Vấn đề xây dựng đạo đức kinh doanh ở việt nam hiện nay (qua thực tế ở hà nội - Pdf 19

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đạo đức thương trường đã xuất hiện và được quan tâm nghiên cứu, xây
dựng từ khi xuất hiện mầm mống thị trường trong xã hội loài người. Aristole -
triết gia Hi Lạp thời cổ đại đã đưa ra một số điều có thể coi là cơ sở của đạo đức
kinh doanh thời hiện đại. Ông đã nêu ra ý tưởng rằng, nhiệm vụ chính của người
thủ lĩnh không phải là gia tăng quyền lực của mình mà là tạo ra những điều kiện
để tất cả mọi người dưới quyền mình có thể phát huy được năng lực ở mức độ
cao nhất.
Ngày nay, vấn đề đạo đức kinh doanh cũng đang được các học giả, những
nhà kinh doanh, nhà quản lý, người tiêu dùng và toàn xã hội quan tâm. Người
Mỹ đã sớm nhận thức được vai trò đặc biệt quan trọng của đạo đức đối với công
việc kinh doanh. Họ đã bỏ ra khá nhiều công sức và tiền bạc để nghiên cứu vấn
đề này. Chỉ tính riêng trong năm 2000, theo Trung tâm vì một nền văn hoá kinh
doanh có đạo đức, đã có tới 52 công trình nghiên cứu được xuất bản tại Mỹ viết
về ảnh hưởng của đạo đức kinh doanh tới thu nhập tài chính của các công ty.
Trong đó, đa số các công trình nghiên cứu (33 công trình) cho rằng, công ty có
đạo đức sẽ dễ làm ăn phát đạt hơn.
Ở Việt Nam, đạo đức kinh doanh là một vấn đề khá mới không những đối
với các nhà kinh doanh mà với cả những người nghiên cứu về lĩnh vực này. Các
vấn đề như: đạo đức kinh doanh, văn hoá kinh doanh, văn hoá doanh nghiệp, văn
hoá công ty… mới chỉ nổi lên từ khi Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Trước đó, những vấn đề này ít được nhắc tới.
Đặc biệt, kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO có nhiều phạm trù mới được xuất
hiện như: quyền sở hữu trí tuệ, an toàn thực phẩm, thị trường chứng khoán, thị
trường thương mại… và vì thế khái niệm đạo đức kinh doanh trở nên phổ biến
hơn trong xã hội.
1
Hiện nay, nền kinh tế đang chuyển sang vận hành theo thể chế thị trường
có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, môi trường kinh
doanh trở nên đa dạng và sôi động hơn. Hoạt động kinh doanh là những hành vi,

kinh doanh và yếu tố văn hoá có ảnh hưởng đến kinh doanh như thế nào, trách
nhiệm xã hội trong kinh doanh là cần thiết đối với các doanh nghiệp… Ngoài ra,
các tác giả còn tập trung làm rõ những khái niệm có liên quan như: đạo đức, đạo
đức kinh doanh… trên cơ sở đó đưa ra các quan điểm đánh giá, phán xét đạo đức
kinh doanh; hay cuốn “Giáo trình đạo đức kinh doanh và văn hoá công ty”,
Nguyễn Mạnh Quân (chủ biên). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội,
2007. Tác giả đã tập trung làm rõ các khái niệm liên quan đến đạo đức kinh
doanh, văn hoá công ty, trách nhiệm xã hội, thương hiệu và sự xuất hiện các vấn
đề đạo đức trong kinh doanh. Đặc biệt, tác giả đã giới thiệu cách tiếp cận với quá
trình ra quyết định về hành vi đạo đức và các công cụ phân tích hành vi đạo đức
trong kinh doanh. Mục đích là nhằm cung cấp phương pháp và công cụ phân tích
hành vi đạo đức trong kinh doanh, trên cơ sở phương pháp và công cụ đã phân
tích trên, tác giả giới thiệu một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình thông
qua các tình huống cụ thể về những vấn đề thực tiễn.
Vẫn theo hướng nghiên cứu trên, các khái niệm này còn được trình bày
trong một số công trình nghiên cứu khác. Tiêu biểu như: “Đạo đức kinh doanh
và văn hoá công ty: phương pháp môn học và phân tích tình huống” của Nguyễn
Mạnh Quân. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007; Bùi Xuân
Phong trong cuốn “Đạo đức kinh doanh và văn hoá doanh nghiệp”. Nhà xuất bản
Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, xuất bản năm 2009.
Theo hướng nghiên cứu ứng dụng các tác giả tập trung nghiên cứu những
vấn đề do thực tiễn đặt ra. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này phải kể đến:
- Cuốn “Những tác động tiêu cực của kinh tế thị trường ở Việt Nam” của
Hà Huy Thành (chủ biên). Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, xuất bản năm
2000. Tập thể tác giả đã phân tích sự tác động tiêu cực của kinh tế thị trường đối
với các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội như: Kinh tế, sự phân tầng xã
3
hội, y tế, giáo dục - đào tạo, đạo đức, môi trường… qua đó đề ra các giải pháp
khắc phục những tiêu cực trên.
- Cuốn “Những vấn đề đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường”. Từ góc

của tập thể các nhà nghiên cứu và giảng viên thuộc học viện Chính trị Quốc gia
Hồ Chí Minh do Nguyễn Chí Mỳ chủ biên, lại bàn về vấn đề đạo đức mới trong
cơ chế thị trường; sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong cơ chế đó; xây
dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, tập thể tác giả đề ra các phương hướng và giải
pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới.
- Nguyễn Thị Lan lại xem xét vấn đề dưới góc độ “Nhìn nhận của người
dân về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân”. Tạp chí Tâm lý
học - Số 5. Năm 2006. Tác giả đã xây dựng thang đo đánh giá của người dân Hà
Nội về đạo đức kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân trong giai đoạn
phát triển kinh tế hiện nay ở nước ta. Theo tác giả, các chủ doanh nghiệp tư nhân
tuy có nhiều đóng góp trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội hiện nay nhưng
không vì thế mà người dân xoá nhoà, san bằng tất cả cái tốt và cái xấu trong hoạt
động kinh doanh của các chủ doanh nghiệp tư nhân. Trái lại, càng kỳ vọng bao
nhiêu ở sự đóng góp của các chủ doanh nghiệp tư nhân đối với cộng đồng, với
xã hội người dân càng có xu hướng nhìn nhận khắt khe hơn, yêu cầu cao hơn đối
với họ. Vì vậy, khi tìm kiếm những giải pháp giáo dục và xây dựng chế tài nhằm
nâng cao đạo đức kinh doanh trong giai đoạn hiện nay cần phải chú ý điều này.
Với hướng nghiên cứu này còn có nhiều công trình khác liên quan đến đề
tài. Song trong phạm vi hạn hẹp của luận văn chúng tôi không có điều kiện liệt
kê ra tất cả.
Ngoài ra, còn có một hướng nghiên cứu khác, kết hợp cả hai hướng
nghiên cứu trên. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đạo đức kinh doanh,
các tác giả đã đưa ra các đề xuất, biện pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh.
5
Theo hướng nghiên cứu này có các công trình tiêu biểu như: “Bài giảng
Văn hoá kinh doanh”, Dương Thị Liễu (chủ biên). Nhà xuất bản Đại học Kinh tế
Quốc dân, Hà Nội, 2008; cuốn “Văn hoá doanh nghiệp” của Đỗ Thị Phi Hoài.
Nhà xuất bản Tài chính, Hà Nội, 2009; Vương Liêm trong cuốn “Kinh tế học
Internet: từ thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử”. Nhà xuất bản Trẻ, Thành

hoá, phân tích thực trạng đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay, đặc biệt làm rõ
vai trò của đạo đức trong kinh doanh, từ đó đưa ra những phương hướng và giải
pháp nhằm xây dựng đạo đức kinh doanh trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là một hướng mới mà người viết tiếp
tục nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn góp phần làm rõ mối quan hệ giữa đạo đức và kinh doanh, đặc
biệt là vai trò của đạo đức trong kinh doanh. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra một
số nội dung của đạo đức kinh doanh cần xây dựng và đề xuất các phương hướng
và giải pháp xây dựng đạo đức kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
Để đạt được mục đích trên luận văn có các nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề xây dựng đạo đức
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
Hai là, phân tích một số vấn đề đạo đức kinh doanh điển hình - qua thực
tế ở Hà Nội (sau khi sát nhập).
Ba là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao
đạo đức kinh doanh ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã trình bày ở trên, luận văn xác
định đối tượng nghiên cứu là những vấn đề về đạo đức kinh doanh trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Luận văn tập trung làm rõ một số vấn đề của đạo đức kinh doanh trên địa
bàn Hà Nội (sau khi sát nhập). Trên cơ sở đó, xác định những nội dung cơ bản
để xây dựng đạo đức kinh doanh (mà chủ yếu là xây dựng đạo đức cho giới
7
doanh nhân) và đề xuất một số phương hướng và giải pháp xây dựng đạo đức
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện của Đảng ta, quan điểm, đường lối

Việt Nam.
9
Chương 1
ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO ĐỨC KINH DOANH
1.1. Mối quan hệ giữa đạo đức và kinh tế
Đạo đức có mối quan hệ với kinh tế, kinh doanh là điều không ai nghi
ngờ. Đó là mối quan hệ biện chứng gắn bó mật thiết, hữu cơ với nhau. Xem xét
mối quan hệ đó trước hết cần khẳng định lại một nguyên lý cơ bản của quan
điểm duy vật về lịch sử là tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội
có tính độc lập tương đối và có sự tác động trở lại đối với tồn tại xã hội đã sinh
ra nó.
Ý thức đạo đức thuộc lĩnh vực ý thức xã hội, còn kinh tế, kinh doanh
thuộc lĩnh vực kinh tế - lĩnh vực tồn tại xã hội. Với tính cách là sự phản ánh đặc
thù cơ sở kinh tế, các quan niệm, quan điểm, chuẩn mực và cả ý thức đạo đức
chính là sự biểu hiện một trạng thái, một trình độ phát triển nhất định những điều
kiện vật chất xã hội, cơ sở kinh tế - xã hội. Điều kiện vật chất xã hội như thế nào
thì ý thức đạo đức của con người cũng như thế ấy.
Như vậy, ý thức đạo đức là sản phẩm của các quan hệ kinh tế, nó hình
thành và phát triển từ nhu cầu đời sống xã hội. Xã hội càng phát triển, kinh tế
càng phát triển, con người càng có điều kiện hoàn thiện mình. Sự giải phóng con
người về mặt kinh tế là cơ sở để giải phóng con người trong đời sống tinh thần,
trong đó có ý thức đạo đức. Tuy nhiên, sự tác động của kinh tế đến đạo đức
không phải bao giờ cũng theo một chiều thuận mà còn theo cả chiều nghịch.
Thực tế cho thấy, có khi kinh tế phát triển rất cao nhưng đạo đức lại có sự thụt
lùi hoặc chỉ có sự tiến bộ cục bộ hoặc sự suy thoái cục bộ. Điều kiện kinh tế là
rất quan trọng, xét đến cùng, nó có ý nghĩa quyết định, nhưng chế độ chính trị và
các nhân tố chủ quan khác cũng có vai trò hết sức to lớn.
Ở nước ta hiện nay, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi từ cơ chế
kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng

11
các lĩnh vực xã hội có tiến bộ; bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng
hơn; đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện; chính trị - xã hội ổn định;
quốc phòng, an ninh được tăng cường; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ được giữ vững; hoạt động đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng, vị
thế, uy tín quốc tế của nước ta được nâng cao” [22, tr.17].
So với các nền kinh tế trước, kinh tế thị trường có ưu thế hơn hẳn về tăng
trưởng kinh tế, thúc đẩy tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo ra những điều kiện vật
chất, những tiện nghi cho đời sống và sự phát triển con người. Tuy nhiên, kinh tế
thị trường tự nó không giải quyết được mọi vấn đề của sự phát triển. Bên cạnh
những ưu thế vượt trội nêu trên, kinh tế thị trường cũng làm nảy sinh nhiều vấn
đề nan giải, nhiều nghịch lý liên quan đến tiến bộ xã hội và sự phát triển con
người, trong đó có sự phát triển đạo đức.
Xung quanh vấn đề mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức có rất nhiều quan
điểm khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Có quan điểm cho rằng kinh tế thị
trường và đạo đức là bài xích lẫn nhau, kinh tế thị trường càng phát triển thì đạo
đức càng suy thoái. Do đó, chấp nhận kinh tế thị trường là chấp nhận sự suy
thoái về đạo đức. Song, cũng có quan điểm lên tiếng bênh vực kinh tế thị trường
về mặt đạo đức. Cho đến nay, sự đánh giá kinh tế thị trường về mặt đạo đức vẫn
chưa có được tiếng nói chung thống nhất. Tuy nhiên, các nhà khoa học đều có
chung quan điểm là làm sao cho kinh tế thị trường phát huy được những mặt tích
cực và hạn chế tối đa những tác động tiêu cực, những mặt trái của kinh tế thị
trường đối với đạo đức.
Trong mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức hiện nổi lên hai vấn
đề vừa có tính cấp bách vừa có tính lâu dài. Đó là vấn đề tác động của kinh tế thị
trường đối với đạo đức và vấn đề vai trò của đạo đức trong kinh tế thị trường.
1.1.1. Tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức
Bàn về tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức, trên thế giới đã có
nhiều lý thuyết khác nhau như, “Thuyết trượt dốc”, “Thuyết leo dốc”, “Thuyết
thúc đẩy”,… Những người theo “Thuyết trượt dốc” đã tuyệt đối hoá ảnh hưởng

Những người theo quan điểm này đã nhấn mạnh ảnh hưởng hai mặt của
kinh tế thị trường đối với đạo đức xã hội. Với cách hiểu như trên họ đi đến kết
luận: kinh tế thị trường vừa thích hợp với con người vừa trói buộc con người.
Trong hai mặt này con người không thể chỉ chọn một.
Ở phương Tây, khi bàn về mối quan hệ giữa kinh tế thị trường và đạo đức
cũng có nhiều cách lý giải khác nhau. Các học giả phương Tây cũng đưa ra một
số lý thuyết tiêu biểu như, “cú hích lớn” của Roseintein Rodan, “tăng trưởng cân
bằng” của Nurke; “các giai đoạn tăng trưởng” của Rostow. Các lý thuyết trên
đều gặp nhau ở một điểm là họ đã tuyệt đối hoá nhân tố kỹ thuật, kinh tế của sự
tăng trưởng kinh tế mà xem nhẹ nhân tố xã hội, nhân tố con người. Những người
theo quan điểm trên cho rằng, tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai
mục tiêu luôn bài xích, loại trừ nhau không dung hoà, nếu muốn tăng trưởng
kinh tế phải hy sinh công bằng xã hội và hy sinh đạo đức.
Bên cạnh đó còn có lý thuyết khác cho rằng, ở giai đoạn đầu của tăng
trưởng kinh tế thì sự không công bằng gia tăng đến khi tăng trưởng kinh tế đạt
tới mức cao thì nó lại làm cho mất công bằng giảm đi.
Tóm lại, khi xem xét vấn đề tác động của kinh tế thị trường đối với đạo
đức, các nhà nghiên cứu trên thế giới không phải bao giờ cũng có quan điểm
thống nhất với nhau, thậm chí đối lập nhau. Song, một quan điểm được nhiều
người thừa nhận nhất đó là sự tác động có tính hai mặt của kinh tế thị trường đối
với đạo đức; kinh tế thị trường vừa cản trở sự phát triển đạo đức của con người
vừa cung cấp một cách tích cực những khả năng mới cho sự phát triển đạo đức
của con người và xã hội.
Ở nước ta hiện nay, sự tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức
diễn ra hết sức phong phú, đa dạng và phức tạp. Điều đó khiến cho việc đánh giá
tác động của kinh tế thị trường đối với đạo đức khó có được sự thống nhất tuyệt
đối. Chính vì vậy, khi bàn về vấn đề này cũng có rất nhiều ý kiến khác nhau.
Song tựu chung lại cho đến nay nổi lên ba quan điểm chủ yếu. Đó là:
1.1.1.1. Kinh tế thị trường tác động tiêu cực đối với đạo đức
14

tính hợp lý về mặt lịch sử nhưng đổi lại, xã hội phải trả giá bằng những xuống
cấp nhất định về mặt đạo đức, chí ít là trong lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Tóm lại, theo quan điểm của phái này, chấp nhận chuyển sang kinh tế thị
trường là chấp nhận sự suy thoái, sự xuống cấp về đạo đức.
1.1.1.2. Kinh tế thị trường tác động tích cực đối với đạo đức
Những người theo quan điểm này cho rằng, kinh tế thị trường hoàn toàn
không đối lập mà thống nhất với đạo đức. Do chỗ xuất phát từ tính hợp lý về mặt
lịch sử của kinh tế thị trường, họ đã đi đến chỗ đề cao tác động tích cực của kinh
tế thị trường đối với đạo đức.
Theo họ, một cơ chế kinh tế chỉ có thể xuất hiện và tồn tại nếu nó hợp lý,
tức là nó có vai trò đối với sự phát triển kinh tế. Trong đời sống hiện nay, kinh tế
thị trường là mô hình kinh tế có ưu thế nhất, mang lại hiệu quả cao nhất cho sự
phát triển kinh tế - xã hội, nó có thể cho phép huy động tối đa mọi nguồn lực tự
nhiên và xã hội để thúc đẩy sản xuất, không ngừng nâng cao sản xuất và thu
nhập xã hội. Vì vậy, nó chính đáng về mặt đạo đức. Từ đó họ đi đến kết luận:
kinh tế thị trường không chỉ hợp lý về mặt lịch sử mà nó còn chính đáng về mặt
đạo đức. Do đó, nó có tác động tích cực thúc đẩy xã hội phát triển.
Với cách lập luận trên những người theo quan điểm này khẳng định kinh
tế thị trường tự nó đã chứa đựng khả năng tác động một cách tích cực đối với
đạo đức. Họ cho rằng những biểu hiện xuống cấp về mặt đạo đức hiện nay như,
những hành vi phi đạo đức trong sản xuất, kinh doanh, làm hàng giả, hàng kém
chất lượng, hàng nhái, lừa đảo, gian lận thương mại, trốn thuế,… nhằm trục lợi
của những xã hội mới bước vào kinh tế thị trường chẳng qua chỉ là hậu quả của
bước chuyển từ kinh tế tiền thị trường sang kinh tế thị trường, chỉ là hậu quả của
một cơ chế đang hình thành còn có những khiếm khuyết nhất định. Đến giai
đoạn phát triển, khi cơ chế thị trường từng bước được kiện toàn, hoàn thiện, nền
kinh tế thị trường phát triển thì những khiếm khuyết về đạo đức sẽ được khắc
phục hoàn toàn.
16
Như vậy, kinh tế thị trường có tác động tích cực đến sự phát triển của đạo

thể. Những xã hội mới bước vào kinh tế thị trường là những xã hội đang trong
thời kỳ chuyển đổi, đang quá độ từ nền kinh tế tiền thị trường sang nền kinh tế
thị trường. Cơ chế cũ đã được xoá bỏ nhưng cơ chế mới đang dần từng bước
được thiết lập, đang định hình và do đó trong quá trình xây dựng nó không tránh
khỏi những khiếm khuyết về mặt cơ chế. Tương ứng với những khiếm khuyết về
mặt cơ chế là những khiếm khuyết của chính sách và pháp luật. Chính vì vậy, sự
gia tăng những biểu hiện suy thoái về đạo đức là điều dễ hiểu.
Đối với nước ta, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa là điều hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ. Việc xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải xác lập được một hệ thống
đầy đủ và đồng bộ các loại thị trường và tương ứng với nó là chính sách, pháp
luật vừa tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư và hoạt động kinh tế vừa đảm bảo một
trật tự lành mạnh có văn hoá cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Song cho đến
nay, sau 25 năm đổi mới thực hiện kinh tế thị trường, chúng ta vẫn chưa có được
một hệ thống thị trường đầy đủ và đồng bộ, chính sách pháp luật vẫn còn nhiều
bất cập. Đó là những điều kiện thuận lợi cho việc gia tăng những biểu hiện tiêu
cực, suy thoái về đạo đức.
Như vậy, về mặt lý luận, không thể quy tất cả sự suy thoái về đạo đức của
xã hội cho kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường có thể là một trong những
nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái về đạo đức nhưng không phải là tất cả, cần
phải tìm nguyên nhân cả ở sự chuyển đổi cơ chế, cả ở sự bất cập, sự chưa hoàn
thiện của cơ chế kinh tế mới, hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện và thiếu đồng
bộ, sự giáo dục đạo đức chưa toàn diện, nhận thức của người dân còn nhiều hạn
chế, ý thức chấp hành pháp luật và sự tự giác thực hiện các chuẩn mực xã hội
của cá nhân chưa cao…
Trong cơ chế thị trường các chủ thể kinh tế bao giờ cũng xuất phát từ nhu
cầu về lợi ích của bản thân mà tiến hành kinh doanh. Tuy nhiên, trong cơ chế thị
trường các chủ thể kinh tế bao giờ cũng chịu sự chi phối của các nguyên tắc, các
18
chuẩn mực thị trường như: sự trung thực trong kinh doanh, tôn trọng đối tác, giữ

các nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường trở thành thói quen, thành tập quán,
thành nhu cầu bên trong của chủ thể kinh tế. Như thế, hành vi kinh tế không đơn
thuần chỉ là hành vi kinh tế nữa, nó đồng thời mang nội dung đạo đức và có thể
được đánh giá về mặt đạo đức. Các nguyên tắc, chuẩn mực thị trường cũng do
vậy mà được nâng lên thành các nguyên tắc, các chuẩn mực đạo đức.
Như vậy, kinh tế thị trường tự nó đã bao chứa khả năng tác động một cách
tích cực đến đạo đức. Do đó, nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân
tố khách quan, cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường
xã hội chủ nghĩa.
Nếu từ trong bản chất, kinh tế thị trường tự nó đã chứa đựng khả năng tác
động tích cực đến sự phát triển đạo đức thì cũng chính từ trong bản chất, kinh tế
thị trường cũng chứa đựng khả năng tác động tiêu cực đến đạo đức. Trong văn
kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) đã xác định: “Mặt
khác, cơ chế thị trường có những tác động tiêu cực mâu thuẫn với bản chất của
chủ nghĩa xã hội” [17, tr.26].
Chúng ta chuyển sang kinh tế thị trường chưa lâu, nhưng tác động từ mặt
trái của kinh tế thị trường đối với đạo đức đã trở thành mối lo ngại của toàn xã
hội. Những biểu hiện của sự xuống cấp đạo đức được Đảng ta chỉ ra tại Hội nghị
Trung ương lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá VIII như sau:
“Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị văn hoá dân tộc, chạy
theo lối sống thực dụng, cá nhân, vị kỷ đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của
dân tộc. Không ít trường hợp vì đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa
gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát
triển. Ma tuý, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tăng. Nạn mê tín dị đoan
khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhất là trong việc cưới, việc tang,
việc lễ hội.
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn
20
tham nhũng dùng tiền của Nhà nước tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ. Hiện

người ta luôn hướng tới và nếu như yêu cầu này không được thực hiện thì hoạt
động kinh tế chẳng có ý nghĩa gì cả. Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế thị
trường không phải bất kỳ một đơn vị kinh tế nào cũng đặt mục tiêu kinh tế lên
hàng đầu mà còn có cả những công ty, những đơn vị kinh tế coi trọng hiệu quả
xã hội hơn hiệu quả kinh tế. Song về bản chất, đặc trưng cơ bản của kinh tế thị
trường là kinh doanh, hoạt động của kinh tế thị trường chính là hoạt động kinh
doanh với sự điều tiết của nguyên tắc nhỏ nhất - lớn nhất, nghĩa là, làm sao có
một chi phí nhỏ nhất chủ thể kinh doanh thu được lợi nhuận lớn nhất.
Vậy, trong kinh doanh vai trò của đạo đức được thể hiện như thế nào? nó
thúc đẩy hay kìm hãm kinh doanh? Trả lời câu hỏi này cho đến nay vẫn tồn tại
hai ý kiến đối lập nhau.
1.1.2.1. Quan điểm xem nhẹ vai trò của đạo đức đối với kinh doanh
Những người theo quan điểm này cũng chính là những người phủ nhận tác
động tích cực của kinh tế thị trường đối với đạo đức. Họ cho rằng, đạo đức
chẳng có vai trò gì trong kinh doanh cả, họ đã tách rời một cách tuyệt đối giữa
đạo đức và kinh doanh, đặt đối lập hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức. Theo
họ, kinh doanh là kinh doanh, đạo đức là đạo đức, đã kinh doanh thì không thể
nói đến đạo đức được. Nói đến kinh doanh là nói đến lợi ích, mà nói đến lợi ích
thì không thể nói tới đạo đức được. Do đó, hành vi kinh doanh không có tính
cách của hành vi đạo đức còn đạo đức không phải là phạm trù quan tâm của
doanh nghiệp vì nó không mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp. Xuất
phát từ quan niệm như trên, họ đi đến kết luận: trong hoạt động thị trường, hành
vi kinh doanh với tư cách là hành vi kinh doanh chỉ chịu sự điều tiết của các
nguyên tắc, các chuẩn mực thị trường. Về cơ bản những nguyên tắc, quy tắc thị
trường được pháp chế hoá thành luật kinh doanh và những quy định có tính pháp
quy đối với kinh doanh.
Trong quá trình kinh doanh, các chủ thể kinh doanh thường (thậm chí tự
giác) đáp ứng những lợi ích nhất định của đối tác hoặc người tiêu dùng nhằm thu
22
được lợi nhuận tối đa. Chẳng hạn, các doanh nghiệp thành đạt thường là các

doanh.
1.1.2.2. Quan điểm đề cao vai trò của đạo đức đối với kinh doanh
Đối lập với quan điểm trên, những người theo quan điểm này cho rằng,
giữa đạo đức và kinh doanh có mối quan hệ hữu cơ không tách rời. Trên cơ sở
đó họ khẳng định vai trò tích cực của đạo đức đối với kinh doanh. Họ cho rằng:
việc tách rời tuyệt đối hành vi kinh doanh với hành vi đạo đức là không khoa
học. Trên thực tế, nếu tách rời giữa đạo đức và kinh doanh, tìm động lực kinh
doanh chỉ ở lợi nhuận và do đó, quản lý xã hội chỉ duy nhất dựa vào cơ chế,
chính sách, pháp luật để điều tiết kinh doanh thì hiệu quả điều tiết sẽ bị hạn chế.
Bởi lẽ, các chủ thể kinh doanh, trong chừng mực không có sự phát triển tương
ứng về đạo đức kinh doanh, nghĩa là không bị ràng buộc bởi các chuẩn mực đạo
đức, bởi tình cảm và lương tâm ở tầng sâu tâm lý, thì lòng hám lợi sẽ khiến họ
luôn tìm mọi cách để “lách luật”, phá hoại sự cạnh tranh trung thực, làm cho
hoạt động thị trường không diễn ra một cách bình thường, lành mạnh được. Bởi
pháp luật, chính sách dẫu hoàn thiện đến đâu cũng không tránh khỏi những
khiếm khuyết nhất định. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang trong quá trình hoàn
thiện cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Định hướng xã hội chủ
nghĩa là một điều mới mẻ, chưa có tiền lệ. Những khiếm khuyết của cơ chế,
chính sách và quản lý trong thời gian qua đã tạo điều kiện cho hàng loạt các
trường hợp kinh doanh, vừa vi phạm pháp luật, vừa vi phạm đạo đức để lại
những tổn hại to lớn không chỉ đối với công quỹ mà cả đối với bản thân các
doanh nghiệp, doanh nhân đã vi phạm đạo đức trong kinh doanh. Từ đó, những
người theo quan điểm này cho rằng, bên cạnh việc hoàn thiện cơ chế và tăng
cường pháp chế trong kinh doanh, nhà nước cần chủ động và tích cực “đạo đức
hoá” lĩnh vực kinh doanh, tạo ra sự thống nhất giữa đạo đức và pháp luật trong
quản lý. Điều đó có nghĩa là, trong quá trình chế định chính sách, luật pháp, các
quy định có tính pháp quy đối với kinh doanh, nhà nước cần dựa vào không chỉ
24
các yêu cầu về kinh tế, kỹ thuật mà cả những yêu cầu, những chuẩn mực đạo đức
xã hội nói chung, đạo đức kinh doanh nói riêng. Có thể đưa đạo đức vào kinh


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status