Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam - Pdf 18

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Xu hướng toàn cầu hoá và tự do hoá thương mại hiện nay là điều kiện
thuận lợi để những nước chậm và đang phát triển có cơ hội phát triển nhanh,
mạnh, rút ngắn khoảng cách với các nước khác trong khu vực và trên thế giới.
Nằm trong xu hướng vận động đó, Việt Nam đã từng bước ra khỏi nhóm nước
kém phát triển thu nhập thấp, chuyển sang nhóm nước đang phát triển có mức
thu nhập trung bình. Có được thành quả đó, bên cạnh sự phát huy nội lực,
Việt Nam đã và đang nhận được sự trợ giúp từ phía các nước phát triển.
Hiện nay có trên 50 đối tác đặt quan hệ song phương, đa phương đã và
đang nỗ lực hỗ trợ Việt Nam đổi mới theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Việc vay nợ nước từ những quốc gia đó nhằm mục đích đáp ứng các
nhu cầu đầu tư, đồng thời thúc đẩy xuất khẩu tăng trưởng, nhằm tạo nguồn vốn
trả nợ và đảm bảo phát triển bền vững. Từ những lợi ích trên, có thể nhận thấy
kinh nghiệm đi vay là yếu tố quan trọng hàng đầu trước khi có những chiến lược
quản lý hay sử dụng vốn vay hiệu quả. Học hỏi từ các bài học đi vay của một số
nước trên thế giới, Việt Nam kết hợp với tình hình thực tế của đất nước sẽ rút ra
nhiều kinh nghiệm vay nợ nước ngoài trong hiện tại và tương lai.
Từ những lý do trên, nhóm 7 chọn vấn đề “Kinh nghiệm vay nợ nước
ngoài của một số quốc gia và bài học cho Việt Nam” làm đề tài tiểu luận.
Tiểu luận gồm 3 phần chính:
Phần 1: Tổng quan về vay nợ nước ngoài
Phần 2: Kinh nghiệm vay nợ nước ngoài của một số quốc gia
Phần 3: Bài học kinh nghiệm vay nợ nước ngoài đối với Việt Nam
Chúng em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giảng dạy của TS
Nguyễn Thị Kim Chi. Rất mong nhận được sự góp ý và ủng hộ của cô.
2
Phần 1
TỔNG QUAN VỀ VAY NỢ NƯỚC NGOÀI
1. Khái niệm
Theo Quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài (ban hành kèm theo Nghị

ngoài theo phương thức tự vay, tự chịu trách nhiệm trả nợ, hoặc vay thông qua
việc phát hành các trái phiếu ra nước ngoài (trái phiếu doanh nghiệp, trái phiếu
ngân hàng…). Vay nước ngoài của các doanh nghiệp bao gồm: Vay có bảo lãnh
3
của Chính phủ, vay có bảo lãnh của ngân hàng hoặc các hình thức bảo đảm khác
được quy định của Nhà nước).
2.2 Phân loại theo chủ thể cho vay (bao gồm các khoản vay song phương
và vay đa phương):
Vay đa phương chủ yếu đến từ các cơ quan của Liên hợp quốc, Ngân
hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các ngân hàng phát triển trong
khu vực, các cơ quan đa phương như OPEC và liên chính phủ.
Vay song phương đến từ chính phủ một nước như các nước thuộc OECD
và các nước khác hoặc đến từ một tổ chức quốc tế nhân danh một chính phủ duy
nhất dưới dạng hỗ trợ tài chính, viện trợ nhân đạo bằng hiện vật.
2.3 Phân loại theo loại hình đi vay (bao gồm vay hỗ trợ phát triển chính
thức (ODA) và vay thương mại):
Vay hỗ trợ phát triển chính thức (ODA): Theo định nghĩa của tổ chức
Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) hỗ trợ phát triển chính thức bao gồm các
chuyển khoản song phương (giữa các chính phủ) hoặc đa phương trong đó ít
nhất 25% tổng giá trị chuyển khoản là cho không. Vay hỗ trợ phát triển chính
thức là loại hình vay nợ có nhiều điều kiện ưu đãi, ưu tiên về lãi suất, về thời
gian trả nợ và thời gian ân hạn. Lãi suất của vay hỗ trợ phát triển chính thức thấp
hơn nhiều so với vay thương mại. Thời gian cho vay hỗ trợ phát triển chính thức
dài (có thể 10,15 hay 20 năm) và thời gian ân hạn dài. Do vậy, các nước đang
phát triển thường hướng tới và vận dụng tối đa nguồn vốn này cho quá trình xây
dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, vay hỗ trợ phát triển chính thức cũng có
những mặt trái của nó, việc cho vay hỗ trợ phát triển chính thức đôi khi kèm
theo những điều kiện ràng buộc khiến cái giá phải trả tăng lên.
Vay thương mại: Vay thương mại khác với vay hỗ trợ phát triển chính
thức là không có ưu đãi về lãi suất và thời gian ân hạn. Lãi suất vay thương mại

Như vậy, đối với các quốc gia đang phát triển, việc sử dụng nguồn vốn vay nước
ngoài về bản chất là vấn đề cân đối giữa tiêu dùng trong hiện tại với tiêu dùng
trong tương lai. Việc vay nợ nước ngoài chỉ có thể có hiệu quả nếu nó đảm bảo
không làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiêu dùng của các thế hệ tương lai.
3.2 Vay nợ nước ngoài góp phần chuyển giao công nghệ và nâng cao
năng lực quản lý
Bên cạnh việc dùng các nguồn vốn tự có để nhập khẩu máy móc thiết bị
kèm theo chuyển giao công nghệ và kỹ năng quản lý, việc vay vốn nước ngoài
bổ sung thêm nguồn vốn để nhập khẩu các máy móc thiết bị hiện đại, công nghệ
tiên tiến cùng với kỹ năng quản lý của nước ngoài. Các dự án đầu tư đã góp
phần hiện đại hóa nhiều ngành, lĩnh vực, thúc đẩy các ngành, lĩnh vực khác
chuyển đổi theo, tạo ra một lực lượng lao động mới, hiện đại có công nghệ tiên
tiến và góp phần thúc đẩy hiệu quả của cả nền kinh tế. Cùng với các dự án đầu
tư là việc chuyển giao kỹ năng quản lý của các chuyên gia nước ngoài. Các dự
án hợp tác đào tạo cũng tạo ra rất nhiều cơ hội đào tạo lại và đào tạo nâng cao
cho lực lượng cán bộ chủ chốt của các ngành, các địa phương, góp phần nâng
cao năng lực quản lý của toàn bộ nền kinh tế xã hội nói chung.
3.3 Vay nợ nước ngoài ổn định tiêu dùng trong nước
Khi có những cơn sốc đột ngột giáng vào nền kinh tế, sản lượng bị thiếu
hụt năng nề và tiêu dùng trong nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Chẳng hạn,
những đợt thiên tai liên tiếp dẫn đến ngành nông nghiệp bị mất mùa lớn; khủng
hoảng tài chính khu vực khiến cho nền kinh tế bị thiệt hại nặng. Trong những
trường hợp như vậy, bên cạnh các khoản viện trợ khẩn cấp, các khoản vay nợ
nước ngoài khẩn cấp đóng vai trò là biện pháp ổn định tiêu dùng trong nước
trong ngắn hạn, trong khi nền kinh tế dần được phục hồi.
5
3.4 Vay nợ nước ngoài bù đắp cán cân thanh toán
Cán cân thanh toán có thể tạm thời bị thâm hụt do điều kiện bất lợi tạm
thời trong thương mại quốc tế. Chẳng hạn khi giá hàng xuất khẩu các sản phẩm
của một nước bị giảm sút so với giá hàng nhập khẩu, nước đó cũng có thể sử

Phần 2
KINH NGHIỆM VAY NỢ NƯỚC NGOÀI CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA
1. Châu Mỹ La tinh, Khu vực Đông Á cuối thập kỷ 90
1.1 Chiến lược vay nợ và khủng hoảng nợ ở các nước châu Mỹ latinh
trong những năm 1980-90
Trước cuộc khủng hoảng, châu Mỹ latinh đã đạt tới trình độ phát triển
kinh tế cao hơn nhiều so với Châu Á hoặc Châu Phi. Thời kỳ 1950-1970, nhiều
nước Mỹ latinh như Braxin, Mêhicô, Achentina và Vênêduêla đã đạt được tốc
độ tăng trưởng cao liên tục, và khi đó các nước này từng được đánh giá là “các
nước công nghiệp mới” (NICs). Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng nợ bùng nổ vào
năm 1982 và kéo dài trong những năm sau đó đã khiến cho các nước này không
thể trở thành NICs. Không chỉ như vậy, suốt cả thập kỷ sau đó, nền kinh tế Mỹ
Latinh rơi vào tình trạng suy thoái.
Khủng hoảng nợ ở châu Mỹ Latinh chủ yếu liên quan đến việc quản lý
vay nợ nước ngoài của khu vực tư nhân. Là những nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, các nước Mỹ La tinh từng là điểm đến mong đợi của vốn vay nước
ngoài. Các biện pháp cải cách nền tài chính theo hướng tự do hóa cũng là yếu tố
khuyến khích các công ty trong nước vay nợ. Giữa thập kỷ 70, nhiều nước Mỹ
Latinh bao gồm Chi lê, Urugoay, Achentina, bắt đầu cải cách kinh tế theo hướng
tự do hóa thương mại, tự do hóa thị trường tài chính trong nước và chu chuyển
vốn, tư nhân hóa công nghiệp công cộng. Việc kiểm soát ngoại tệ, kiểm soát chu
chuyển vốn và các hạn chế khác được bãi bỏ. Chẳng hạn, Achentina giảm mức
dự trữ bắt buộc xuống con 45% và cho phép các ngân hàng tự do quyết định lãi
suất. Chi lê, Urugoay và Achentina đều bãi bỏ các hạn chế đối với việc chuyển
lợi nhuận ra nước ngoài và cho phép tư nhân tự đo đàm phán vay vốn nước
ngoài. Kết quả của việc tự do hóa chu chuyển vốn là các nhà đầu tư trong nước
có khả năng tiếp cận vốn vay nước ngoài một cách không hạn chế.
Trong giai đoạn từ 1975 đến 1982, nợ nước ngoài của các nước Mỹ
Latinh tăng với tốc độ 20,4% mỗi năm. Tổng nợ của các nước này tăng từ 75%
tỷ đôla năm 1975 lên thành 314 tỷ năm 1983, tương đương với 50% GDP của cả

Trong khoảng từ năm 1976 đến năm 1981, doanh thu từ xuất khẩu dầu hàng
năm của Mêhicô tăng từ 600 triệu đô la lên 14 tỷ đô la. Tuy nhiên, cùng lúc đó
nhập khẩu tăng 30% mỗi năm, tạo nên lượng thâm hụt cán cân thanh toán 12,5
tỷ đô la vào năm 1981. Để tài trợ cho sự thâm hụt này, cả khu vực công lẫn khu
vực tư nhân ở Mê hi cô đều đi vay nước ngoài, phần lớn là vay ngắn hạn. Khi
giá dầu tăng vọt lần thứ hai vào năm 1979, Mỹ và các nước OECD phản ứng
bằng cách tăng lãi suất và thắt chặt tiền tệ. Song, chính phủ Mê hi cô vẫn tiếp
tục tăng chi tiêu công cộng tài trợ bằng vốn vay vì cho rằng lãi suất tăng là hiện
tượng ngắn hạn, trong khi giá dầu tăng là xu hướng dài hạn.
Tuy nhiên, năm 1981, giá dầu đứng dần do nền kinh tế Mỹ suy thoái và
nhu cầu về dầu mỏ giảm mạnh, song lãi suất vẫn đứng ở mức cao gần mức đỉnh
điểm 19% của năm 1980. Khi những dấu hiệu khủng hoảng đã lộ rõ, khối kinh
tế tư nhân lập tực chuyển tài sản ra nước ngoài khiến Mê hi cô lâm vào tình
trạng khủng hoảng. Chính phủ Mê hi cô phải tăng cường kiểm soát nhập khẩu,
cắt giảm chi tiêu và phá giá đồng pê sô đến 80%, tuy nhiên vẫn không cứu vãn
được tình thế. Đến tháng 8/1982, chính phủ buộc tuyên bố không có khả năng
8
trả nợ. Mỹ, các nước OECD và IMF phải quyết định cho Chính phủ Mê hi cô
vay khẩn cấp 190 triệu USD cùng với một số khoản tài trợ ngắn hạn khác để
giúp nước này không phải tuyên bố phá sản trong thời gian thực hiện cơ cấu lại
nợ.
Sau sự kiện này, hầu hết các ngân hàng thương mại đều dừng ngay việc
cho vay đối với các nước Mỹ Latinh. Tình trạng nợ trở nên trầm trọng thêm do
“chảy máu vốn”. Dòng vốn đầu tư chảy ra nước ngoài từ các nước Mỹ Latinh
lên đến 151 tỷ USD trong giai đoạn 1973-85, bằng 40% tổng nợ của các nước
này. Tình trạng bất công xã hội trầm trọng thêm, do người dân nghèo phải chịu
chế độ tài chính thắt lung buộc bụng của Chính phủ để trả nợ cho các ngân hàng
nước ngoài, trong khi các ngân hàng này lại trả lãi cho những người Mỹ Latinh
giàu có có tài sản gửi ở các ngân hàng này.
Dòng vốn chảy ra nước ngoài đầu những năm 80 làm giảm tỷ giá hối đoái

cần thiết đốt với sự ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt với lạm phát và quản lý nợ.
1.2 Sử dụng vốn vay nước ngoài và khủng hoảng tài chính ở khu vực
Đông Á cuối thập kỷ 90
Khủng hoảng tài chính Đông Á bắt đầu từ tháng 7 năm 1997 ở Thái Lan
rồi ảnh hưởng đến các thị trường chứng khoán, các trung tâm tiền tệ lớn và giá
cả của một số nước Châu Á, Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc là những nước bị
ảnh hưởng nhiều nhất. Một số nước khác như Hongkong, Malaysia, Philippines
cũng bị ảnh hưởng. Các nước ít bị ảnh hưởng hơn là Trung Quốc, Đài Loan,
Singapore và Việt Nam. Nhật Bản, một nước có nền kinh tế lớn gấp đôi tất cả
các nền kinh tế Châu Á cộng lại cũng phải trải qua những khó khăn do khủng
hoảng. Cuộc khủng hoảng Đông Á cũng gây ảnh hưởng không nhỏ đến nền kinh
tế Mỹ, Braxin và Nga.
Liên tục từ cuối thập niên 80 cho đến đầu thập niên 90 nhiều nước trong
khu vực như Thái Lan, Malaysia, Philippines, Indonesia và Hàn Quốc có tỷ lệ
10
tăng trưởng mạnh mẽ, đạt khoảng 8-12% tổng sản lượng nội địa. Thành quả này
đã được nói đến như “ sự thần kỳ Châu Á”.
Cho đến năm 1997, Châu Á đã thu hút gần một nửa tổng luồng tiền nước
ngoài đầu tư vào các nước đang phát triển. Việc các nước Châu Á duy trì mức
lợi tức cao đã thu hút mạnh mẽ các nhà đầu tư nước ngoài. Kết quả là nhiều
nước đã nhận được một khối lượng lớn luồng tiền đầu tư và giá tài sản tăng vọt.
Thiếu hụt trong tài khoản vãng lai tư nhân ở các nước như Thái lan, Indonesia,
Hàn Quốc của việc duy trì tỷ giá cố định đã khuyến khích các nước này vay nợ
nước ngoài. Kết quả dẫn đến sự lệ thuộc lớn và rủi ro hối đoái của cả hai lĩnh
vực: tài chính và doanh nghiệp.
Đến giữa thập niên 90, nền kinh tế Mỹ bắt đầu phục hồi, Ngân hàng Dự
trữ Liên bang Mỹ bắt đầu nâng tỷ lệ lãi suất để ngăn chặn lạm phát. Việc tăng
lãi suất đã thu hút luồng tiền đầu tư vào Mỹ, đồng đô la tăng giá, trong khi các
nước Đông Nam Á vẫn cố định đồng tiền của mình vào đô la Mỹ. Hậu quả là
xuất khẩu của các nước Đông Nam Á trở nên kém hấp dẫn, làm giảm tỷ lệ tăng

không phải do tâm lý thị trường mà do các chính sách kinh tế vĩ mô bóp méo
thông tin, dẫn đến tính bất ổn và hấp dẫn các nhà đầu cơ. “ Tâm lý bầy đàn” ở
đây được coi là hậu quả của việc các nhà đầu cơ hành xử hợp lý trong việc suy
xét chính sách tiền tệ của Chính phủ (chính sách bảo vệ tỷ giá hối đoái cố định)
mà họ cho là không hợp lý và không thể duy trì lâu được.
Nói về khủng hoảng tài chính ở Đông Á trong thập niên 90 phải lưu ý
rằng những bài học thành công của các nước Đông Á hầu như còn nguyên vẹn
và vẫn tiếp tục phát huy sau giai đoạn điều chỉnh thích hợp. Ngoài ra, mặc dù rơi
vào khủng hoảng nhưng tình hình tài chính ở Đông Á vẫn lành mạnh hơn nhiều
so với Mỹ latinh. Nếu như trong thời gian khủng hoảng, nhiều nước ở châu Mỹ
Latinh có tỷ lệ nợ nước ngoài lên tới 300% hoặc cao hơn so với thu nhập từ xuất
khẩu, thì ở Đông Á chỉ có Indonesia là có mức nợ nước ngoài cao đến mức đó,
còn hầu hết các nước khủng hoảng khác có tỷ lệ nước ngoài thấp nhiều hơn.
2. Bài học vay nợ của Nga và Dubai
2.1 Thực trạng và các giải pháp trả vay nợ nước ngoài của Nga
Vào những năm cuối thế kỷ XX, tình hình kinh tế chính trị xã hội ở Nga
có nhiều bất ổn. Đó là sự sụp đổ hệ thống chính trị cũ, hệ thống chính trị mới
chưa hình thành, Đảng cộng sản mất quyền lãnh đạo đất nước, nhiều đảng phái
chính trị mọc lên. Quyền lực nhà nước hoàn toàn bị tê liệt, các nhóm tài phiệt
kiểm soát toàn bộ nền kinh tế và bộ máy chính trị. Một bộ máy lãnh đạo không
có uy tín ở trong nước cũng như ở nước ngoài, nội chiến tái bùng phát dữ dội ở
Che-xnhi-a. Vay nợ nước ngoài của Nga ở thời điểm cuối năm 1998 ở 183,6 tỷ
USD. Báo chí phương Tây lúc đó nói rằng “với số nợ nước ngoài khổng lồ như
vậy, ngay đến lãi suất của các khoản nợ này Nga cũng khó có thể trả nổi”, hàng
chục triệu người dân Nga bị đẩy và cảnh khốn cùng. Từng là bộ phận trụ cột của
siêu cường thế giới trước đây, Nga đã bị trượt xuống hạng các quốc gia đang
phát triển- một vị thế yếu kém và mờ nhạt trên trường quốc tế.
Sự thần kỳ của Nga trong việc rũ bỏ nợ nần
+ Cuối năm 1999, tỷ lệ nợ nước ngoài so với GDP là 90%.
+ Năm 2003, Nga trả hết khoản nợ nước ngoài đến hạn cả gốc lẫn lãi là 17

trường nội địa.
+ Phương thức cải cách nền chính trị - xã hội phù hợp với đặc điểm và
điều kiện phát triển mới của mình trong bối cảnh mới của thế giới là cạnh tranh
gay gắt cùng song hành với hợp tác, hội nhập để phát triển.
+ Nga đã thành công trong việc thiết lập hệ thống kinh tế thị trường ổn
định và phù hợp, thiết lập lại trật tự kinh tế trong nước, nghiêm trị các hành vi
tham nhũng, chấn chỉnh các tập đoàn và cá nhân từng thao túng nền kinh tế
trong thời kỳ En-xin còn cầm quyền.
+ Đồng thời Nga đã tăng cường sức sống cho khu vực kinh tế nhà nước.
Về chính trị, Nga đã thành công trong việc củng cố quyền lực trung ương và
thiết lập hệ thống chính quyền theo chiều dọc khá ổn định.
13
+ Quan tâm phục hưng nền khoa học - công nghệ, với chính sách và các
chương trình phát triển khoa học - công nghệ, Nga từ một quốc gia dựa trên cơ
sở sản xuất nguyên liệu, thành quốc gia có nền kinh tế công nghệ cao mà trước
hết là: công nghệ chế tạo máy bay, đóng tàu, năng lượng nguyên tử, tổ hợp công
nghiệp quân sự.
2.2 Thực trạng và khủng hoảng vay nợ nước ngoài của Dubai
Dubai là một ví dụ tiêu biểu về sự phát triển kinh tế bùng nổ tới bờ vực vỡ
nợ. Dubai là một quốc gia thành viên, đồng thời cũng là thành phố cùng tên,
thuộc Tiểu vương quốc Arap thống nhất UAE. Tuy nằm trong UAE nhưng
Dubai luôn duy trì được quyền tự trị của họ. Khi hiến pháp của UAE được soạn
thảo, sự độc lập tương đối này của Dubai được công nhận, vì theo hiến pháp
này, mỗi tiểu vương quốc của UAE được phép nắm quyền kiểm soát đối với
nguồn tài nguyên thiên nhiên và đường lối phát triển kinh tế của mình. Theo thời
gian, Dubai dần có sự sáp nhập chặt chẽ hơn vào UAE. Vào năm 1996, tiểu
vương quốc này đã sáp nhập lực lượng quân đội của mình vào đội quân của
UAE. Tuy nhiên, động thái này khi đó được xem là nhằm mục đích để UAE
gánh giúp những khoảng chi phí tốn kém, nhờ đó cho phép Dubai nhẹ gánh để
theo đuổi những than vọng kinh tế của riêng họ.

động sản của Dubai cũng không tránh khỏi bị tác động, khiến các công ty xây
dựng như Nakheel phải chật vật với những dự án chưa hoàn tất và tìm nguồn tài
chính để trả nhà cung cấp. Các nhà đầu cơ biến mất, và hàng nghìn người nước
ngoài cũng như người dân nội địa đã đầu tư vào các ngôi nhà và căn hộ mà
không thể bán được. Giá nhà ở tại Dubai đã rơi xuống gần một nửa, mức sụt
giảm mạnh nhất so với bất cứ đâu trên thế giới.
3. Bài học vay nợ của Malaysia và Indonesia
3.1 Sự thành công từ bài học vay nợ của Malaysia
Từng là một nước thuộc địa của Anh, sau khi giành được độc lập năm
1957, Malaysia đã phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức: nghèo đói,
thất nghiệp cao, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội yếu kém và thiếu vốn trầm trọng
để đầu tư phát triển. Từ những năm 1970, Malaysia nhận được viện trợ của cộng
đồng quốc tế, trong đó có các nhà tài trợ chính là Nhật Bản, Liên hiệp quốc
(UN), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Nguồn
viện trợ này đã góp phần quan trọng giúp Malaysia giải quyết vấn đề đói nghèo
và tái phân phối lại thu nhập.
Từ những năm 1980, viện trợ nước ngoài, với vai trò như vậy đã trở thành
đòn bẩy đưa Malaysia vượt qua điểm xuất phát thấp của nền kinh tế.
Thành công trong việc sử dụng nguồn viện trợ ODA ở Malaysia xuất phát
từ việc tập trung hóa trong quản lý nhà nước. Văn phòng Kinh tế Kế hoạch cùng
với Bộ Ngân khố đóng vai trò chủ yếu trong việc lập kế hoạch và quản lý hành
chính đối với nguồn viện trợ nước ngoài. Văn phòng này đảm nhận các chức
năng chủ yếu là đưa ra mục tiêu, chính sách, kế hoạch ở cấp trung ương; chịu
trách nhiệm phê duyệt chương trình dự án và quyết định phân bổ ngân sách phục
vụ mục tiêu phát triển quốc gia. Còn Bộ Ngân khố chịu trách nhiệm điều phối
những vấn đề liên quan đến tài chính và kế toán. Việc thực hiện các dự án liên
quan đến ODA, cùng việc đánh giá kết quả thực hiện, cũng như có các kiến nghị
thay đổi nếu cần thiết, đều được hai cơ quan này phối hợp rất hiệu quả. “Trái
tim” của Văn phòng Kinh tế Kế hoạch là Bộ phận lập Kế hoạch kinh tế. Bộ phận
15

- Đặc biệt là văn hóa chịu trách nhiệm của các cán bộ quản lý ở Malaysia.
Tóm lại, việc phân cấp và cá thể hóa trách nhiệm trong mỗi bộ phận quản
lý tại Malaysia chính là thế mạnh để hoạt động vay nợ nước ngoài đạt hiệu quả
cao.
3.2 Công tác quản lý và sử dụng vốn vay ở Indonesia
16
Sau ba thế kỷ rưỡi dưới ách đô hộ của thực dân Hà Lan, Indonesia đã
giành được độc lập vào ngày 17/8/1945. Cũng giống như Malaysia, Indonesia
bắt đầu công cuộc xây dựng kinh tế từ nghèo đói và lạc hậu. Ngay từ giai đoạn
1965-1998, Indonesia đã nhận được các khoản đầu tư lớn của các nhà đầu tư
nước ngoài và khoản vay lớn từ cộng đồng quốc tế. Tuy nhiên, việc quản lý và
sử dụng nguồn vốn vay tại Indonesia bị đánh giá là không hiệu quả. Điển hình là
việc sử dụng và quản lý ODA trong lĩnh vực hạ tầng. Mặc dù chiếm phần lớn
tổng vốn ODA vào Indonesia, nhưng đến nay, kết cấu hạ tầng ở Indonesia vẫn
còn yếu kém. Một nguyên nhân không thể không nói tới là nạn tham nhũng
hoành hành ở Indonesia.
Để thay đổi tình hình, khắc phục được hạn chế, từ đầu những năm 2000,
Indonesia cũng điều chỉnh về quy trình thu hút, sử dụng và quản lý vay nợ nước
ngoài như sau:
- Hàng năm các bộ, ngành chủ quản phải lập danh mục các dự án cần hỗ
trợ vay nợ nước ngoài, gửi đến Bộ Kế hoạch quốc gia (BAPPENAS) để tổng
hợp. Bộ Kế hoạch quốc gia thường có quan điểm độc lập với bộ chủ quản, dựa
trên lợi ích tổng thể của quốc gia để xem xét, thẩm định các dự án vay nợ nước
ngoài. Đến nay, rất nhiều dự án bị Bộ Kế hoạch quốc gia từ chối, đã thể hiện rõ
tính độc lập, chủ quyền của Indonesia trong quan hệ quốc tế. Ngay cả địa điểm
ký các dự án vay nợ nước ngoài cũng thay đổi. Nếu trước đây thường ký tại Hoa
Kỳ (trụ sở của WB) hoặc Philippines (trụ sở của ADB), thì đến nay hầu hết các
dự án đều được ký tại Jakarta để tránh việc đoàn đàm phán của Indonesia bị đối
tác nước ngoài gây ảnh hưởng.
- Việc thuê các luật sư giỏi để tư vấn cho Chính phủ trong quá trình đàm

dư nợ nước ngoài của nước ta đã tăng từ 46,7 tỷ USD (2010) lên 66,8 tỷ USD
(2012).
Nợ nước ngoài của Việt Nam trong năm 2012 là khoảng 66,8 tỷ USD ứng
với 41.1% GDP. Con số nợ đã tăng lên về tuyệt đối tuy nhiên so với năm 2010
về tương đối dư nợ nước ngoài đã giảm nhẹ. Tổng dư nợ nước ngoài của Việt
Nam vẫn năm trong giới hạn nợ an toàn (45%GDP) tuy nhiên cũng chỉ cách con
số giới hạn nợ một con số tương đối nhẹ.
Hình 1.1. Tống dư nợ nước ngoài và tống dư nợ nước ngoài so với GDP
của Việt Nam thời kì 2010-2012
Nguồn: Bộ Tài chính
Trong đó nợ nước ngoài của Chính phủ và do Chính phủ bảo lãnh luôn
chiếm tỷ trọng lớn. Đặc biệt, nợ nước ngoài khu vực tư nhân có xu hướng chiếm
tỷ trọng ngày càng cao hơn, trong thời kì 2010-2012 có xu hướng ngày càng
tăng đỉnh điểm là năm 2012 chiếm khoảng 34% trong tổng dư nợ.
19
Hình 1.2. Dư nợ nước ngoài của khu vực tư nhân và khu vực công
giai đoạn 2010-2012
Nguồn: Bộ Tài chính
Tính riêng trong nợ khu vực công, nợ của chính phủ luôn chiếm tỷ trọng
cao hơn hẳn so với nợ nước ngoài do chính phủ bảo lãnh tuy nhiên tỷ trọng nợ
do chính phủ bảo lãnh đang tăng dần trong khu vực nợ công.
Hình 1.3: Tổng dư nợ nước ngoài của Chính phủ và được Chính phủ
bảo lãnh tăng mạnh từ 2010 -2012
Nguồn: Bộ Tài chính
20
Về cơ cấu nợ theo lãi suất, theo Bộ Tài chính, cơ cấu nợ của Việt Nam
chủ yếu là nợ vay dài hạn với lãi suất ưu đãi, trong đó: vay ODA chiếm 75%
tổng số nợ, vay ưu đãi khác 19% và vay thương mại chỉ chiếm 7%. Phần lớn các
khoản vay nước ngoài của Chính phủ là các khoản vay có thời gian dài, từ 20-40
năm, thời gian ân hạn từ 5-10 năm, lãi suất khoảng từ 0,75%-2,5%/năm. Điển

<12%
ĩ
Bảng 1.1 Tiêu chuân phân loại mức độ nợ của Ngân hàng thế giới
Nguồn : World Bank
21
tình hình này, không ít ý kiến của các chuyên gia tài chính cho rằng, Việt Nam
đang đứng trước những rủi ro nợ tiềm ẩn.
2. Bài học kinh nghiệm vay nợ nước ngoài đối với Việt Nam
Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm của các quốc gia nhóm 7 xin rút ra
một số bài học về kinh nghiệm vay nợ nước ngoài với Việt Nam như sau:
- Hoàn thiện thể chế chính sách và công cụ quản lý nợ nước ngoài: rà soát,
tháo gỡ các vướng mắc, ban hành đầy đủ và đồng bộ hóa các cơ chế chính sách
quản lý nợ nước ngoài của quốc gia. Tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung quy
chế quản lý và sử dụng nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA. Đổi mới và
nâng cao chất lượng quy hoạch huy động và sử dụng vốn vay, khắc phục tình
trạng trùng lặp, lãng phí nguồn lực và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay.
- Tiếp tục nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn vay: Tranh thủ
nguồn vốn vay ODA, chủ động huy động nguồn vay ưu đãi ở mức độ hợp lý,
tiếp tục hài hòa hóa thủ tục, hạn chế việc Chính phủ vay thương mại nước ngoài
và bảo lãnh cho các doanh nghiệp. Tăng cường hiệu quả công tác đàm phán
trong vay nợ để hạn chế sự phụ thuộc vào nhà tài trợ, nhất là trong các hợp đồng
xây lắp, mua sắm thiết bị và công nghệ từ nguồn vốn vay nước ngoài, giảm chi
phí đầu vào, tăng hiệu quả đầu tư.
- Tăng cường công tác giám sát, quản lý rủi ro, bảo đảm an toàn về nợ và
an ninh tài chính quốc gia: Tăng cường kiểm tra, giám sát việc sử dụng vốn vay
có hiệu quả để đảm bảo khả năng trả nợ. Thực hiện nghiêm ngặt công tác giám
sát việc huy động, phân bổ, sử dụng vốn vay và trả nợ công, vay trả nợ nước
ngoài của các doanh nghiệp nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn nợ và an ninh
tài chính quốc gia. Tổ chức thực hiện thanh toán trả nợ, đảm bảo trả nợ đầy đủ,
đúng hạn, không để phát sinh nợ quá hạn làm ảnh hưởng đến các cam kết quốc

riêng.
Từ bài học của Châu Mỹ La tinh, Khu vực Đông Á cuối thập kỷ 90, có
thể nhận thấy tầm quan trọng của việc tiết chế trong bước vay nợ để sử dụng
hiệu quả trước khi tiếp tục nguồn vay mới. Đối với Nga và Dubai là 02 quốc gia
sớm gặp khủng hoảng trong giai đoạn đầu khi đi vay nợ nhưng đã vận dụng hợp
lý các chính sách để sử dụng vốn vay hiệu quả, tiếp tục quá trình vay nợ mới.
Cuối cùng 02 quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á, gần gũi về mặt địa lý cũng
như tình hình phát triển kinh tế xã hội với Việt Nam, họ biết vận dụng những
chuyên gia, luật sư giỏi để việc đàm phán vay nợ hiệu quả.
Từ những thành công và cả thất bại của các quốc gia trên trong việc vay
nợ nước ngoài, Việt Nam cần tiếp thu, rút kinh nghiệm những thất bại của các
quốc gia đi trước, đồng thời học hỏi những chiến lược vay nợ phù hợp với thực
trạng đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Hi vọng, trong tương lai,
Việt Nam sẽ có được nguồn vốn vay ổn định và sử dụng hiệu quả để phát triển
đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nghị định số 134/2005/NĐ-CP ngày 01/11/2005 của Chính phủ ban hành
quy chế quản lý vay và trả nợ nước ngoài
2. Quyết định số 958/QĐ-TTg ngày 27/7/2012 của Thủ tướng Chính phủ về
Chiến lược nợ công và nợ nước ngoài của quốc gia giai đoạn 2011 – 2020
và tầm nhìn đến năm 2030
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2012), “Định hướng thu hút, quản lý và sử dụng
nguồn vốn ODA và các khoản vốn vay ưu đãi khác của các nhà tài trợ
thời kỳ 2011 – 2015”, Đề án cấp Bộ, 2012
4. Bộ Tài Chính (2013), “Bản tin nợ công 2”
5. TS. Trần Văn Giao (2010), “Vấn đề vay nợ và quản lý vay nợ của Việt
Nam hiện nay”, Tạp chí cộng sản điện tử số 15, 2010
6. Khánh Huyền (2011), “Vay nợ nước ngoài – cần xây dựng chiến lược”,
Tạp chí Kinh tế số 56, 2011


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status