LUẬN VĂN: Xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay - Pdf 15


LUẬN VĂN:

Xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên
trong điều kiện kinh tế thị trường ở
nước ta hiện nay
mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đảng ta khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy
nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững" [14, tr. 108-109]. ở đây những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình
giáo dục đại học là xây dựng một đội ngũ trí thức có nhân cách đạo đức trong sáng, làm
chủ về chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng tốt yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ tạo ra hệ điều chỉnh bên trong, tự
giác, tự nguyện; làm cho sự quan tâm của con người đối với người khác cũng như đối
với lợi ích của xã hội trở thành nhu cầu và sự thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích
thích tính tích cực trong mỗi con người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ

- Một số tác giả quan tâm nghiên cứu sự biến đổi của đạo đức và thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta: PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến
đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức
mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;
Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998.
- Nhân cách sinh viên và giáo dục nhân cách sinh viên là vấn đề được nhiều tác
giả đặc biệt quan tâm: "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể các nhà khoa học
Liên Xô (cũ), nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin phát hành năm 1983; "Nhân
cách của người sinh viên" của tập thể các nhà khoa học trường đại học Lêningrát, Tủ
sách Đại học Kinh tế kế hoạch năm 1981; Lê Diệp Đĩnh: "Thực trạng tâm lý xã hội của
sinh viên và vấn đề giáo dục nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay", Luận văn

thạc sĩ Triết học bảo vệ năm 1995; Trần Sỹ Phán: "Giáo dục đạo đức với việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ triết
học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1999
Về xây dựng nhân cách đạo đức có tác giả quan tâm nghiên cứu ở phương diện
chung: Trần Thị Tuyết Sương: "Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức con người Việt
Nam trong điều kiện hiện nay", Luận văn thạc sĩ Triết học, bảo vệ tại Viện Triết học
1998
Nhìn chung, các công trình kể trên đã có nhiều đóng góp trong việc làm rõ mối
quan hệ giữa kinh tế và đạo đức với việc xây dựng và giáo dục nhân cách cho sinh viên,
nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống về vấn đề xây dựng
nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: " Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay " làm luận văn tốt nghiệp của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn

viên hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề bức thiết của môn Đạo đức
học và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xã hội: nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh
viên trong nền kinh tế thị trường hiện nay.

Trên bình diện nghiên cứu và những kết quả đã đạt được, chúng tôi hy vọng luận
văn sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên
dạy và học môn Đạo đức học.
Luận văn có ý nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục và xây dựng nhân cách
đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết. Chương 1
Nhân cách đạo đức, tầm quan trọng của việc
xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay

1.1. Nhân cách đạo đức và những nhân tố cơ bản qui định sự phát triển của
nhân cách đạo đức của sinh viên
1.1.1. Nhân cách
Tư tưởng về nhân cách xuất hiện từ Arixtôt (384 - 322 TCN) - nhà Triết học cổ
đại Hy Lạp - khi ông cho rằng, con người là "sinh vật chính trị" (Joon poltikon). ở đây,
bước đầu Arixtôt đã thấy được vai trò của tác động xã hội, của giáo dục đào tạo đối với
sự phát triển con người như là một nhân cách. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế
kỷ XX, lần đầu tiên, hai nhà tâm lý học người Đức Dilthey và Spranger mới đưa ra khái
niệm nhân cách. Theo hai ông, nhân cách là cái "mặt nạ" có tính chất xã hội của cái tôi

này, cái sinh học ngày càng được xã hội hóa, nhân tính hóa nhiều hơn. Nhân cách được
hình thành và phát triển trong quá trình sống, lao động, quan hệ giao tiếp
Tuy nhiên, trên lập trường triết học mác xít, giữa các nhà khoa học cũng có nhiều
định nghĩa khác nhau về nhân cách: Chẳng hạn "Nhân cách là hệ thống những phẩm giá
xã hội của cá nhân thể hiện trong cá nhân, ngoài cá nhân, thông qua hoạt động giao tiếp
của cá nhân ấy" [4, tr. 74]; "Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý của cá nhân đã
hình thành và phát triển từ trong các quan hệ xã hội" [53, tr. 80] hoặc "Khái niệm nhân
cách được thể hiện là toàn bộ đời sống" tinh thần và xã hội của con người bao gồm
"tầng" xã hội và "tầng" tâm lý trong con người. Khái niệm này cho phép hiểu bản chất
Người ở mỗi cá nhân, cái tư cách làm Người của nó, cái phân biệt nó với giống loài
động vật. Tuy nhiên, nhân cách là một khái niệm phức tạp, cần được tiếp cận từ nhiều
phía " [49, tr. 28] và có hàng trăm định nghĩa khác nhau về nhân cách và mỗi ngành
khoa học lại tiếp cận nhân cách từ góc độ nghiên cứu đặc thù của mình, đi sâu vào mặt

này, hoặc mặt khác của nhân cách, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của ngành đó.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các quan điểm đó tập hợp thành hai khuynh hướng cơ
bản:
- Một là: Coi nhân cách như là đặc trưng, chức năng, vai trò, vị trí của con người
trong xã hội.
- Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [48, tr. 11].
Chúng tôi thống nhất với khuynh hướng thứ hai coi nhân cách là đặc trưng bản
chất của con người.
Khi bàn về vấn đề con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đặc biệt chú
ý tới bản chất xã hội của con người, lý giải các quan hệ xã hội tham gia vào sự hình
thành bản chất ấy cũng như vai trò của thực tiễn và hoạt động thực tiễn đối với sự bộc lộ
những sức mạnh bản chất Người, tới sự hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách
Người. Mác đưa ra nhận xét bản chất con người đặc thù không phải là râu của nó,
không phải là máu của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà chính là
phẩm chất xã hội của nó. "Mỗi quan hệ của anh ta đối với con người và đối với giới tự
nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực" [34, tr. 136]. Như vậy, con

Nhân cách đạo đức: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức của nhân cách (nhu
cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức ) được hình thành một
cách lịch sử - cụ thể, được thể hiện, thực hiện trong toàn bộ hoạt động sống của mình
như một cá nhân.
Nếu nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa đức và tài, của những thuộc tính,
phẩm chất, xu hướng bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, dùng để phân biệt cá nhân
này và cá nhân khác thì nhân cách đạo đức lại thể hiện năng lực đạo đức cá nhân, là ý
thức, tình cảm, lý tưởng đạo đức cá nhân. Nhân cách là một khái niệm rộng bao hàm
trong nó phương diện đạo đức, phương diện thẩm mỹ, phương diện nhận thức hoặc
nói cách khác nhân cách bao gồm những phẩm chất đạo đức, phẩm chất thẩm mỹ, phẩm

chất nhận thức tức là những phẩm chất xã hội của con người. Những phẩm chất xã hội
ấy được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của con người
chứ không phải do thiên phú hay là những phẩm chất bẩm sinh. Vì vậy, tất yếu trong
cấu trúc của nhân cách phải bao gồm phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức và
phẩm chất đạo đức của cá nhân.
Tuy nhiên, sự tham gia của nhân cách đạo đức trong cấu trúc của nhân cách
không chỉ được hiểu đơn giản chỉ là yếu tố cấu thành lên nhân cách, dù là yếu tố nền
tảng. Sự tham gia đó biểu hiện mối quan hệ biện chứng giữa nhân cách và nhân cách
đạo đức, nhân cách đạo đức phát triển sẽ là "chất men" kích thích sự phát triển của trí
tuệ, của tư duy sáng tạo và năng lực thực tiễn của nhân cách. Nói đến nhân cách đạo
đức là có ý thức nhấn mạnh phẩm chất đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái
gốc" làm nên nhân cách con người.
Nhân cách đạo đức có sự tương đồng và khác biệt so với đạo đức.
Theo quan điểm triết học mác xít, đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tập
hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng
xử của con người trong quan hệ với nhau và quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện
bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Xét theo góc độ
về mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, cái phổ biến với cái đặc thù và cái đơn nhất
thì đạo đức được cấu thành từ đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân (nhân cách đạo đức).

qua sự phát triển của hoạt động của con người. "Nền tảng của nhân cách là những quan
hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người mà vốn do tiến trình phát triển của
những hoạt động ấy tạo ra" [31, tr. 128], mà yếu tố có liên quan chặt chẽ tới hoạt động
và giữ vai trò động lực của hoạt động là nhu cầu.
Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm xu hướng
của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng của cá nhân, xác định
thái độ của người đó đối với hiện thực và trách nhiệm của bản thân. Nó ảnh hưởng

mạnh mẽ tới lối sống và hoạt động của cá
nhân [24, tr. 51].
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng. Trong tổng hệ nhu cầu có nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần. Trong nhu cầu tinh thần có nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu đạo
đức Nhu cầu đạo đức là nhu cầu con người hướng tới cái thiện, là động lực của những
hành động thiện. Đó cụ thể là nhu cầu tương trợ giúp đỡ người khác, nhu cầu phục vụ tự
nguyện tự giác lợi ích của người khác, lợi ích của toàn xã hội
Trong nhu cầu nói chung, nhu cầu đạo đức nói riêng có sự thống nhất giữa chủ
quan và khách quan. Trước hết, nhu cầu đạo đức là những đòi hỏi khách quan về những
chuẩn mực đạo đức xã hội còn thiếu hụt trong mỗi con người trong những điều kiện
hoàn cảnh nhất định, bảo đảm cho nhân cách đạo đức phát triển hài hòa. Sau đó, nhu
cầu đạo đức khi đã thỏa mãn sẽ trở thành trạng thái chủ quan, thái độ của cá nhân và có
hướng điều chỉnh hành vi, hoạt động, xác định hướng suy nghĩ, tình cảm và ý chí của
bản thân con người. Chính ở phương diện chủ quan, nhu cầu đạo đức trở thành động lực
bên trong của hoạt động. Những yêu cầu về chuẩn mực đạo đức mà xã hội đề ra cho
mỗi người nếu được cá nhân tiếp nhận sẽ thì dần dần chuyển hóa thành nhu cầu, và khi
đó, các yêu cầu của xã hội được từng cá nhân thực hiện một cách tự giác. Sự thỏa mãn
nhu cầu đạo đức sẽ góp phần khẳng định tư cách là một chủ thể đạo đức của con người.
Nhờ vậy, nhu cầu tinh thần ngày càng cao, thúc đẩy hoạt động đạo đức phát triển, tăng
cường mối quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động làm nền tảng cho sự hình thành và
phát triển của nhân cách đạo đức.
Tình cảm đạo đức là một đặc trưng hết sức bản chất của con người nói chung và

nhân. Con người làm nên lịch sử của mình chính nhờ năng lực hiểu biết thế giới và quá
trình không ngừng cải tạo thế giới. Đó là quá trình điều chỉnh, hoàn thiện dần mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với những người xung quanh mình.
Niềm tin được tạo lên từ con tim và khối óc, từ sự kết hợp hài hòa, thẩm thấu lẫn nhau
giữa tình cảm và trí tuệ. Niềm tin là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và qui định mức độ
khám phá, hiểu biết và do đó, nó qui định hành động của mỗi người. Trong hành vi đạo

đức, niềm tin là cơ sở đem đến cho chúng ta một nhận thức, một tâm trạng tốt - xấu,
thiện - ác trước khi hành động. Khi có niềm tin trong sáng con người hoạt động tích
cực hơn, hướng thiện hơn, tạo cho con người một sự tin tưởng vào chính khả năng nhận
thức của mình, vào sự quyết định đúng đắn cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm
tin là điều mà nhân cách đạo đức cần và trước hết phải có để thực hiện một hành vi đạo
đức.
Tri thức đạo đức: Tri thức đạo đức là kết quả của quá trình nhận thức đạo đức, là
sự phản ánh hiện thực đời sống đạo đức của xã hội con người. Giống như tri thức khoa
học, tri thức đạo đức cũng được phân thành hai cấp độ: tri thức đạo đức ở trình độ thông
thường và tri thức đạo đức ở trình độ
lý luận.
Tri thức đạo đức ở trình độ thông thường là những nhận thức, hiểu biết về các
nguyên tắc, chuẩn mực đạo đức tối thiểu trong cuộc sống hàng ngày như thiện, ác, lương
tâm, trách nhiệm Để trở thành một con người có nhân cách đạo đức, họ trước hết phải
nắm được những tri thức đạo đức tối thiểu ấy. Bởi vì, những tri thức đạo đức này là cơ
sở nền tảng để họ đánh giá, nhận thức và thực hiện hành vi đạo đức, cao hơn nữa nó là
những đảm bảo cần thiết cho sự phát triển nhân cách đạo đức. Tuy nhiên, nếu tri thức
đạo đức chỉ dừng lại ở mức độ kinh nghiệm thì nó không đủ sức giải quyết những mâu
thuẫn đang nảy sinh trong hiện thực đời sống mà cần thiết phải có trình độ phát triển
cao hơn của tri thức đạo đức đó là tri thức lý luận.
Tri thức đạo đức ở trình độ lý luận là những tư tưởng, quan điểm, những phạm
trù, những nguyên lý đạo đức có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự hình thành nhân cách
đạo đức. Nhà đạo đức học Bandzeladze đã ví tình cảm và tình cảm đạo đức như động cơ

mỗi dân tộc phải biết chọn lựa những giá trị phù hợp làm định hướng cho hành động
của mình. Lý tưởng đạo đức có vai trò quan trọng trong việc định hướng giá trị, định
hướng mục tiêu cho mọi hành động, tạo ra sự khát vọng, say mê, tạo ra động cơ thúc

đẩy chủ thể trong các hoạt động sáng tạo những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của
mình, của dân tộc mình.
Lý tưởng đạo đức không chỉ phản ánh những giá trị đạo đức căn bản trong thực
tiễn xã hội mà còn phản ánh khả năng thực tế của sự phát triển xã hội tiến tới những giá
trị đạo đức cần có, những giá trị đạo đức cao nhất và hoàn thiện những giá trị đạo đức
ấy đáp ứng yêu cầu trong tương lai con người mong muốn. Trên bình diện nhân cách
đạo đức, lý tưởng đạo đức phản ánh những khát vọng của con người về giá trị đạo đức
với tư cách là mục đích của hành vi, là lợi ích của họ. ở đây, nhu cầu và lợi ích của chủ
thể đạo đức là hai yếu tố căn bản xác định nội dung sự định hướng giá trị đạo đức. Sự
thống nhất biện chứng giữa lý tưởng đạo đức của cá nhân và lý tưởng đạo đức của xã
hội là điều kiện cho chủ thể đạo đức tham gia tích cực vào hoạt động đạo đức xã hội.
Đồng thời nó cũng là một chỉ báo về sự phát triển ý thức đạo đức của con người như
một nhân cách. Tuy nhiên, "đạo đức là lý trí thực hành" nên lý tưởng đạo đức "trừu
tượng" hay "không trừu tượng", có giữ vai trò định hướng cho mọi hành vi đạo đức hay
không chính là thể hiện ở sự vận dụng, sự thực hành của mỗi cá nhân.
Như vậy, tình cảm, niềm tin, tri thức và lý tưởng đạo đức chỉ được thể hiện trong
hiện thực cuộc sống khi nó được vận dụng, thực hành, tức là được thể hiện thông qua
năng lực thực tiễn, qua đó thể hiện năng lực đạo đức của mỗi chủ thể đạo đức.
"Năng lực là một tập hợp hoặc tổng hợp những thuộc tính của mỗi cá nhân con
người, đáp ứng những nhu cầu của hoạt động và bảo đảm cho hoạt động có hiệu quả
cao" [6, tr. 90].
Trong mỗi con người tiềm ẩn nhiều năng lực, nhưng năng lực ấy có được bộc lộ
ra hay không phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện chủ quan và khách quan. Năng lực
đạo đức là một tập hợp những thuộc tính về tâm sinh lý, cùng với những phẩm chất tinh
thần đặc biệt giúp cho mỗi cá nhân có khả năng nhận thức, khả năng đánh giá, khả năng
thực hiện những hành vi đạo đức trong hiện thực.

đức đặc trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình: Nhân cách đạo đức cán bộ lãnh đạo,
nhân cách đạo đức giáo viên Sinh viên, một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương
diện thể hiện tính đặc thù trong nhân cách đạo đức của mình. Nhân cách đạo đức sinh
viên là trường hợp cụ thể của nhân cách đạo đức, là hình thức biểu hiện của tính Người
ở một tầng lớp xã hội đặc biệt.
Nhân cách đạo đức của sinh viên: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức (nhu
cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức ) của người sinh viên.
Nhân cách đạo đức sinh viên được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, trong
hoạt động ứng xử thông qua các quan hệ chủ đạo: quan hệ thày - trò, bạn bè, tình
yêu , trong hoạt động xã hội mà tập trung trong các hoạt động văn thể của cá nhân
mỗi sinh viên.
Xuất phát từ bộ phận xã hội đặc thù nên nhân cách đạo đức của sinh viên, bên
cạnh những biểu hiện chung của nhân cách đạo đức, thì có những biểu hiện đặc thù của
nhân cách đạo đức sinh viên.
Ví dụ: Lý tưởng đạo đức cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là lý tưởng đạo đức cộng sản. ở tầm cao nhất, lý tưởng đạo
đức cộng sản là sự thống nhất giữa quan niệm và biểu tượng về các chuẩn mực, các
quan hệ đạo đức và các nhân cách đạo đức xã hội chủ nghĩa. Họ hiểu rằng sống có lý
tưởng, lý tưởng đạo đức là phải thiết tha với độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả
được đổi bằng biết bao xương máu của các thế hệ cha ông đánh bại mọi kẻ thù xâm
lược dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngày nay đang thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi
mới, đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Họ hiểu rằng muốn củng cố và bảo
vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc thì chỉ có con đường duy nhất là đưa đất nước đi lên
chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng, lý tưởng đạo đức của sinh viên còn được biểu hiện
trong khát vọng học tập, nghiên cứu; biểu hiện ở ý thức trách nhiệm trong học tập, ở sự
nỗ lực, chuyên cần, sáng tạo trong học tập nắm vững những tri thức được học tập trong
trường, vươn lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh chóng hội

nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi trong nền kinh tế tri thức,
dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ, dân tộc đó sẽ chiến thắng.

triển của nhân cách đạo đức, với tư cách là đạo đức của một cá nhân trong cộng đồng xã
hội cũng không nằm ngoài những qui định đó. Vì "con người ta, dù tự giác hay không tự
giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó
người ta sản xuất và trao đổi" [39, tr. 136].
Bị qui định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp qui
định bản chất và đặc trưng của nhân cách đạo đức lại không phải là tất cả các quan hệ
kinh tế, mà nhân tố qui định nhân cách đạo đức ở tầng sâu nhất đó là quan hệ lợi ích.
Bởi cái lõi vật chất của đạo đức là vấn đề lợi ích, không xuất phát từ lợi ích thì tư tưởng
đạo đức không có cơ sở và càng không thể hiểu được hành động trong thực tiễn lịch sử
của con người. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt đạo đức của nhân cách.
Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng là tập hợp
của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do lợi ích và thông
qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có
sự thống nhất về mục đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được" [38,
tr. 21]. Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân lại có nhu cầu, lợi ích riêng, khác nhau, thậm chí nhiều
khi lợi ích cá nhân lại đối lập với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình. Sự phát triển của
con người nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng chỉ có thể phát triển đúng qui luật khi
mỗi cá nhân tự giác nhận thức đúng đắn, giải quyết hài hòa về mối quan hệ cá nhân - xã
hội xét trên phương diện lợi ích. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ:
Chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một cách tự
nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích riêng và lợi ích

chung chừng đó bản thân con người sẽ trở thành một lực lượng xa lạ, đối
lập với con người và nô dịch con người, chứ không phải bị con người thống
trị [36, tr. 47].
Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con người. Con
người, ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước hết vì lợi ích của bản thân mình. Vì

động. Quá trình tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách đạo đức. Bởi nhân cách đạo đức nói
riêng và đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các
nhu cầu và lợi ích.
Sự phát triển nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền
thống đạo đức. Đồng thời nó cũng bị qui định bởi nhân tố văn hóa tinh thần xã hội và
gắn liền với sự phát triển của văn hóa tinh thần trong mỗi cá nhân. Đạo đức truyền
thống có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành những kiểu mẫu hành vi đạo đức, đến sự
đánh giá và những tình cảm đạo đức. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là một nhân
tố phát triển nhân cách đạo đức phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị
truyền thống trong hoàn cảnh mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân.
Văn hóa tinh thần xã hội là tổng hòa của văn hóa tinh thần cá nhân, tuy nhiên
đây không phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa tinh thần cá nhân mà nó là sự
kết tinh những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra
đã được sống, được tiếp nhận một hệ các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa tinh
thần xã hội. Những giá trị, chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống
tri thức xã hội, trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ Chúng ta không
thể nói đến nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh. Nhân cách, nhân cách đạo đức của con
người dần được hình thành và phát triển trong môi trường họ sống một cách gián tiếp
thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế giới quan,
những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức có vị trí quan trọng trong việc hình
thành và phát triển nhân cách đạo đức.

Thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Nó được cấu thành từ
những yếu tố cơ bản là tri thức, niềm tin, lý tưởng. Nó là hạt nhân của nhân cách, là cơ
sở để hình thành các quan điểm, tư tưởng chính trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Từ đó,
con người tự nhận thức về mình, tự rút ra những nhận định cần thiết trong mối quan hệ
với các thành viên khác và xã hội. Vì vậy, một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan
trọng nhất để xây dựng một nhân cách, nhân cách đạo đức toàn diện. Nói cách khác, thế

xã hội cần đạt đến. Đây là điều không thể làm trong hiện thực cuộc sống!
Trong hiện thực cuộc sống, sự hình thành và phát triển của đạo đức với tư cách là
hình thái ý thức xã hội và nhân cách đạo đức của con người không diễn ra đơn giản như
vậy. ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, của môi trường xã hội đối với nhân cách đạo đức
không phải là quá trình thuận một chiều.Với sức sáng tạo của tư duy trí tuệ và thông qua
hàng loạt các hoạt động trong thực tiễn, nhân cách, nhân cách đạo đức của con người tự
biểu hiện, tự khẳng định chính mình. Là sản phẩm của tự nhiên, của lịch sử - xã hội, đến
lượt mình con người lại tác động vào tự nhiên nhằm khai thác mọi tiềm năng tự nhiên phục
vụ mục đích và nhu cầu của mình, tái tạo "tự nhiên thứ hai" cho đời sống con người. Là chủ
thể sáng tạo, tự ý thức, tự giác hành động, bằng năng lực tuyệt đối và riêng có là hoạt động
thực tiễn, con người ngày càng nắm bắt được qui luật tự nhiên, qui luật xã hội, ngày
càng có khả năng sáng tạo to lớn để chinh phục tự nhiên và cải tạo xã hội làm nên lịch
sử nhân loại. Đồng thời với quá trình này, con người không ngừng cải tạo bản thân
mình. Những hoạt động thực tiễn ấy có ảnh hưởng không nhỏ tới phương hướng và hiệu
quả tác động của môi trường xã hội đối với sự phát triển nhân cách, nhân cách đạo đức.
Mỗi cá nhân phản ứng trước sự tác động của môi trường một cách khác nhau, thể hiện
trong bản thân mình nét này hoặc nét khác của môi trường tạo nên sự phong phú, đa dạng
của nhân cách con người.
Ngoài những nhân tố chung qui định sự hình thành và phát triển của nhân cách
đạo đức, sự hình thành nhân cách đạo đức của sinh viên còn chịu sự qui định của những
nhân tố sau:
Thứ nhất, về đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi.

Trích đoạn Xu hướng biến đổi của nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh cơ sở để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Việt Nam Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Nâng cao vai trò của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status