép phân
tích và so sánh giữa các chi nhánh, giữa các ngân hàng và phân tích xu hướng biên
động của các biến số này theo thời gian. Có nhiều loại hệ số tài chính được sử dụng để

động biên phản ánh năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc
duy trì sự tăng trưởng các nguồn thu (chủ yếu từ các khoản cho vay, đầu tư và phí dịch
vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi trả lãi tiền gửi, những khoản vay trên
thị trường tiền tệ, tiền lương nhân viên và phúc lợi). Tỷ lệ thu nhập lãi biên ròng đo
lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông
qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí
thấp. Trái lại tỷ lệ thu ngoài lãi biên ròng đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu
ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân
hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị và chi phí tổn thất
tín dụng). Còn thu nhập trên cổ phiếu (EPS) đo lường trực tiếp thu nhập của các cổ
đông tính trên mỗi cổ phiếu hiện hành đang lưu hành.
ROA là một chỉ tiêu chủ yếu phản ánh tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản. Nó chỉ ra
khả năng của Hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân
hàng thành thu nhập ròng. ROA được sử dụng rộng rãi trong phân tích hiệu quả hoạt
NIM =
(1)
Tổng tài sản có sinh lời (hoặc tổng tài sản có)
Thu nhập từ lãi - Chi phí trả lãi
NOM =
(2)
Tổng tài sản có
Tổng thu nhập ngoài lãi - tổng chi phí ngoài lãi
TNHĐB =
(3)
Tổng tài sản có
Tổng thu hoạt động - tổng chi phí hoạt động
EPS =
(4)
Tổng số cổ phiếu thường hiện hành
Lợi nhuận sau thuế

nguyên tắc thị trường.
1.2.2.2.1 Đảm bảo các yêu cầu về vốn tối thiểu:
Để đo lường hiệu quả hoạt động của các TCTD trước hết ta căn cứ vào việc
đảm bảo các yêu yêu cầu tối thiểu về vốn nhằm đảm bảo duy trì tỷ lệ an toàn về vốn
theo quy định, đồng thời đảm bảo các giới hạn khác nhằm đo lường và hạn chế các rủi
ro trong hoạt động mà theo nguyên tắc Basel tập trung vào bốn loại rủi ro cơ bản là rủi
ro tín dụng, rủi ro vận hành (hay rủi ro hoạt động) và rủi ro thị trường, rủi ro thanh
khoản.
Rủi ro tín dụng là rủi ro tiềm ẩn đối với thu nhập hay vốn phát sinh khi đối tác
không đáp ứng đước các điều kiện của hợp đồng hay không thực hiện đầy đủ như đã
thỏa thuận theo các điều khoản của hợp đồng, để đo lường rủi ro tín dụng nhà quản trị
13

căn cứ vào phân loại tài sản có, điều họ cần quan tâm là nợ xấu của TCTD là bao
nhiêu, theo các quy định hiện nay nợ xấu không được vượt quá 3% so với tổng dư nợ
cho vay là tốt nhất.
Rủi ro hoạt động là rủi ro xảy ra tổn thất do quy trình và thủ tục nội bộ không
đầy đủ hoặc lỗi, do con người, do các hệ thống hoặc do các sự kiện bên ngoài đựơc đo
lường bằng những tổn thất trong hoạt động.
Rủi ro thị trường là rủi ro tiềm ẩn của một TCTD xảy ra khi các biến động của
thị trường gây ra những tác động bất lợi lên vốn và thu nhập của TCTD. Có 3 loại rủi
ro thị trường thứ nhất rủi ro lãi suất đo lường bằng sự thay đổi biên độ lãi suất ròng,
thứ hai rủi ro ngoại hối đo lường bằng trạng thái ngoại tệ ròng và thứ ba là rủi ro về
giá đo lường bằng việc so sánh giá thị thường với giá trị sổ sách.
Rủi ro thanh khoản: là rủi ro tiềm ẩn ảnh hưởng xấu đến thu nhập và vốn phát
sinh do ngân hàng không thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn hoặc ngân hàng có
thể đáp ứng các nghĩa vụ nợ khi đến hạn nhưng phải chấp nhận tổn thất lớn. Để đo
lường rủi ro thanh khoản các nhà quản trị sử dụng cách tính nguồn và sử dụng nguồn
tiền theo thời điểm.
Cụ thể tại Việt nam các TCTD phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn như sau:

vượt quá 15% vốn tự có của TCTD. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của TCTD đối với
một khách hàng không vượt quá 25% vốn tự có của TCTD. Tổng dư nợ cho vay của
TCTD đối với một nhóm khách hàng có liên quan không vượt quá 50% vốn tự có của
TCTD, trong đó mức cho vay đối với một khách hàng không vượt quá 15% vốn tự có
của TCTD. Tổng mức cho vay và bảo lãnh của một TCTD đối với một nhóm khách
hàng có liên quan không vượt quá 60% vốn tự có của TCTD.
(3) Tỷ lệ về khả năng chi trả
Cuối mỗi ngày, TCTD phải xác định và có các biện pháp để đảm bảo các tỷ lệ về
khả năng chi trả cho ngày hôm sau như sau:
- Tỷ lệ tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng Nợ
phải trả.
- Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày
tiếp theo kể từ ngày hôm sau và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong 7 ngày tiếp
theo kể từ ngày hôm sau đối với đồng Việt Nam, đồng Euro, đồng Bảng Anh và đồng
đô la Mỹ (bao gồm đồng đô la Mỹ và các ngoại tệ khác còn lại được quy đổi sang đô
la Mỹ theo tỷ giá liên ngân hàng cuối mỗi ngày).
(4) Tỷ lệ cấp tín dụng so với nguồn vốn huy động
TCTD chỉ được sử dụng nguồn vốn huy động để cấp tín dụng với điều kiện trước
và sau khi cấp tín dụng đều đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi trả và các tỷ lệ bảo đảm an
toàn khác quy định tại Thông tư này và không được vượt quá tỷ lệ dưới đây:
Đối với ngân hàng: 80%
Đối với TCTD phi ngân hàng: 85%
(5) Phân loại cho vay và mức trích lập dự phòng rủi ro [
2
].
TCTD thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng như sau :
- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
+ Các khoản nợ trong hạn mà TCTD đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ
cả gốc và lãi đúng hạn.
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 10 ngày và TCTD đánh giá là có khả năng thu hồi

trường hợp sau
- Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một (01) khoản nợ với TCTD mà có
bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì TCTDbắt buộc phải phân
loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương
ứng với mức độ rủi ro.
- Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ
cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà TCTDcó đủ cơ sở
để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì TCTDchủ động tự
quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm rủi ro cao hơn tương ứng với mức
độ rủi ro.
1.2.2.2.2 Quy trình quản trị rủi ro:
16

Theo quy định tại nguyên tắc một của trụ cột 2 của Basel: Ngân hàng nên có
quy trình đánh giá tổng quan mức độ an toàn vốn trong mối liên hệ với các đặc điểm
về rủi ro của ngân hàng và có một chiến lược để duy trì vốn. Ngân hàng cần chứng
minh được rằng các mục tiêu về vốn nội bộ mà họ đề ra đã được xây dựng cẩn thận và
những mục tiêu đó phù hợp với đặc điểm về rủi ro và môi trường hoạt động hiện thời
của ngân hàng. Khi đánh giá mức độ an toàn vốn, ban quản lý ngân hàng cần phải lưu
ý xem xét xem ngân hàng đang nằm ở giai đoạn nào của chu kỳ kinh doanh. Ngân
hàng cần thực hiện các thử nghiệm chặt chẽ và toàn diện về khả năng chống đỡ các
tình huống xấu (stress testing), trong đó tính đến những sự kiện và những thay đổi về
điều kiện thị trường có thể xảy ra có thể gây ảnh hưởng xấu đến ngân hàng. Ban quản
lý rõ ràng có trách nhiệm chính trong việc đảm bảo ngân hàng có đủ vốn để xử lý các
rủi ro. Và năm thuộc tính chính của một quy trình chặt chẽ là: Giám sát của hội đồng
quản trị và ban điều hành; Ước tính mức vốn hợp lý; Đánh giá toàn diện các rủi ro;
Giám sát và báo cáo.
Vậy để đánh giá hiệu quả ở chỉ tiêu này cần phải được các ngân hàng thể hiện
bằng việc Ngân hàng và tập đoàn ngân hàng phải có quy trình quản lý rủi ro toàn diện
phù hợp để nhận diện, đánh giá và giám sát, kiểm soát/giảm thiểu rủi ro và đánh giá

chất rủi ro, bảo toàn vốn, nâng cao thu nhập và lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh
của NHTM. Các nhân tố có thể được chia làm hai nhóm: nhóm các nhân tố bên ngoài
(nhân tố khách quan) và nhóm nhân tố bên trong nội tại ngân hàng (nhân tố chủ quan),
tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng ngân hàng mà 2 nhóm nhân tố này có ảnh hưởng
khác nhau đến hiệu quả hoạt động của chính các ngân hàng thương mại, cụ thể như:
1.3.1. Nhóm nhân tố bên ngoài
(a) Môi trường về kinh tế xã hội trong và ngoài nước:
NHTM là một tổ chức trung gian tài chính làm cầu nối giữa khu vực tiết kiệm
với khu vực đầu tư của nền kinh tế, do vậy những biến động của môi trường kinh tế xã
hội có những ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động của các ngân hàng. Nếu môi trường
kinh tế, chính trị và xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các
NHTM, vì đây cũng là điều kiện làm cho quá trình sản xuất của nền kinh tế được diễn
ra bình thường, đảm bảo khả năng hấp thụ vốn và hoàn trả vốn của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế. Khi nền kinh tế có tăng trưởng cao và ổn định, các khu vực trong
nền kinh tế đều có nhu cầu mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh do đó nhu cầu vay
vốn tăng làm cho các NHTM dễ dàng mở rộng hoạt động tín dụng của mình đồng thời
khả năng nợ xấu có thể giảm vì năng lực tài chính của các doanh nghiệp cũng được
18

nâng cao. Ngược lại, khi môi trường kinh tế, xã hội trở nên bất ổn thì lại là những nhân
tố bất lợi cho hoạt động của các NHTM. Điều này được minh chứng bằng sư sụp đỗ
hàng loạt các ngân hàng trên thế giới khi cuộc khủng hoảng tài chính thế giới xảy ra.
Thực tế cho thấy hiện nay Việt Nam đang trong giai đoạn hội nhập đa phương
ngày càng sâu, rộng và tiến tới tự do hóa tài khoá vốn, tạo điều kiện thúc đẩy thị
trường tài chính và nền kinh tế phân bổ các nguồn lực có hiệu quả hơn qua đó thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Điều này đang tạo ra nhiều cơ hội cho Việt Nam nói
chung và hệ thống ngân hàng nói riêng nhiều cơ hội mới như có thể tranh thủ được các
nguồn vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý từ các nền kinh tế phát triển …tuy nhiên,
bên cạnh đó ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều thách thức từ quá trình hội nhập,
như phải chịu áp lực cạnh tranh công bằng với những tập đoàn tài chính đầy tiềm lực

hoạt động của các NHTM nói riêng, là cơ sở tiền đề cho ngành ngân hàng phát triển
nhanh và bền vững. Hoạt động của cơ quan thanh tra, giám sát Ngân hàng Nhà nước
cũng có tác động rất lớn đến sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả trong hoạt động của
các NHTM. Đó chính là việc Ngân hàng Nhà nước đề ra các quy định về quy trình,
quy chế và những biện pháp để đảm bảo việc giám sát chặt chẽ hoạt động các NHTM
đặc biệt nâng cao việc giám sát tính an toàn trong hoạt động để ngăn chặn hoặc hạn
chế kịp thời các rủi ro thường trực và tiềm ẩn trong hoạt động của các NHTM trong
nền kinh tế thị trường.
(c) Môi trường cạnh tranh:
Khi nền kinh tế bước vào cơ chế kinh tế thị trường thì ngành ngân hàng đã quen
thuộc với từ môi trường cạnh tranh. Trong điều kiện hội nhập toàn cầu hiện nay, bên
cạnh các ngân hàng thương mại trong nước còn có sự gia nhập ngày càng nhiều các
ngân hàng thương mại có 100% vốn nước ngoài. Đó là yếu tố tạo ra một môi trường
cạnh tranh gây gắt. Các Ngân hàng cạnh tranh nhau về nguồn vốn, về công nghệ, về
nguồn nhân lực,… Cạnh tranh để nâng cao chất lượng phục vụ nhằm mục tiêu nâng
cao hiệu quả trong hoạt động, sự cạnh tranh giữa các NHTM sẽ khuyến khích việc sử
dụng và phân bổ các nguồn lực tài chính có hiệu quả hơn. Kết quả của quá trình cạnh
tranh là Ngân hàng nào hoạt động có hiệu quả sẽ tồn tại và phát triển, Ngân hàng nào
hoạt động kém hiệu quả sẽ thu hẹp phạm vi hoạt động và bị thị trường đào thải. Vì vậy
yếu tố môi trường cạnh tranh có ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng là
một vấn đề mà các ngân hàng cần xem xét và đưa vào nghiên cứu.

20

1.3.2 Nhóm nhân tố bên trong
Nhóm nhân tố bên trong nội bộ của chính các NHTM như các nhân tố về năng
lực tài chính, khả năng quản trị điều hành, ứng dụng tiến bộ công nghệ, trình độ và
chất lượng của lao động…
(a) Năng lực tài chính của một NHTM thường được biểu hiện trước hết qua
khả năng mở rộng nguồn vốn chủ sở hữu, vì vốn chủ sở hữu biểu hiện sức mạnh tài

nay không chỉ góp gọn trong những nghiệp vụ truyền thồng như đi vay và cho vay, mà
nhiều NHTM có những khoản thu từ hoạt động dịch vụ thông qua hệ thống công nghệ
thông tin hiện đại có ngân hàng khoản thu dịch vụ này chiếm đến gần 25% tổng thu
nhập như Ngân hàng Đông Á, Ngân hàng Á Châu, Ngân hàng Sài Gòn Thương
Tín,…., để có thể duy trì hoạt động hiệu quả và nâng cao năng lực cạnh tranh của
mình thì ngân hàng phải có một trình độ công nghệ phù hợp với xu hướng chung.
Năng lực công nghệ của ngân hàng thể hiện khả năng trang bị công nghệ mới gồm
thiết bị và con người, tính liên kết công nghệ giữa các ngân hàng và tính độc đáo về
công nghệ của mỗi ngân hàng.
(d) Nguồn nhân lực: bất kỳ hoạt động của một tổ chức nào dù lớn hay nhỏ
không thể thiếu nhân tố con người. Nhân tố con người có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động của tổ chức, muốn có máy móc thiết bị phải có con người tạo ra, muốn có
quy trình, quy chế cũng cần con người và con người lại chính là nhân tố kiểm định,
chứng minh và sửa đổi, bổ sung quy trình, quy chế, hoạt động ngân hàng không nằm
ngoài quy luật đó. Xã hội càng phát triển thì càng đòi hỏi các ngân hàng phải cung cấp
nhiều dịch vụ mới và có chất lượng. Chính điều này đòi hỏi chất lượng của nguồn
nhân lực cũng phải được nâng cao để đáp ứng kịp thời đối với những thay đổi của thị
trường, xã hội. Việc sử dụng nhân lực có đạo đức nghề nghiệp, giỏi về chuyên môn sẽ
giúp cho ngân hàng tạo lập được lòng tín của khách hàng từ đó ngày càng có nhiều
khách hàng trung thành, ngăn ngừa được những rủi ro có thể xảy ra trong các hoạt
động kinh doanh, đầu tư và đây cũng là các nhân tố giúp các ngân hàng giảm thiểu
được các chi phí hoạt động. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nguồn nhân lực luôn
phải chú trọng việc gắn phát triển nhân lực với công nghệ mới.
(e) Sản phẩm dịch vụ: Khác với các loại sản phẩm các ngành nghề khác, sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng là một loại sản phẩm đặc biệt nó mang tính vô hình
nhưng nó là một nhân tố quan trọng tạo ra hiệu quả hoạt động của chính bản thân từng
NHTM. Nếu một NHTM có hệ thống sản phẩm đa dạng, chất lượng dịch vụ tốt đáp
ứng mọi nhu cầu của khách hàng sẽ tạo lập được một hệ thống khách hàng trung
thành, điều này đồng nghĩa với việc gia tăng hiệu quả hoạt động của chính NHTM đó.
22

CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTMCP KIÊN LONG
2.1. Tổng quan về NHTMCP Kiên Long.
2.1.1. Giới thiệu tổng quan về NHTMCP Kiên Long
NHTMCP Kiên Long được thành lập vào năm 1995 theo giấy chấp
thuận số 0056/NH-GP ngày 18/9/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
có tên gọi Ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn với 25 cổ đông tham gia góp vốn
Kiên Long có mức vốn Điều lệ ban đầu là 1,2 tỷ đồng. Nhân sự những ngày đầu thành
lập có 10 người, trình độ không đồng đều thậm chí không ai tốt nghiệp chuyên ngành
tài chính – ngân hàng, trụ sở làm việc mượn của Ủy ban nhân dân xã. Giai đoạn đầu
hoạt động chủ yếu ở vùng nông thôn và đến năm 2000 vốn điều lệ nâng lên 4,5 tỷ
đồng và mở rộng mạng lưới qua việc thành lập thêm 3 phòng giao dịch trực thuộc.
Đến 31/07/2007 được sự chấp thuận của Ngân hàng nhà nước Việt Nam Ngân hàng
thương mại cổ phần nông thôn Kiên Long chuyển thành NHTMCP Kiên Long (ngân
hàng cổ phần đô thị).
Tính đến tháng 12/2010 NHTMCP Kiên Long có quy mô hoạt động gồm
1 trụ sở chính đặt tại 44 Phạm Hồng Thái – thành phố Rạch Giá - tỉnh Kiên Giang, 18
chi nhánh và trên 60 phòng giao dịch hoạt động rộng khắp trên toàn quốc. Hệ thống
hoạt động gồm Trụ sở chính; sở giao dịch, các chi nhánh, văn phòng đại diện, các đơn
vị sự nghiệp, các công ty con trực thuộc; các phòng giao dịch, điểm giao dịch.
Cơ cấu tổ chức: Đứng đầu là Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng quản trị,
Ban kiểm soát, Tổng giám đốc; Hệ thống kiểm toán và kiểm soát nội bộ. Bộ máy giúp
việc của Tổng giám đốc: Các Phó Tổng Giám đốc, Kế toán trưởng, các phòng ban,
phòng kiểm tra và kiểm toán nội bộ. Tổng số cán bộ nhân viên chính thức là 1.148
người, trong đó trên đại học 12 người, trình độ đại học 741 người, trình độ cao đẳng
103 người, trình độ trung cấp 145 người và trình độ sơ cấp 147 người.


nước và thị trường quốc tế khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép; đựơc uỷ quyền uỷ
thác, nhận uỷ thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến hoạt động ngân hàng,
kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo
hợp đồng uỷ thác và đại lý; cung ứng dịch vụ bảo hiểm, thành lập công ty trực thuộc
hoặc liên doanh để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của pháp luật; cung ứng các
dịch vụ tư vấn tài chính tiền tệ cho khách hàng, bảo quản hiện vật quý và các giấy tờ
có giá, cho thuê tủ két, nhận cầm cố và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật;
được thành lập các công ty trực thuộc để thực hiện các hoạt động kinh doanh có liên
quan đến hoạt động ngân hàng theo quy định của pháp luật; kinh doanh cổ phiếu và
trái phiếu.
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh của NHTMCP Kiên Long: Để có cái
nhìn tổng quan về hoạt động của NHTMCP Kiên Long, ta phải nhìn nhận qua 2 thời
kỳ (trước và sau khi chuyển đổi thành NHTMCP đô thị).
2.2.1. Thực trạng hoạt động NHTMCP Kiên Long giai đoạn 2000-2005:
Nguồn lực tài chính: Giai đoạn xây dựng và trưởng thành về mọi mặt với vốn
điều lệ ban đầu 1.2 tỷ đồng đến 31/12/2005 vốn điều lệ lên 28 tỷ đồng tăng gấp 23 lần
khi mới thành lập. NHTMCP Kiên Long đã xây dựng được trụ sở chính khang trang
tại Thành phố Rạch Giá tỉnh Kiên Giang. Cùng với việc tăng trưởng vốn tự có,
NHTMCP Kiên Long đã chú trọng khai thác nguồn tiền gửi trong dân cư. Nếu như

Trích đoạn Về năng lực tài chính và công nghệ:
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status