LUẬN VĂN: Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay doc - Pdf 15


LUẬN VĂN:
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con
người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay

Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người, từ khá sớm trong lịch sử nhận thức cho đến tận hôm nay, vẫn được
nhiều học thuyết khoa học xã hội coi là chiếm vị trí trung tâm của sự phát triển. Tất nhiên,
trong mỗi thời đại, con người được chú ý nghiên cứu trên các bình diện khác nhau. Đến
nay, quan điểm hiện đại về phát triển con người đã được thừa kế, bổ sung bằng nhiều nội

an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, đánh mất bản sắc văn hóa truyền thống,
v.v
ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, trong bản "Tuyên ngôn
độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế giới về quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm của mọi người và mọi dân tộc. Người nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để
thực hiện các quyền của con người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao của
mọi hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con người là sự kết
tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt Nam qua mấy ngàn năm
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Phát triển là của con người, do con người và vì con
người - đó là giá trị trường tồn của nhân loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự nghiệp giải
phóng, xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Đặc biệt, trong 20 năm qua, bằng việc
thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với khu vực và thế
giới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã mở
rộng không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các cơ hội và
điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người ngày càng được xác lập, bảo đảm và mở
rộng. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của công cuộc đổi mới ở nước ta trong gần 20
năm qua là thành tựu về phát triển con người.

Chúng ta đạt được những thành tựu đó là nhờ có sự nhận thức một cách toàn diện
về vấn đề phát triển con người, coi nguồn lực con người là "giá trị quý báu nhất" và đóng
vai trò quyết định nhất; con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển.
Trong các văn kiện của mình, Đảng ta luôn chú trọng đến việc đề ra những chính sách nhằm
phát huy có hiệu quả cao nhất nguồn lực con người. Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước

trường phái triết học hiện đại mặc dù đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt ra vấn đề phải
lượng hóa sự phát triển con người một cách triệt để trong thực tiễn.
Như đã biết, vấn đề phát triển con người đã được C.Mác đề cập năm 1848 trong
tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". ở đây, phát triển con người đã được C.Mác
xác định như là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê phán những hạn chế của chủ nghĩa
tư bản, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có giai cấp
công nhân mới có đủ khả năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc cách mạng
vô sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ xóa bỏ mọi sự
áp bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo đầy đủ những
điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người, trong đó, "sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]
Phấn đấu vì sự phát triển của con người là mục tiêu chung của các Đảng Cộng sản
trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong sự nghiệp xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề lượng hóa sự phát triển con người cùng với sự xác định nội hàm hiện đại
của khái niệm "phát triển con người" (Human development) được UNDP (United Nations
Development Programme) đưa ra vào năm 1990 trong báo cáo đầu tiên về phát triển con
người. Người đề xuất và sử dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong năm này
chỉ số HDI (Human Development Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo chỉ số phát
triển con người và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người" (Human
Development Report - HDR) của UNDP được xuất bản để đánh giá những thành tựu và
hạn chế của các quốc gia về phát triển con người, nghiên cứu những cơ hội và thách thức
cũng như trao đổi những kinh nghiệm về phát triển con người trên phạm vi thế giới vì sự
tiến bộ và văn minh của nhân loại.
Đây là vấn đề khá mới mẻ và đã được nhiều nhà khoa học Việt Nam nghiên cứu ở
các góc độ khác nhau:
- Một số nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu về phát triển con người nhưng chủ
yếu với tính cách là nguồn nhân lực, xem xét vai trò của con người, coi con người là động

mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ thống các
quan điểm cơ bản về phát triển con người, phân tích thực trạng và luận chứng một số giải
pháp phát triển con người ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả về mặt lý
luận, lẫn thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn chọn đề tài "Một số quan
điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt
Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trên cơ sở kế thừa giá trị của các công trình đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bước đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn đề phát triển
con người, từ quan điểm của các nhà triết học trước Mác, quan điểm của C.Mác và của
quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về phát triển
con người, đánh giá thực trạng phát triển con người ở nước ta trong thời gian qua và chỉ ra
một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số giải pháp
cho phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề
sau:
- Thứ nhất, luận văn làm rõ quan niệm của một số nhà triết học trước C.Mác, quan
niệm của C.Mác và quan điểm của các nhà triết học hiện đại về phát triển con người, đặc
biệt là về phát triển con người của UNDP; phân tích, làm rõ nội hàm và phương thức
nghiên cứu định lượng về khái niệm phát triển con người của UNDP, theo đó làm rõ các
nội dung có liên quan đến sự phát triển con người ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay.
- Thứ hai, luận văn trình bày sự nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát
triển con người; phân tích thực trạng phát triển con người ở Việt Nam trong những năm
gần đây, chỉ ra những thành tựu và hạn chế của thực trạng này.
- Thứ ba, luận văn cố gắng nêu ra một số nguyên nhân cơ bản dẫn đến những hạn
chế trong lĩnh vực phát triển con người, từ đó luận giải một số phương hướng và giải pháp
để phát triển con người Việt Nam bền vững. qua đó thấy được chương trình và mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và của cả dân
tộc vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con người, do con người,
vì sự giải phóng và phát triển của chính bản thân con người.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách phát triển con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết. Chương 1
Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người

Con người là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học và nó đã được quan
tâm ngay từ thời kỳ sơ khai của loài người. Đặc biệt, khoa học triết học đã nghiên cứu con
người ở mức độ khái quát nhất và sớm nhất trong lịch sử. Tuy nhiên, không phải ngay từ
thời cổ đại người ta đã có quan điểm đúng đắn về con người và càng chưa bàn đến vấn đề
phát triển con người. Chỉ đến khi nền triết học đã phát triển rất cao, vấn đề phát triển con
người mới được đánh giá một cách tương đối hệ thống, đầy đủ. Điều này thể hiện rõ nét
qua lịch sử phát triển của triết học.
1.1. Quan điểm phát triển con người trong lịch sử triết học trước Mác
Khi nghiên cứu vấn đề con người, triết học phương Đông, điển hình là triết học ấn

người. Prôtagora đã coi con người là thước đo của mọi vật đang tồn tại và lần đầu tiên,
ông đưa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa người với người, khẳng định thượng đế
tạo ra mọi người đều là người tự do, tự nhiên không ai biến thành nô lệ cả, con người
được tự do phát triển về mọi mặt. Arixtốt coi con người là một động vật chính trị, một
sinh vật xã hội được cố kết trong một cộng đồng người, trong một xã hội nhất định, "ông
cho rằng, để con người phát triển được thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho người
dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và người dân phải có nghĩa vụ đối với xã
hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà triết học Hy Lạp - La Mã
đã đưa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con người và phát triển con người. Đó là
những cơ sở để các nhà triết học sau này tiếp tục phát triển.
Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trường phái triết học
Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh sự tồn tại của
Thượng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý do sự quy định của Thượng
đế. Các trào lưu triết học thời kỳ này đều cho rằng, con người là sản phẩm của thượng đế
và Thượng đế có vai trò tối cao đối với đời sống của con người. Giăngxicốt Ơrrgiennơ cho
rằng, con người không có tự do mà sự tự do của con người chỉ có được khi trở về "thế giới

bên kia" và chỉ có thượng đế là tự do tuyệt đối, còn con người không có quyền tự do định
đoạt cuộc sống của mình.
Sang thời kỳ Phục hưng và Cận đại, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được
hình thành và phát triển, giá trị văn hóa cổ đại Hy - La được khôi phục trên cơ sở của nền
kinh tế mới, các giá trị của con người mà từ lâu bị chế độ phong kiến chà đạp và bị nhà
thờ Thiên Chúa giáo Trung cổ làm lu mờ, hoặc trở nên huyền bí… đã được phục hưng lại
theo tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo. Các nhà triết học thời kỳ này (với một số đại biểu
như: Bêcơn, Hốp xơ, Lốccơ, Đềcáctơ, Rútxô…) đã đấu tranh quyết liệt với những quan
niệm tôn giáo thần bí xoay quanh vấn đề con người. Triết học thời kỳ này đã chứng minh
sức mạnh vĩ đại của con người, đề cao vai trò thực tiễn của con người, xem con người là

người, coi con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của mình.
Con người trong triết học của L.Phoi-ơ-bắc là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả của sự
phát triển của tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên nằm trong một thể thống nhất hữu cơ
không thể tách rời. Tuy nhiên, xét về mặt xã hội, ông chỉ thấy con người có quan hệ duy
nhất là quan hệ tình yêu; từ đó, ông kêu gọi mọi người hãy đối xử với nhau bằng quan hệ
tình yêu tôn giáo và trong điều kiện như vậy, con người được tự do phát triển bằng tình
yêu của chính họ. Vì vậy, con người phát triển là đạt đến mục tiêu của một tình yêu phổ
biến, phi giai cấp, phi lịch sử.
Triết học phi mácxít hiện đại với sự phát triển tuy phong phú nhưng đầy tính phức
tạp với nhiều trường phái khác nhau như: chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện sinh, chủ
nghĩa thực dụng, hiện tượng học, chú giải học… đã xem xét vấn đề con người và phát
triển con người ở từng khía cạnh khác nhau. Triết học hiện sinh đi vào cái tôi cá nhân và
con người phát triển để trở về với cái tôi đích thực trừu tượng của mình; hay triết học nhân
bản lại nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh, di truyền, mang tính bản năng và coi đó là sự tồn tại
đích thực, để trở về với cái vô thức… Nói chung, trong triết học phi mác xít hiện đại, mỗi
trường phái đi vào xem xét theo những khía cạnh riêng lẻ, theo từng "thuộc tính cố hữu"
của con người. Sự phát triển con người là quá trình đi tìm đến cái tôi của cá nhân chung
chung trừu tượng.

Như vậy, trước khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, vấn đề con người và phát triển
con người đã được các nhà triết học bàn đến. Tùy theo lập trường triết học của mình, các
nhà triết học khác nhau đã xem xét sự phát triển con người ở các khía cạnh khác nhau, các
nhà triết học duy tâm xem xét sự phát triển con người ở khía cạnh tinh thần, đó là sự phát
triển của trí tuệ, sự trở về của "tinh thần tuyệt đối". Ngược lại, các nhà triết học duy vật, mặc
dù đề cao con người hiện thực, tìm mục tiêu phát triển con người ở chính thế giới hiện
thực, song cũng chưa có nhà triết học nào đề ra được mục tiêu xóa bỏ sự áp bức, bóc lột
trong đời sống của hiện thực của con người. Ngay cả L.Phoi ơ bắc, nhà triết học duy vật

chất con người. Các ông cho rằng, bản thân cái trừu tượng tư biện chẳng qua chỉ là sản
phẩm, là sự thể hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó. Từ đó,
các ông đi đến quan niệm: để nghiên cứu bản chất đích thực của con người, nhận thức
đúng đời sống con người thì phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống sinh hoạt hiện thực
của con người, từ hoạt động lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn của con người và chỉ
bằng cách đó mới có được những tri thức đúng đắn về con người hiện thực, về những hoạt
động của con người ấy.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đối lập quan điểm của mình với quan điểm của các nhà
triết học duy tâm, duy vật siêu hình và nhấn mạnh sự mới mẻ trong cách tiếp cận của
mình. Tuy C.Mác và Ph.Ăng ghen vẫn sử dụng các khái niệm của các nhà triết học tiền
bối nhưng nội dung thì hoàn toàn mới để luận chứng cho quan điểm duy vật lịch sử. Các
ông không đặt vấn đề cấp bách trong việc xem xét những lập luận trừu tượng, tư biện về
đời sống sinh hoạt của con người có nội dung khách quan hay không, mà cho rằng, bản
thân đời sống sinh hoạt của con người vốn mang tính hiện thực. Hoạt động cơ bản của con
người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá nhân nắm quyền làm chủ tư
liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn khổ của những quan hệ sản xuất và giao
tiếp nhất định. Vì vậy, các khái niệm đó dù có trừu tượng, tư biện, nhưng đó là những khái
niệm phản ánh hoạt động, sinh hoạt của hiện thực, phản ánh hoạt động sản xuất của con
người, nên tất yếu nó cũng mang tính khách quan.
Với C.Mác và Ph.Ăngghen thì hiện thực bao giờ cũng mang tính đặc thù, nhiệm
vụ của nhận thức là đạt tới và phản ánh đúng tính cụ thể, đặc thù đó. Những lập luận trừu
trượng về con người, về hoạt động con người thực chất chỉ là phương tiện, công cụ để

nhằm giải quyết nhiệm vụ đó. Nhưng để có được các lập luận đó một cách đúng đắn thì
phải xem xét trong những trường hợp cụ thể với những quan hệ cấu thành cơ sở hiện thực
của chúng. Vì vậy, khi xem xét con người phải xuất phát từ chính những con người với tư
cách là những "cá nhân kinh nghiệm", những cá nhân trong đời sống sinh hoạt trong quan

ngược lại không có xã hội chung chung trừu tượng mà thiếu vắng những con người hiện
thực. Tuy nhiên, xã hội không phải là tập hợp giản đơn những cộng đồng con người, bởi
trong xã hội, ngoài sự hiện diện của tập hợp người còn có những mối liên hệ gắn kết với
con người, cộng đồng người liên kết với nhau thành một hệ thống. Trong quan niệm của
C.Mác, xã hội không phải là những cá thể người, mà biểu hiện tổng số những mối liên hệ
và quan hệ của con người trong đó những cá thể này tồn tại đối với nhau. Xã hội là sản
phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Do vậy, quan hệ xã hội là tổng thể
những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong chừng mực nào đó, nó còn bao hàm
cả những quan hệ với tương lai. Bản chất con người không phải là bất biến, mà nó luôn
vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của hoàn cảnh sống, của thời đại, gắn liền với
phương thức sản xuất của một chế độ xã hội nhất định.
- Về phát triển con người, các nhà triết học trước Mác cũng đã bàn đến, trong đó
họ đưa ra một số luận điểm với mong muốn phát triển con người, muốn tìm lại xã hội tốt
đẹp kiểu Nghiêu - Thuấn như trong triết học Trung Quốc cổ đại hoặc mong muốn có một
xã hội tự do và bình đẳng của công dân như quan điểm của các nhà triết học ánh sáng.
Nhưng, phải đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, thì vấn đề phát triển con người mới được bàn
đến như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng
về con người, coi con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội và xem xét mối quan hệ
giữa con người với tự nhiên và xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã xây dựng học thuyết về
phát triển con người, trong đó giải phóng con người và xã hội là mục tiêu cơ bản và đầu
tiên phải hướng tới.
Năm 1848, trong tác phẩm "Tuyên ngôn Đảng Cộng sản", C.Mác đã đưa ra quan
niệm về phát triển con người, khi bàn đến sự phát triển tự do của con người. Với mong
muốn giải phóng con người khỏi mọi áp bức, bóc lột, tiến tới xây dựng một xã hội mới.
Xã hội mới đó chính là "một liên hợp, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều
kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]. Với tư tưởng khoa học và



Để có thể thực sự giải phóng và phát triển con người, theo C.Mác, tất yếu phải
xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay vào đó một hình thái kinh tế - xã
hội mới cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế xã hội cũ
bằng một xã hội mới, tốt đẹp hơn chính là nhằm phục vụ con người, vì sự phát triển tự do,
toàn diện của con người.
Để con người được phát triển toàn diện thì việc xây dựng xã hội mới - xã hội cộng
sản chủ nghĩa - là yêu cầu, là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của giai cấp công
nhân và nhân dân lao động. Trong xã hội đó, con người mới thực sự tự mình làm ra lịch
sử của mình một cách tự giác, con người mới trở về với bản chất đích thực của mình.
Trong xã hội đó, như C.Mác khẳng định:
Cuộc đấu tranh để sinh tồn của cá nhân sẽ chấm dứt. Do đó, mà lần đầu tiên, con
người tách hẳn - theo một ý nghĩa nào đó - khỏi thế giới thú vật, chuyển từ điều kiện sinh
tồn của thú vật sang điều kiện sinh tồn thật sự của con người… Tổ chức xã hội của con
người, từ trước tới nay vẫn đối lập với con người như những cái do tự nhiên và lịch sử áp
đặt cho con người thì giờ đây biến thành hành động tự do của bản thân con người. Những
lực lượng khách quan, xa lạ, từ trước đến nay vẫn thống trị lịch sử, thì sẽ do chính con
người kiểm soát. Chỉ từ lúc đó, con người mới bắt đầu tự mình làm ra lịch sử của chính
mình một cách hoàn toàn tự giác [25, tr. 392-393]
Giải phóng xã hội, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, là giải phóng từng cá nhân riêng
biệt trong xã hội, đưa mỗi người trở thành người làm chủ xã hội, vì "xã hội không thể nào
giải phóng mình được, nếu không giải phóng mỗi cá nhân riêng biệt" [25, tr. 406], giải
phóng cá nhân tạo động lực cho giải phóng xã hội và đến lượt nó, giải phóng xã hội trở
thành điều kiện thiết yếu cho giải phóng cá nhân trong xã hội.
Giải phóng con người là cơ sở cho sự phát triển tự do của con người. Trong xã hội
cộng sản chủ nghĩa, con người được giải phóng, đứng ở hàng đầu của sự phát triển lịch sử,
họ vừa là sản phẩm, vừa là chủ thể của bản thân nền công nghiệp hiện đại; họ trở thành
những người chủ đích thực của xã hội, có đầy đủ các điều kiện để phát huy năng lực của
mình mà không bị hạn chế bởi lực lượng nào cả. C.Mác viết: "Trong xã hội cộng sản…


giai đoạn hiện nay.

1.3 Quan điểm phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (UNDP)
Mục tiêu của học thuyết Mác - Lênin là đưa loài người đến một xã hội dân chủ,
bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Với cách tiếp cận duy vật biện chứng và khoa học,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chứng minh rằng, dù sớm hay muộn, loài người tất yếu
sẽ vượt qua mọi rào cản để đi đến xã hội đó. Hiện nay, không một dân tộc nào lại không
đặt ra cho mình những mục tiêu phát triển nhưng chưa hẳn là đều hướng đến sự giải
phóng, phát triển của con người. Tính chất của thời đại ngày nay đã có nhiều thay đổi so
với thời kỳ học thuyết Mác mới ra đời. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể về phát triển con
người cần phải được bổ sung thêm cho đầy đủ. Nhưng tựu trung lại, những mục tiêu ấy,
về nguyên tắc, không khác với học thuyết Mác. Có thể nói, những nội dung về phát triển
con người mà C.Mác đưa ra vẫn là tinh thần cơ bản xuyên suốt trong chiến lược phát triển
con người của nhiều nước trên thế giới, mặc dù các nước đó không nói rõ như vậy. Vì
vậy, theo chúng tôi, quan điểm của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) về
phát triển con người không phải tự nó xuất hiện từ hư vô, chẳng những không mâu thuẫn
mà nó ít nhiều đã có sự kế thừa những thành tựu của học thuyết Mác: Mác coi sự phát
triển tự do của mỗi người và mọi người là mục tiêu tối thượng, còn UNDP thì coi phát
triển con người là mục tiêu cần đạt tới của các quốc gia thuộc Liên hợp quốc.
Trong số các nội dung của phát triển con người, xóa đói nghèo là một trong những
nội dung quan trọng. Trong nhiều thập kỷ qua, tình trạng đói nghèo luôn là sự nỗi ám ảnh
nhiều quốc gia trên thế giới. Nhân loại vẫn hằng mong ước một cuộc sống ngày càng đầy
đủ, sung túc hơn. Vì vậy, mở rộng năng lực sản xuất, phát triển kinh tế trở thành mục tiêu
phấn đấu của các quốc gia. Sự khác biệt về đời sống giữa các nước phát triển với các nước
đang phát triển và chậm phát triển đã chứng minh tầm quan trọng của sự tăng trưởng kinh
tế. ở các nước có thu nhập thấp, người dân luôn phải đối mặt với tình trạng thiếu lương

đến giáo dục, y tế, sức khỏe cộng đồng, Vì vậy, chưa đảm bảo sự phát triển bền vững
của xã hội, chưa hẳn đã nâng cao đời sống văn hóa cho con người… Chỉ riêng sự tăng
trưởng kinh tế cũng không thể đảm bảo được yêu cầu cho sự phát triển công bằng, bình
đẳng xã hội. Chạy theo mục tiêu đó, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho sự phát triển của
mình, đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng tệ nạn xã hội phát triển tràn lan, xung
đột xã hội thường xuyên nổ ra, đời sống văn hóa suy đồi…

Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, loài người nhận thấy sự tăng trưởng kinh
tế nhanh không có nghĩa là xã hội đã ổn định và phát triển; kinh tế tăng trưởng cao không
có nghĩa là đời sống vật chất và tinh thần của con người theo đó mà được phát triển lành
mạnh, phong phú; sự tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với sự tiến bộ xã hội. Vì vậy,
loài người đã chuyển sang quan điểm phát triển toàn diện và bền vững, nghĩa là sự phát
triển phải bao hàm cả phát triển kinh tế và phát triển xã hội, mục tiêu tăng trưởng kinh tế
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, cũng như vì đời sống công
bằng, tiến bộ, văn minh và hạnh phúc cho nhân dân. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với phát
triển văn hóa, phát triển xã hội và phát triển con người. Vì vậy, khái niệm "nguồn nhân
lực", "vốn người" được xem là yếu tố quyết định nhất trong các yếu tố tác động đến sự
phát triển kinh tế, xã hội. Song, ở khía cạnh này dễ rơi vào sự hiểu nhầm, coi con người
như là công cụ, là phương tiện cho phát triển kinh tế, xã hội và như vậy, con người vẫn
chưa phải là mục tiêu cuối cùng của phát triển xã hội.
Đến cuối những năm 1980, đầu những năm 90 của thế kỷ XX ra đời cách tiếp cận
mới của Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP), quan điểm nền tảng của
chương trình này là lấy con người làm mục tiêu tối thượng của sự tăng trưởng kinh tế,
phát triển xã hội, nghĩa là coi các nhân tố khác của xã hội chỉ như là phương tiện để phát
triển con người, và lấy phát triển con người làm nhân tố cao nhất để đánh giá tính ưu việt
và hạn chế của đường lối, chính sách và thực hiện cải tạo xã hội của các quốc gia.
Theo quan điểm của chương trình này, phát triển con người "là sự mở rộng phạm

các năng lực này thì đòi hỏi con người phải có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu và cần thiết.
Vì vậy, các hoạt động chăm sóc con người về y tế, giáo dục, văn hóa… có vai trò rất quan
trọng trong việc hình thành các năng lực cho con người, phải có một chiến lược toàn diện
về xây dựng và phát triển con người.
Quan niệm về phát triển con người bao hàm các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu của phát triển là vì con người, vì việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần một cách hiệu quả, bền vững. chứ không phải là sự gia tăng đơn thuần về
mặt của cải vật chất. ở đây, tăng trưởng kinh tế chỉ là một trong những điều kiện cần, là
một phương tiện cực kỳ quan trọng để phát triển con người, song nó vẫn không phải là
mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. Nhìn vào thực tế nhiều nước trên thế giới, ta thấy,

tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với việc phát triển con người, bản thân sự tăng
trưởng kinh tế đã chưa hẳn kích thích sự phát triển con người mà vấn đề có ý nghĩa quyết
định, đó là vấn đề sử dụng những thành quả của tăng trưởng kinh tế để đầu tư vào cho con
người như thế nào mới là chìa khóa cho sự ổn định xã hội và phát triển con người bền
vững.
Phát triển con người là mục tiêu tối thượng của xã hội, mục tiêu đó được thể hiện
trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, văn hóa… nghĩa là mục
tiêu của tất cả các lĩnh vực này lấy phát triển con người là cơ sở đề ra đường lối, quy định
con đường phát triển cho nó, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo của toàn bộ quá trình phát
triển này.
Thứ hai, phát triển con người phải được xem xét một cách toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội. Cách tiếp cận này đề cập đến sự mở rộng các điều kiện,
không gian xã hội cho sự lựa chọn của con người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã
hội, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… trong mối liên hệ và
tác động qua lại giữa các yếu tố này, chứ không chỉ giới hạn trên phạm vi kinh tế.
Cách tiếp cận toàn diện còn chú ý đến tất cả các tầng lớp người, không phân biệt


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status