CHủ NGHĨA Đế QUốC: GIAI ĐỌAN TỘT CÙNG CỦA CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN - Pdf 19

KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 1 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
CHỦ NGHĨA ĐẾ QUỐC
GIAI ĐỌAN TỘT CÙNG CỦA CỦA
CHỦ NGHĨA TƯ BẢN

(Theo bản in tiếng Việt của Nhà xuất bản Tiến bộ Mát – xcơ – va 1975)

HOÀN CẢNH LỊCH SỬ

Những năm đầu thế kỷ XX khi CNTB độc quyền đã hoàn toàn thay
thế CNTB tự do cạnh tranh , tình hình kinh tế, chính trò của CNTB có nhiều
biến đổi . Sự thống trò và bành trướng của tư bản độc quyền không chỉ
trong hoạt động kinh tế mà bao trùm cả đời sống xã hội - chính trò . Sự
thống trò của độc quyền một mặt làm cho LLSX phát triển nhanh chóng,
với tính chất xã hội hóa ngày càng cao , một mặt khác, của cải và
quyền lực xã hội ngày càng tập trung vào trong tay một nhóm nhỏ tư bản
độc quyền . Tình hình này đẩy CNTB tới cực điểm mâu thuẫn của nó .
QHSX dựa trên sở hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất dường như không
còn chứa đựng nổi LLSX đã xã hội hóa cao . Xã hội tư bản đang tiềm ẩn
trong lòng nó những điều kiện ngày càng chín muồi của một cuộc cách
mạng xã hội .
Nhà cách mạng lỗi lạc người Nga V.I.Lenine đã viết tác phẩm “Chủ
nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB” để phản ánh tình hình trên .
Tác phẩm được ông hoàn thành năm 1916 , xuất bản lần đầu tiên ở Mát
– xcơ – va năm 1917 . Tác phẩm đã phân tích toàn bộ đặc điểm kinh te, quy
đònh sự vận động của CNTB trong thời kỳ CNTB độc quyền , phản ánh

- Syndicate ( Xanh-đi-ca)
- Trust ( Tơ-rớt)
Các-ten , Xanh-đi-ca là những liên minh độc quyền dựa trên sự ký kết hiệp
đònh giữa các thành viên là những xí nghiệp lớn tham gia liên minh độc
quyền “ Những Các-ten thỏa thuận với nhau về các điều kiện bán hàng ,
về kỳ hạn trả tiền , … chúng chia nhau các khu vực tiêu thụ , chúng quyết
đònh số lượng sản phẩm cần chế tạo , chúng quy đònh giá cả , chia lãi cho
các xí nghiệp” (Trang 33) . Còn Tơ-rớt là “ chế độ liên hiệp hóa, nghóa là
sự tập hợp vào trong tay một xí nghiệp duy nhất nhiều ngành công nghiệp
khác nhau , những ngành này hoặc thể hiện những giai đoạn kế tiếp nhau
trong quá trình chế biến nguyên liệu , hoặc có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau”
(Trang 25) . Tập trung sản xuất làm cơ sở kinh tế của sự hình thành độc
quyền và sự thống trò của các tổ chức độc quyền đối với nền kinh tế .
Nhờ sự thống trò này , các tổ chức độc quyền vừa thu lợi nhuận độc
quyền cao , vừa triệt tiêu các xí nghiệp ngoài độc quyền qua việc khống
chế giá cả , tước đoạt nguyên liệu , nhân lực , kỹ thuật … Quá trình hình
thành độc quyền được V.I.Lenine chia làm 3 thời kỳ :
1) Những năm 1860 –1870 : Tự do cạnh tranh phát triển tột điểm . Các
tổ chức độc quyền chỉ là những mầm mống chưa rõ lắm .
2) Sau cuộc khủng hoảng năm 1873 là giai đoạn phát triển rộng rãi
của những Các-ten , những Các-ten đó vẫn là ngoại lệ . Chúng vẫn còn
chưa được vững chắc . Chúng vẫn còn là một hiện tượng nhất thời .
3) Thời kỳ phồn vinh cuối thế kỷ XIX và cuộc khủng hoảng của
những năm 1900 – 1903 Các-ten trở thành một trong những cơ sở của toàn
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 3 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB

Quá trình hình thành độc quyền Ngân hàng được thực hiện thông qua
“chế độ tham dự” diễn ra ở khắp các nước Tư bản những năm cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Bằng chế độ tham dự độc quyền trong ngân hàng
hình thành với tên gọi Công-xoóc-xi-om (Consortium) “Các xí nghiệp lớn
nhất là các ngân hàng , không những chỉ trực tiếp nuốt những xí nghiệp
nhỏ , chúng còn làm cho những xí nghiệp nhỏ này “gắn liền” vào chúng ,
phục tùng chúng , sáp nhập vào tập đoàn chúng , nếu dùng thuật ngữ
chuyên môn thì tức la vào các “Công-xoóc-xi-om” của chúng , bằng cách
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 4 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
“tham dự” vào tư bản của những ngân hàng nhỏ ấy bằng lối mua hay trao
đổi cổ phần , bằng hệ thống quan hệ vay mượn , … Trong đặc điểm này Le-
nine phản ánh một tổ chức độc quyền mới . Công-xoóc-xi-om được ông
mô tả là sự liên kết của các xí nghiệp lớn có liên quan về kinh tế , kỹ
thuật , thậm chí bao gồm cả các Xanh-đi-ca và Tơ-rớt hình thành nên
những tập đoàn độc quyền lớn trong cả lónh vực công nghiệp và ngân
hàng . Chẳng hạn như : “tập đoàn” ngân hàng Đức là một trong những tập
đoàn lớn nhất , nếu không phải là tập đoàn lớn hơn cả trong hết thảy
các tập đoàn ngân hàng lớn … tổng cộng tham gia vào tập đoàn ngân
hàng Đức , trực tiếp hay gián tiếp , toàn bộ hay từng phần , có 87 ngân
hàng (Trang 51 và 53) ; còn ở Mỹ có 2 ngân hàng lớn nhất chi phối là
ngân hàng của tập đoàn Rốc -cơ- phen-lơ và Moóc-gan.
Với sự hình thành và phát triển của độc quyền ngân hàng , giờ đây
mọi giao dòch của các ngành công nghiệp đã quy về một mối , trong sự
kiểm soát , khống chế của ngân hàng độc quyền , tạo ra sự phụ thuộc qua
lại ngày càng lớn giữa ngân hàng với công nghiệp , hình thành quan hệ


III - Tư bản tài chính và bọn đầu sỏ tài chính

Phần này tác giả mô tả quyền lực của tư bản độc quyền, thông qua
sự lộng hành, sự thống trò của tư bản tài chính mà đứng đầu là bọn đầu
sỏ tài chính, đối với xã hội.
Cơ chế quyền lực của tư bản tài chính là chế độ tham dự vào công ty
mẹ thông qua số cổ phiếu khống chế , khi đã kiểm soát công ty mẹ, cơ chế
này cho phép tư bản tài chính chi phối công ty con và công ty cháu; với
lượng tư bản một triệu, tư bản tài chính có thể chi phối hàng chục triệu
của xã hội. Từ quyền lực kinh tế tư bản tài chính tiến hành các hoạt động
tước đoạt của cải xã hội, khống chỉ bằng quyền lực hợp pháp mà cả
bằng những hoạt động gian lận, phi pháp, không chỉ trong thời kì phồn vinh
mà ngay trong suy thoái, khủng hoảng. Trước hết phải nói đến gian lận
trong hoạt động kế toán ở các tập đoàn độc quyền, các bảng cân đối tài
sản thường là: “giống những bản thoát tích thời trung cổ, trong đó trước
hết người ta phải cạo lớp chữ rõ đi đã, rồi mới có thể tìm thấy những
chữ nói lên nội dung thật sự của tài liệu” ( Trang 84 Lê-nin giải thích
thoái tích là bảng giấy da trên đó người ta đã xoá lớp chữ gốc, để viết
đè lên một lớp chữ mới). Sau đó là tước đoạt tài sản xã hội nhanh
chóng, bằng việc mua rẻ các xí nghiệp trong thời kì suy thoái, khủng hoảng,
những xí nghiệp vượt qua thời kì tiêu điều để bắt đầu phục hồi, cải tổ lại
rơi vào chế độ tham dự cho sự cải tổ và phục hồi đó, hay sáng lập công ty
mới, tư bản tiếp tục được thâu tóm ngày càng lớn vào tay các tập đoàn
độc quyền. Đứng đầu các tập đoàn độc quyền ấy là các trùm tài phiệt.
Hơn thế nữa là việc giới tư bản tài chính, mua chuộc lũng đoạn nhà
nước, trong việc nắm độc quyền khai thác cơ sở hạ tầng , điều phối quy
hoạch, đầu cơ nâng giá đất đai, thu những khoản lợi khổng lồ. Tuy nhiên
hoạt động mang lại lợi nhuận lớn hơn hết là độc quyền phát hành chứng
khoán công nghiệp, làm trung gian phát hành công trái cho nước ngoài vay,

nghóa do thương mại quốc te, giao thông vận tải phát triển.
Xuất khẩu tư bản được thực hiện dưới hai hình thức chủ yếu, với
những nước có nhiều thuộc đòa “ là hình thức xuất khẩu tư bản trực tiếp
thu lợi nhuận từ thò trường, nguyên vật liệu, công nhân rẻ mạt…Còn với
các nước khác là thu lợi từ xuất khẩu tư bản cho vay dưới mọi hình thức
và luôn đi kèm với những hợp đồng cho vay và những điều kiện nào đó”
“Một khoản nhượng bộ trong hiệp ước thương mại, một trạm cung cấp than
đá , việc xây dựng hải cảng , một tô nhượng béo bở hay một món đặt
mua đại bác ( Trang 109) ,và hơn thế nữa là những điều kiện chính trò. Xuất
khẩu tư bản làm cho “TBCN phát triển rộng và sâu thêm trên toàn thế
giới ( Trang 108), nó kích thích xuất khẩu hàng hoá mở rộng phân công lao
động phát triển thò trường…mang lại quyền lực kiểm soát thế giới, cho các
tập đoàn tư bản độc quyền , như vậy “ có thể nói rằng tư bản tài chính
bủa lưới của mình lên đầu tất cả các nước trên thế giới” ( Trang 111) hay
“ nói theo nghóa bóng thì các nước xuất khẩu tư bản đã chia nhau thế giới” (
Trang 112) Đầu thế kỷ XX việc phân chia thế giới giữa các tập đoàn tư
bản độc quyền đã hoàn thành, thế giới chia thành một bên là những
nứơc chủ đầu tư, chủ nợ, những nước thực lợi còn một bên là những
nước con nợ, do đó xuất khẩu tư bản là phương thức phát triển của độc
quyền. Tư bản độc quyền bóc lột toàn thế giới.
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 7 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB

V-Việc phân chia thế giới giữa các liên minh của bọn
tư bản


tranh và đối đầu , không còn thuần túy là tư bản độc quyền mà đã trở
thành cạnh tranh giữa các cường quốc tư bản độc quyền. Những cuộc đấu
tranh như thế thường kết thúc bằng hiệp đònh phân chia, phản ánh tương quan
lực lượng của các tổ chức độc quyền và khi tương quan đó thay đổi, hiệp
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 8 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
đònh liên minh độc quyền quốc tế bò phá vỡ, lại tiếp tục cuộc đấu tranh
phân chia mới. Trong cuộc đấu tranh này một trong những nước tư bản độc
quyền hàng đầu bấy giờ là Đức đã tham dự gần 100 Cac –ten quốc tế “
Thời đại CNTB hiện đại chỉ cho ta rằng, giữa các liên minh của bọn tư bản,
những quan hệ nhất đònh đã được xác lập trên cơ sở phân chia thế giới
về kinh tế ( Trang 127 – 128 )

VI -Việc phân chia thế giới giữa các cường quốc lớn

Sự phân chia thế giới về kinh tế được củng cố và tăng cường bằng
sự phân chia thế giới về lãnh thổ. “ Chỉ có việc chiếm được thuộc đòa
mới hoàn toàn đảm bảo cho các tổ chức độc quyền đối phó có hiệu
quả với mọi trường hợp bất trắc , trong cuộc đấu tranh với đối thủ của
mình” ( Trang 140)
Các cường đế quốc ra sức xâm chiếm thuộc đòa, bởi thuộc đòa là nơi
đảm bảo nguồn nguyên liệu và thò trường thường xuyên , là nơi an toàn
trong cạnh tranh và đảm bảo thực hiện tốt những mục đích về kinh tế , chính
trò và quân sự , chính vì vậy “CNTB phát triển càng cao, nguyên liệu càng
thiếu thốn, sự cạnh tranh càng gay gắt và việc tìn kiếm các nguồn nguyên
liệu trên toàn thế giới càng ráo riết thì cuộc đấu tranh để chiếm thuộc đòa

Thuộc đòa
triệu km
2
triêu
người
Chính quốc
triệu km
2
triệu
người
Tổng cộng
triệu kmv
2
triệu
người
ANH
NGA
PHÁ
P
ĐỨC

MỸ
NHA
ÄT
33,5 393,5
17,4 33,2

10,6 55,5
2,9 12,3
0,3 9,7

VII -Chủ nghóa đế quốc giai đoạn đặc biệt của CNTB

Phần này Lê- nin khái quát những quan điểm của ông về CNTB độc
quyền .Như trên đã xác đònh CNTB độc quyền và đặc điểm kinh tế cơ bản
của nó là độc quyền thay thế cho cạnh tranh tự do, các tổ chức độc quyền
mà trên hết là các tư bản tài chính, thống trò xã hội từ kinh tế đến chính
trò, rồi mở rộng sự thống trò ra toàn thế giới qua xuất khẩu tư bản , cạnh
tranh giữa các cường quốc tư bản độc quyền trong xuất khẩu tư bản ra
nứơc ngoài dẫn tới sự phân chia thế giới về kinh tế và lãnh thổ. Do sự
phát triển không đều, tương quan lực lượng biến đổi, các cường quốc tư
bản độc quyền đấu tranh quyết liệt với nhau , phân chia lại thế giới đã chia
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 10 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
xong, vì vậy chiến tranh thế giới là kết quả tất yếu trong sự phát triển của
CNTB độc quyền.
Gắn với xâm lược thế giới về kinh tế và lãnh thổ CNTB là chủ
nghóa thực dân đế quốc; chủ nghóa đế quốc là giai đoạn phát triển cao của
CNTB , mà trong đó “ những đặc tính cơ bản của CNTB đã bắt đầu biến
thành điều trái ngược với những đặc tính đó” ( Trang 150) Theo Lê- nin;
cạnh tranh tự do là đặc tính cơ bản của CNTB, của nền sản xuất hàng hóa
nói chung, độc quyền là cái trực tiếp trái ngược với cạnh tranh tự do .
Cạnh tranh tự do chuyển hóa thành độc quyền cũng đồng thời là tao ra
nền sản xuất lớn, loại bỏ sản xuất nhỏ, thay thế sản xuất lớn bằng sản
xuất lớn hơn, đưa đến tập trung sản xuất và tập trung tư bản, hình thành các
tổ chức độc quyền. Sự dung hợp giữa độc quyền công nghiệp và độc
quyền ngân hàng hình thành tư bản tài chính. Bằng chế độ tham dự tư bản

Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
tùng chủ nợ về mọi phương diện. Sự phát triển không đều, trong quá trình
tranh giành, xâm chiếm thuộc đòa bóc lột thế giới, đã đẩy mâu thuẫn
giữa các cường quốc tư bản độc quyền tới cực điểm mà ngoài chiến tranh
ra, còn phương sách nào khác để khắc phục tình trạng không cân đối giữ
một bên là sự phát triển của lực lượng sản xuất và tích lũy tư bản và
một bên là sự phân chia thuộc đòa và các khu vực ảnh hưởng cho tư bản
tài chính được chăng ? Lê-nin khẳng đònh như vậy và chiến tranh là điều tất
yếu gắn với chủ nghóa đế quốc như thực tế đã diễn ra

VIII -Tính ăn bám và thối nát của CNTB

Cơ sở kinh tế của chủ nghóa đế quốc là độc quyền kinh tế , từ mục
đích kinh tế của nó sinh ra xu hướng kìm hãm tiếøn bộ kỹ thua . Tổ chức
độc quyền không cầøn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vẫn thu được lợi nhuận
độc quyền cao, vì thế người ta “mua các bằng phát minh nhét vào ngăn
kéo”. Tuy vậy trong thời kì này vẫn tồn tại một xu hướng ngược lại là khả
năng giảm bớt chi phí sản xuất, tăng lợi nhuận do việc áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, những xu hướng kìm hãm vẫn tác động trong từng lúc, từng
ngành trong một số nứơc nào đó và có thể chiếm ưu thế trong những thời
gian nhất đònh.
Chủ nghóa đế quốc gắn với tư bản tài chính, sự phát triển của tầng
lớp tư bản này tạo ra những người hoàn toàn tách khỏi sản xuất xã hội “
nghóa là những kẻ hoàn toàn không tham gia một doanh nghiệp nào cả,
những kẻ chuyên nghề ăn không ngồi rồi” Bằng chế độ tham dự, chi phối
sản xuất, xã hội qua độc quyền tài chính, giới tư bản tài chính bây giờ
chỉ đơn thuần tham dự vốn thu lợi nhuận, toàn bộ việc điều hành sản xuất
kinh doanh chuyển sang một tầng lớp làm thuê mới, những nhà quản trò
doanh nghiệp. Tư bản tài chính trở thành những kẻ hoàn toàn ăn bám xã
hội.

trào công nhân. Tầng lớp công nhân được ưu đãi dần dần trở thành
những kẻ cơ hội sẵn sàng chống lại giai cấp, đứng ra bảo vệ quyền lợi cho
giai cấp tư bản độc quyền. Vì vậy phân hóa, mua chuộc giai cấp của tư bản
độc quyền tạo ra chủ nghóa cơ hội đủ mọi màu sắc, chống laiï phong trào
công nhân quốc tế, là một đặc trưng của ăn bám và thối nát.

IX- Phê phán chủ nghóa đế quốc

Thông qua phân tích những luận điểm tư sản, luận điểm cơ hội chủ
nghóa, trong nhận đònh về chủ nghóa đế quốc, Lê - nin đã làm rõ quan điểm
của chủ nghóa Mác trong phê phán chủ nghóa đế quốc, ông khẳng đònh:
Cạnh tranh tự do TBCN dẫn đến độc quyền tới sự thống trò của tư bản
tài chính và xuất khẩu tư bản, từ đây phân chia thế giới về kinh tế và
lãnh thổ là điều tất yếu. Chiến tranh xâm lược thuộc đòa, chiến tranh thế
giới là điều không thể tránh khỏi trong sự phát triển của CNTB ở giai
đoạn độc quyền, chủ nghóa tư bản độc quyền vì thế là chủ nghóa đế quốc.
Chủ nghóa đế quốc có vai trò to lớn trong thúc đẩy, tập trung sản
xuất, tập trung tư bản, không chỉ quy mô quốc gia mà cả quy mô quốc tế ,
nó làm cho sản xuất ngày càng xã hội hóa, tuy nhiên một mặt khác, nó
làm cho mâu thuẫn vốn có và khủng hoảng của CNTB ngày càng trở
nên gay gắt. Bởi mức độ tập trung sản xuất ngày càng lớn, không còn
chứa đựng nổi trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghóa, với sở hữu tư
KHOA KINH TẾ CHÍNH TRỊ
TS. Nguyễn Thanh Vân

- 13 -
GIỚI THIỆU TÁC PHẨM
Chủ nghóa đế quốc giai đoạn tột cùng của CNTB
nhân tư bản chủ nghóa ngày càng thu hẹp, vào một nhóm nhỏ tư bản tài
chính, Chủ nghóa đế quốc dẫn tới mâu thuẫn ngày càng gay gắt, không

thế giới. Ông viết : phải coi chủ nghóa đế quốc là chủ nghóa tư bản quá
độ, hay nói đúng hơn chủ nghóa tư bản đang hấp hối. ( Trang 219 )


Nhờ tải bản gốc
Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status