Buddhaghosa và một số tư tưởng triết học phật giáo nguyên thuỷ trong thanh tịnh đạo luận - Pdf 18

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử triết học Ấn Độ cổ đại, cũng như các trường phái triết
học khác lúc đó, Phật giáo, một trong những trường phái triết học - tôn
giáo, đã đưa ra những lý giải về nguồn gốc, bản chất và giá trị đời sống tâm
linh của con người, và cách thức giải thoát con người khỏi những nỗi khổ
mà con người vẫn hàng ngày phải gánh chịu. Giải thoát là mục đích và là
vấn đề trung tâm của Phật giáo, như Đức Phật khẳng định: “Biển lớn chỉ có
một vị, đó là vị mặn. Cũng vậy…pháp và luật này chỉ có một vị, đó là vị
giải thoát”[18, tr28]. Có thể nói triết lý của Phật giáo là triết lý về cuộc
sống, về đạo sống của con người. Dù có chỗ Đức Phật cho rằng vấn đề thế
giới quan “không có ích lợi, không phục vụ đời sống phạm hạnh, không
đưa đến yếm ly, ly tham, an tịnh, thắng trí, giác ngộ, Niết bàn” [18, tr280]
nên không cần bàn nhiều. Song để giải quyết vấn đề nhân sinh một cách hệ
thống, Phật giáo không thể không dựa trên những vấn đề có tính nguyên lý
phổ quát. Vì vậy trong giáo lý Phật giáo đã hàm chứa các nội dung cơ bản
của triết học như các quan điểm về vũ trụ, nhân sinh, nhận thức…và chúng
thể hiện một cách hệ thống qua triết lý vô ngã, vô thường, nhân duyên,
được cụ thể hóa trong giáo lý Tứ Diệu Đế, Bát Chính Đạo, thập nhị nhân
duyên với trình độ tư duy lôgic và biện chứng sâu sắc và với tinh thần "từ,
bi, hỉ, xả", bao dung, hòa hiếu, bình đẳng tôn giáo nên trải qua bao thế kỷ
với bao thăng trầm, Phật giáo vẫn được đông đảo các tầng lớp nhân dân ở
nhiều quốc gia trên thế giới đón nhận, và phát triển. Ra đời từ thế kỷ VI
TCN, Phật giáo đã có không ít thay đổi cả về giáo lý và hình thức trong quá
trình du nhập và tiếp biến ở mỗi nơi nó đến, đặc biệt trong cuộc sống hiện
đại ngày nay, Phật giáo đang có những biến đổi tích cực hướng con người
đến những giá trị hiện đại tốt đẹp. Tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có những
1
cải biến không theo tinh thần nhân văn trong giáo lý của đức Phật mà theo
hướng mê tín dị đoan đang gây ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống tín
ngưỡng. Trước tình hình đó, việc trở lại với giáo lý gốc Nguyên thủy để

tư tưởng triết học Phật giáo Nguyên thuỷ trong Thanh Tịnh Đạo Luận” làm
đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
TTĐL là một bộ luận xuất sắc của Buddhaghosa trong kho tàng triết
học Phật giáo nguyên thuỷ, có ảnh hưởng không nhỏ đến giới Phật tử cả
phái Tiểu thừa và Đại thừa cũng như với các nhà nghiên cứu Phật học. Tuy
nhiên hiện nay tư liệu về cuộc đời tác giả cũng như các công trình nghiên
cứu về tác phẩm này còn tản mạn.
Về cuộc đời và sự nghiệp của Buddhaghosa hiện nay cũng có một
số tư liệu đề cập, song tiêu biểu và đáng tin cậy là tác giả Bimala Charan
Law với cuốn Trưởng Lão Buddhaghosa- Nhà chú giải kinh điển Pàli (Tì
Khưu Siêu Minh dịch, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam, Nxb Tôn giáo,
Hà Nội 2005) Cuốn sách đã giới thiệu khá đầy đủ về toàn bộ cuộc đời
Buddhaghosa, thân thế và sự nghiệp của ông, quá trình ông giác ngộ Phật
giáo, sang Tích lan truyền đạo và chú giải Kinh điển Pa li. Tác giả B. Law
cũng đã giới thiệu những công trình nghiên cứu của Buddhaghosa, đặc biệt
tác phẩm TTĐL đồng thời chỉ ra đóng góp của Buddhaghosa đối với Phật
giáo nói chung và Tiểu thừa Phật giáo nói riêng. Tác giả James Gray với
Buddhaghosuppatti (Cuộc đời Buddhaghosa) (Tì khưu Indaca dịch,
Wedsite BuddhaSasana). Tác phẩm do học giả James Gray sao lục và hiệu
3
đính dựa vào các tài liệu tìm thấy ở Miến Điện đã giới thiệu một số tư liệu
về cuộc đời của ngài Buddhaghosa như: sự xuất gia và học tập Tam Tạng
lúc còn nhỏ tuổi, việc thọ tỳ khưu giới, nguyên do của việc đi đến hòn đảo
Lanka (Tích Lan), quá trình thực hiện tác phẩm Visuddhimagga (Thanh
tịnh đạo luận). Tuy nhiên, trong tác phẩm một số tư liệu không được chính
xác nếu so sánh với các dữ kiện đã được các nhà học giả đương thời xác
định cũng như còn nhiều chi tiết mang tính hư cấu.
Ngoài ra trong các tài liệu lịch sử như: Trung tâm tư liệu Phật học,
Lịch sử Phật giáo thế giới, tập 2, (Nxb Đại học và giáo dục chuyên nghiệp,

với Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ (Hạnh Viên dịch, Nxb Phương Đông, Tp
HCM, 2007) đã tái hiện lại toàn bộ dòng phát triển tư tưởng Phật Giáo của
hầu hết các tông phái ở Ấn Độ, trải qua ba giai kỳ phát triển triết học với
sự phân tích, nhận định sâu sắc của tác giả Kimura Taiken với Tiểu
thừa Phật giáo tư tưởng luận, t2 (Thích Quảng Độ dịch, Nxb, Khuông
Việt, 1971) phân tích cách giải thích của Buddhaghosa về lý Duyên khởi,
về thập nhị nhân nhân duyên trong TTĐL, lấy đó làm cơ sở để so sánh với
quan điểm Nhân duyên trong A tỳ đạt ma luận thư và trong quan điểm của
Bắc tông. Nhìn chung nội dung trong TTĐL đã được dùng để thuyết minh,
minh họa trong các công trình trên cũng như nhiều công trình nghiên cứu
về Phật giáo, song đây vẫn là một chủ đề chưa được khai thác đầy đủ.
Về tư tưởng triết học Phật giáo nguyên thủy được tác giả luận
văn tìm hiểu nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu tư tưởng triết học Phật
giáo nguyên thủy trong TTĐL, cũng có nhiều công trình nghiên cứu có giá
trị, tiêu biểu là Kimura Taiken với Nguyên thủy Phật giáo tư tưởng luận
5
(Thích Quảng Độ dịch, Khuông Việt, 1971) đã giới thiệu toàn bộ tư tưởng
triết học Phật giáo nguyên thủy với những vấn đề cơ bản nhất như vũ trụ
luận, nhân sinh quan, nhận thức luận Phật giáo. Kimura Taiken với Tiểu
thừa Phật giáo tư tưởng luận, (t1, Thích Quảng Độ dịch, Tu thư đại học
Vạn Hạnh, 1969; t2, Thích Quảng Độ dịch, Khuông Việt, 1971), trình bày
tư tưởng triết học của Phật giáo Tiểu thừa trong sự so sánh với tư tưởng
triết học trong kinh Veda, Upanishad, Tân Bà la môn giáo, đặc biệt so sánh
với tư tưởng Phật giáo nguyên thủy, qua đó người đọc thấy được sự kế
thừa của Phật giáo Tiểu thừa đối với Phật giáo nguyên thủy, những đóng
góp của Tiểu thừa đối với sự phát triển của Phật giáo. Lê Văn Quán với
Bước đầu tìm hiểu giá trị nhân sinh của Phật giáo (Nghiên cứu Phật học,
2- 1998) cũng đã trình bày giá trị của Phật giáo được thể hiện sâu xa trong
các thuyết: Tứ diệu đế, nhân quả, vô ngã, vô thường. Cuốn Phật học khái
lược của Lưu Vô Tâm (Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam, Nxb.

+ Khái quát về Buddhaghosa - con người và những trước tác của ông.
+ Khái quát đồng thời phân tích, làm rõ một số nội dung triết học
Phật giáo nguyên thuỷ trong tác phẩm TTĐL.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận: Để nghiên cứu TTĐL người viết dựa trên cơ sở lý
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử triết học, tư tưởng
cũng như lý luận của Đảng về tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng,
những nghiên cứu và tư liệu về triết học Ấn độ cổ đại cũng như triết học
7
Phật giáo Nguyên thuỷ, đặc biệt là những thành tựu về Buddhagosa và tác
phẩm TTĐL của ông.
- Phương pháp luận: Người viết sử dụng phương pháp biện chứng
duy vật lịch sử, phương pháp phân tích- tổng hợp, so sánh, đối chiếu, kết
hợp với phương pháp sử học, thông diễn học để thực hiện mục đích và
nhiệm vụ đã đặt ra.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu một số tư tưởng triết
học Phật giáo Nguyên thủy của Buddhagosa trong tác phẩm TTĐL của ông.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung vào TTĐL với tư cách là
tác phẩm điển hình của Buddhagosa và của Phật giáo Nguyên thủy.
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về lý luận: Luận văn góp phần khái quát một số tư tưởng
triết học của Phật giáo nguyên thuỷ qua nghiên cứu tư tưởng của
Buddhagosa – một đại diện nổi tiếng của Phật giáo Nam tông (Theravada)
qua tác phẩm TTĐL của ông
- Đóng góp về thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên nghiên cứu về Buddhagosa và tác phẩm TTĐL của ông cũng như
tư tưởng triết học Phật giáo Nguyên thuỷ nói riêng và lịch sử tư tưởng Phật
giáo nói chung.
7. Kết cấu của luận văn

Sau khi Đức Phật giác ngộ, giáo đoàn tỳ khưu (tăng già) đầu tiên
được thành lập dưới sự truyền đạo của chính đức Phật. Trong suốt 45 năm
giáo đoàn Phật giáo ở Ấn Độ đã phát triển tương đối hoàn chỉnh, giáo lý
giải thoát được nhiều người biết đến và tu tập. Đây cũng là thời kỳ có nhiều
biến động về chính trị, xã hội và có ảnh hưởng không nhỏ đến tăng đoàn
Phật giáo, cả ở những nơi Phật giáo phát triển chưa vững mạnh. Nội bộ
Phật giáo cũng bắt đầu có nhu cầu kết tập kinh điển để thống nhất lại toàn
bộ tinh thần của giáo lý gốc. Có nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân trực
tiếp là trong lớp tăng sĩ trẻ bắt đầu xuất hiện nhu cầu sửa đổi giới luật và
lối sinh hoạt của tu sĩ để phù hợp với từng điều kiện địa phương, song các
trưởng lão (tăng sĩ bề trên: thera) không đồng ý, nên đã dẫn tới những tranh
luận và mâu thuẫn trong nội bộ tăng đoàn. Trước tình hình đó, sau khi Đức
Phật nhập diệt bảy ngày một hội nghị được tổ chức tại Rajagaha dưới sự
chủ trì của ngài Tôn giả Ca Diếp (Mahakasyapa) với năm trăm vị hòa
thượng tham dự nhằm sưu tập và xác thực những lời Phật dạy. [35, tr50].
Đây là cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất trong lịch sử Phật giáo. Có thể
thấy từ đây đã có mầm mống bất đồng về nhận thức giáo lý, song sự bất
đồng chưa đủ sâu sắc để dẫn tới sự phân chia thành bộ phái, nhánh phái
trong nội bộ Phật giáo.
Cuộc kết tập lần thứ hai vào khoảng một trăm năm sau khi đức Phật
nhập diệt [35, tr83]. Đây là thời kỳ đã có sự tranh luận gay gắt về giáo lý
và phân chia bộ phái trong nội bộ tăng đoàn Phật giáo, đồng thời là giai
đoạn trung gian quan trọng, quá độ chuyển từ thời kỳ Phật giáo Nguyên
thủy sang Phật giáo Đại thừa. Thời kỳ này Phật giáo Nguyên thủy có sự
10
phát triển mạnh về số lượng tăng sĩ, và trình độ nhận thức của họ bắt đầu
chín muồi, nẩy sinh nhu cầu phải tổng hợp, thống nhất và hệ thống hóa
kinh điển cũng như các cách giải thích kinh điển gốc. Tuy nhiên, nguyên
nhân chính của Đại hội kết tập lần thứ hai tại Vaisaly vẫn là tranh luận về
luật chế của Tăng đoàn, đó là về "thập sự phi pháp" (mười việc phi pháp).

đức Phật nhập diệt [35, tr138 ] nhằm thống nhất giáo nghĩa của mọi bộ phái
trên tinh thần của Thượng Tọa Bộ (Gốc của Nam tông Phật giáo
(Theravada). Tại Đại hội này, lần đầu tiên Tam tạng kinh được viết thành
văn bản Pali. Cũng trong thời kỳ này, một số bộ luận của các luận sư nổi
tiếng đã ra đời và trở thành Cương yếu Phật học, đặc biệt là bộ TTĐL
(Visuddhimagga) của Buddhaghosa (tiếng Việt là Phật Âm).
Đại hội kết tập kinh điển lần thứ tư cũng chính là sự ghi nhận giai
đoạn phát triển giáo đoàn Phật giáo từ Nguyên thủy đến phân hóa thành bộ
phái chuẩn bị cho sự phân chia sâu sắc hơn thành hai nhánh Tiểu thừa và
Đại thừa. Hai bộ phái, Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ, là sự phân chia đầu
tiên trong nội bộ tăng đoàn Phật giáo Nguyên thủy. Từ đó, Đại chúng bộ
phân thành tám chi phái, và Thượng Tọa bộ phân thành mười phái (khoảng
ba trăm đến bốn trăm năm sau khi Phật nhập diệt), tổng số là hai mươi bộ
phái như sau:
Thượng tọa bộ gồm:
1. Tuyết sơn bộ (Haima-vàtàh)
2. Thuyết nhất thiết hữu bộ ( Saivàstivàdàh)
3. Độc tử bộ (Vàtsìputriỳah)
1
Những người ngoại đạo giả làm tỳ kheo, trà trộn vào trong Tăng Đoàn để làm bại hoại giới luật của Phật
Giáo, họ sửa đổi Tam Tạng kinh điển, không tuân thủ giới luật, và giáo lý của Đức Phật nên bị
gọi là “tặc trú Tỳ Kheo.”
2
Năm điều về phẩm tính của vị La Hán: La hán cũng có bất tinh lậu xuất; La hán cũng có vô tri;La hán
cũng còn do dự; La hán cũng còn nhờ người khác để nhập đạo; La hán phải nhờ tiếng khổ mới thấy được
đạo. Xem Kimura Taiken, Tiểu thừa Phật giáo tư tưởng luận, sđd, t1, tr103.
12
4. Pháp thượng bộ (Dharmottariỳah)
5. Hiền trụ bộ ( Dhadryànìyaha)
6. Chính lượng bộ ( Sammitiyàh)

Tiểu thừa trong Phật giáo còn xuất phát từ lịch sử quá trình luận giải khế
kinh rất lâu dài, phức tạp và đa dạng, về đại thể có thể chia làm ba giai đoạn:
- Giai đoạn đầu chủ yếu là chỉnh lý các quan niệm về tu dưỡng trong
khế kinh và giải thích một số vấn đề giới luật cơ bản. Lúc này các bộ luận
chưa độc lập tách khỏi khế kinh.
- Giai đoạn hai, thực tiễn Phật giáo ngày càng phát triển, đòi hỏi
những cách giải thích khế kinh phù hợp với tình hình mới. Nhiệm vụ của
các A tỳ đạt ma luận thư (Abhidharma) thời kỳ này không chỉ dừng lại ở
giải thích, tranh luận về giáo lý của đức Phật (khế kinh) mà còn xây dựng
lý luận thần học để bảo vệ khế kinh. Nhiệm vụ này đòi hỏi phải chú trọng
khai thác triết lý sâu xa của khế kinh từ góc độ bản thể luận, nhận thức luận
và giải thoát luận, đó cũng là nguyên nhân hình thành nên các bộ Luận thư
(Abhidharma). Vì vậy, đặc điểm của các Luận thư thời kỳ này là không
bám vào những câu kinh như thời kỳ trước, mà lấy các đề mục của khế
kinh làm chủ, rồi phân tích, phân loại vấn đề Phật học và triết học theo các
đề mục đó.
- Giai đoạn ba, Luận thư phát triển mạnh và đã có vị trí độc lập,
thậm chí có những chủ đề thoát ly và xa rời khế kinh, đề cập đến các vấn
đề nhân sinh, vũ trụ. Đặc trưng nổi bật của các Luận thư giai đoạn ba là
khai thác, triển khai triết lý sâu xa của khế kinh và đưa ra phương pháp
14
phân tích, hệ thống hóa. Tư tưởng triết học, thần học của Phật giáo trong
Luận thư được xây dựng một cách hệ thống trên tinh thần phê phán và theo
từng vấn đề mà mỗi bộ phái đã lựa chọn. Hai phái Thượng tọa bộ và Đại
chúng bộ đều có những Luận tạng riêng, sau này chúng đã phát triển thành
hai nhánh Tiểu thừa và Đại thừa, song chỉ các bộ luận trong Luận tạng của
Thượng tọa bộ còn được lưu giữ đến ngày nay.
Như vậy, cho đến thời Budhaghosa ở Ấn Độ sự phân phái trong nội
bộ Phật giáo vẫn diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc, giáo lý kinh văn chưa thống
nhất và thiên về phương pháp luận giải rất khô khan, khó hiểu nên hạn chế

Gotabhaya (205 TL), giáo đoàn Phật giáo Tích Lan lại nảy sinh một phái
mới gọi là Kỳ Đà Lâm Tự phái (Tetavana). Như vậy, ở Tích Lan tới thời
này đã phân thành ba phái trong nội bộ tăng đoàn Nam tông Tích Lan. [35,
tr174]. Lúc bấy giờ, Tích Lan đang bị tộc người Đà Mật La ở Nam Ấn độ
xâm lược. Kinh tế, văn hóa Tích Lan không ổn định và ảnh hưởng sâu sắc
đến Phật giáo. Tam tạng Pali được mang tới Tích Lan cũng bị những mất
mát hư hại. Tình hình đó đòi hỏi Phật giáo Tích lan phải có sự thống nhất
về giáo lý giữa các bộ phái, và Buddhaghosa được Phật giáo Thượng tọa bộ
ở Ấn Độ lựa chọn và phái sang Tích lan nhằm dịch và chú thích Tam tạng
từ ngôn ngữ Shinha sang ngôn ngữ Pali để góp phần thống nhất và truyền
bá tư tưởng Phật giáo Thượng tọa bộ ở Tích Lan. [46, tr589-594]
Thượng Tọa bộ là bộ phái Phật giáo Nguyên thủy nhất còn lưu lại
đến ngày nay và các kinh điển viết bằng văn hệ Pali của phái này được cho
là ngữ thuyết của chính đức Phật với giáo pháp chính là Tứ Diệu Đế, Bát
16
Chính Đạo, Duyên khởi và Vô ngã. Thượng tọa bộ nhấn mạnh khả năng
từng người tự giải thoát bằng cách kiên trì giữ giới luật và sống một cuộc
sống phạm hạnh. Tiêu chuẩn phấn đấu lý tưởng của họ là A-la-hán.
Khuynh hướng luận giải của Thượng tọa bộ cũng đóng vai trò quan trọng.
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga) là một trong những bộ luận xuất sắc, nổi
tiếng của Thượng tọa bộ do Phật Âm (Buddhagosa) trước tác. [68]
Về mặt tư tưởng, các phái thuộc Thượng Tọa bộ nói chung có
khuynh hướng bảo thủ, trái ngược với Đại Chúng bộ. Chẳng hạn trong việc
thực hiện giới luật, Thượng Tọa Bộ lấy việc bảo tồn nguyên bản của Phật
làm lập trường, họ luôn yêu cầu khi chỉnh lý kinh và luật phải giữ gìn được
quan niệm của Đức Phật, còn với những sinh hoạt mang tính hiện thực thì
nên có xu hướng "học cứu hoá". Ngược lại, Đại Chúng bộ có khuynh
hướng cấp tiến, chủ trương lấy lý tưởng chung làm căn bản, coi trọng tinh
thần của đức Phật nhưng theo khuynh hướng thích nghi với nếp sống thực
tế của xã hội đương thời. Với khuynh hướng đó, một mặt Đại Chúng bộ lý

kỷ thứ V SCN. Dhammakitti đã kể lại cuộc đời và sự nghiệp của Buddhaghosa
và xác định thời điểm ông sống là dưới thời vua Mahānāma (thế kỷ V
SCN). [38, tr23, 48]
Trong lịch sử văn học Phật giáo Pāli, Buddhaghosa được đánh giá là
một nhà bình luận và chú giải kinh Phật vĩ đại nhất. Ông đã góp phần làm
phong phú văn hệ Pali, nhất là đóng góp cho Tam tạng Pāli, tương tự như
những đóng góp của Sayana cho văn học Veda. Thông qua chú giải Kinh
Phật bằng tiếng Pāli, nhiều thuật ngữ và thành ngữ, nhiều quan điểm cũng
như những triết lý phức tạp, uyên thâm của Phật giáo đã được
18
Buddhaghosa làm sáng tỏ một cách hệ thống [38, tr17]. Ngoài ra trong các
tác phẩm của ông còn có những kiến thức về lịch sử, địa lý, thiên văn, âm
nhạc, giải phẫu…vượt ra ngoài lĩnh vực Phật học. Chẳng hạn các câu
chuyện mang nội dung văn hóa, dân tộc học về các bộ tộc Ấn Độ như bộ
tộc Mallas, Sākyas, Koliyas và Lichias…trong các phẩm Pāsādika,Suttanta
Dhammapada,Tthakatha, Suma

galavilāsinī, hay những câu chuyện đầy
tính văn học và sử học về các vua chúa và quí tộc Ấn Độ như vua
Bimbisāra (vương quốc Magadha), vua Pasenadī (vương quốc Kosala)…trong
bản chú giải về tác phẩm Majjhima-Nikāya [38, tr141-174]. Những tư liệu
trong tác phẩm của Ông là nguồn tài liệu phong phú và quý giá không chỉ
đối với Phật học mà cả sử học, khoa học xã hội nói chung khi nghiên cứu
Ấn Độ và Srilanka (Tích Lan) cổ đại.
Sinh ra trong một gia đình Bà La Môn danh tiếng nên Buddhaghosa
sớm tiếp thu và tinh thông giáo lý Bà La Môn. Ngay từ khi còn nhỏ, ông đã
thể hiện sự thông minh xuất chúng của mình, và ông tinh thông cả ba bộ
kinh Vêda từ tuổi còn đi học. Thời gian này, ở Ấn Độ thường diễn ra
những cuộc tranh luận tôn giáo nên Buddhaghosa đi khắp nơi tìm đối thủ
để tranh luận và hoạt động không mệt mỏi nhằm chống lại các phái ly giáo

Đối với văn học Phật giáo Miến Ðiện, Buddhaghosa cũng được nhận
là người Miến Ðiện. Người Miến Điện tự hào cho rằng, khoảng năm 400
TL, ông từ nước Kim Ðịa
3
sang Tích Lan du học, rồi 3 năm sau đem kinh
điển trở về chấn hưng Phật giáo Miến Ðiện. Bishop Ringandet trong cuốn
3
Kim Địa: ngày nay nằm về hạ lưu Miến Ðiện cho đến bán đảo Malaysia.
20
Cuộc đời hay huyền thoại của ngài Phật tổ Cồ Đàm viết như sau: “Có lẽ
cần phải đề cập đến ở đây một giai đoạn vàng son nhất trong lịch sử Phật
giáo Miến Điện. Tôi muốn ám chỉ đến chuyến du hành của một vị tu hành
tại Thaton, có tên Buddhagosa, đã thực hiện một chuyến đi đến đảo quốc
Tích Lan vào năm Phật lịch 943, tức 400 năm sau CN. Mục tiêu chuyến đi
này là để thu thập một bản Kinh Phật…Ông đã tận dụng chữ viết Miến
Điện hay đúng hơn là mẫu tự Ta-la để chép lại các bản chép tay Kinh Phật
đó, được viết bằng tiếng Magāthā. Đã có những bài vè bằng tiếng Miến
Điện đề cập nhiều đến chuyến đi này và đã được ghi chép cẩn thận về năm
tháng chuyến hành trình diễn ra. Thực chất mà nói, chính nhờ Budhagosa
mà những cư dân sống ở vùng duyên hải vịnh Martaban có được Kinh Phật.
Từ thời Thaton, công việc sưu tầm do ngài Budhagosa thực hiện đã được
chuyển về Pagan sáu trăm năm mươi năm sau khi được du nhập vào từ đảo
quốc Tích Lan.”[38, 29].
Tuy đến nay tư liệu sử học về cuộc đời và sự nghiệp của
Buddhaghosa vẫn còn những vấn đề mà các học giả nghiên cứu Phật giáo
Theravada quan tâm, song vượt lên trên cả những truyền thuyết hay huyền
thoại, cống hiến vĩ đại của Phật Âm đối với Phật giáo và văn hóa Ấn Độ
cũng như ở Tích Lan và Phật giáo Nam Tông ở Miến điện, Thái Lan… mãi
mãi được ghi nhớ và lưu truyền.
Là một nhà Phật học uyên thâm, một học giả lỗi lạc, tinh thông cả về

và cả triết học Ấn Độ cổ đại.
- Samantapāsādikā là luận giải về Đại Tạng Kinh Pāli (Nikāya) và
về cả Luận Tạng (Abhidhamma Pi

aka).
- Ka

khāvitara

ī là một tác phẩm luận về Pātimokkha thuộc về Luật
Tạng (Vinaya Pi

aka) và giải thích rõ một số giới luật (vinaya) dễ bị vi
phạm đối với các tăng, ni. Tác phẩm này hiện nay còn ở Tích Lan, Thái
Lan, Miến Điện và Anh quốc.
22
- Suma

galavilāsinī (Chú giải Trường bộ kinh) được viết theo yêu
cầu của Saṅghathera Dàtha. Đây là bài luận về Trường Bộ Kinh (Dīgha
Nikāya), gồm ba phần: Sīlakkandha; Mahāvagga; Patheya hay tên khác là


ikavagga. Tác phẩm này còn cho người đọc những hiểu biết về lịch sử
xã hội, chính trị, tôn giáo và triết học Ấn Độ dưới thời Đức Phật.
- Papañcasūdanī (Chú giải Trung bộ kinh) là một chú giải về Trung
Bộ Kinh (Majjhima Nikāya) được viết theo yêu cầu của Buddhamitta. Tác
phẩm gồm ba phần: Mūlanpaññāsa; Majjhimapaññāsa; Uparipaññāsa.
Đây là một tác phẩm viết lại bằng tiếng Phạn về cuộc đời Đức Phật, gồm
có mười đoạn, với sáu trăm bốn mươi mốt câu kệ.

có nhận định: “… theo tôi sự nghiệp của ngài Buddhaghosa không những
rất đáng nhớ, mà còn là cả một kho báu lịch sử đáng quan tâm. Nếu gác bỏ
sang một bên có nghĩa là để mất đi toàn cảnh một quá trình lịch sử triết lý
Phật giáo”[38, tr128]. Đó chính là những cống hiến to lớn của
Buddhaghosa cho tư tưởng Phật giáo, mà R.C Childer phát biểu:
"Buddhaghosa đã không tự giới hạn mình trong công việc dịch thuật các
tác phẩm Mahendra, ông còn biết kết hợp chặt chẽ các tư liệu biên niên sử
viết bằng tiếng Sinha cổ sẵn có vào thời điểm đó, và đóng góp vào đó
những cống hiến to lớn của riêng ông, chủ yếu thuộc lĩnh vực chú giải kinh
Phật. Rất nhiều vấn đề chứa đựng trong các tác phẩm chú giải Kinh Phật
của ông cổ xưa như chính Tam tạng (Tripi

aka), trong khi đó, giống như
Tam tạng, các tác phẩm của ông rất súc tích trong lịch sử, trong dân gian
và có những chuyện kể có thể làm sáng tỏ những hoàn cảnh đạo đức và xã
hội Ấn Độ cổ xưa", và “Ông đã để lại một gia tài hết sức phong phú cho nền
văn học Phật giáo”. [38, tr129]
Buddhaghosa là một luận sư nổi tiếng đã có nhiều đóng góp cho sự
phát triển Phật giáo nói chung và Phật giáo ở Tích Lan nói riêng. Trong đó
24
công lao lớn nhất của ông là phiên dịch và chú giải toàn bộ hệ thống Tam
Tạng Kinh từ ngôn ngữ Sinha sang ngôn ngữ Pali. Qua quá trình phiên dịch
và chú giải kinh điển, nhiều khái niệm trong Tam tạng Pali đã được
Buddhaghosa định nghĩa rõ ràng đồng thời ông cũng đơn giản hoá nhiều vấn
đề khó hiểu, mơ hồ và phức tạp trong kinh điển. Nhờ công phiên dịch và chú
giải của ông mà về sau việc bình luận thánh điển Pāli, văn học và triết lý Phật
giáo trở nên phong trào. Với sự đóng góp của ông, Phật giáo Tích Lan đã phát
triển rực rỡ và rộng khắp. Công việc và cống hiến vĩ đại của Phật Âm đối với
Phật giáo và văn hóa Ấn Độ hay Phật giáo Theravada ở Tích Lan, Miến điện
…mãi mãi được ghi nhớ và lưu tryền.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status