LUẬN VĂN: Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay - Pdf 15



LUẬN VĂN:

Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây
dựng lối Sống mới cho sinh viên Việt nam
hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sinh viên là một lực lượng xã hội đặc thù, có vai trò hết sức quan trọng trong quá

Đại hội Đại biểu toàn Hội sinh viên Việt Nam lần thứ VIII (tháng 2- 2009) đã
đánh giá:
Sinh viên Việt Nam đã phát huy được những ưu điểm và truyền thống
tốt đẹp của các thế hệ sinh viên đi trước, thi đua học tập, rèn luyện, tiếp thu
tiến bộ khoa học, công nghệ, chủ động tiếp thhu nét đẹp của sinh viên quốc
tế, tạo nên lớp sinh viên những năm đầu thế kỷ XXI mang tính cách truyền
thống và thời đại Tuy nhiên, nhiều sinh viên còn mang nặng tính bình quân
chủ nghĩa , một bộ phận sinh viên chưa xác định được mục tiêu, động cơ
học tập đúng đắn, thiếu kiên trì, quyết tâm, chưa chăm chỉ học tập, thiếu
trung thực trong thi cử, kiểm tra, chưa thể hiện rõ ước mơ, hoài bão, thụ
động, thiếu ý chí vươn lên, ứng xử kém, tinh thần trách nhiệm xã hội còn hạn
chế, có những biểu hiện chưa tốt về lối sống , mắc tệ nạn xã hội, vi phạm
pháp luật, một bộ phận sinh viên còn dễ bị lợi dụng, lôi kéo vào những hoạt
động với mục đích xấu [2, tr 2-3].
Đứng trước thực trạng đó, việc xây dựng lối sống mới- lối sống xã hội chủ nghĩa-
cho sinh viên cũng như tìm hiểu những nhân tố tác động đến lối sống của sinh viên Việt
Nam hiện nay có tính cấp thiết cả về lý luận lẫn thực tiễn. Với ý nghĩa đó, tác giả chọn:
“Giá trị đạo đức truyền thống với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
hiện nay làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề truyền thống và giáo dục giá trị truyền thống đã từng thu hút sự chú ý,
quan tâm của các nhà lãnh đạo, quản lý giáo dục, của giới lý luận trong và ngoài nước
Đảng cộng sản Việt Nam qua các thời kỳ cách mạng luôn chú trọng và phát huy
các giá trị truyền thống của dân tộc và đã tạo ra được sức mạnh to lớn trong sự nghiệp
đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc xây dựng CNXH . Nhiều chủ trương,
đường lối nhằm phát huy giá trị truyền thống dân tộc của Đảng đã được thể hiện trong

các văn kiện của nhiều kỳ đại hội, đặc biệt là đại hội VII, VIII, IX, X và các Nghị quyết
khác của Trung ương.
Đã có những công trình chuyên khảo nghiên cứu về truyền thống và giá trị truyền

2001; ; “ Giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam và cái phổ biến toàn nhân loại của đạo
đức trong nền kinh tế thị trường” của Trần Nguyên Việt, Tạp chí Triết học, số 5- 2000;
“ Kế thừa tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện
nay” của Lê Sỹ Thắng, Tạp chí Triết học, số 5- 2002; “ Một số biểu hiện của sự biến
đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc
phục” của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6- 2002; “ Khoa học công nghệ
và đạo đức trong nền kinh tế thị trường” của Nguyễn Đình Hoà, Tạp chí Triết học, số 6
– 2002; “ Từ cái thiện truyền thống đến “ cái thiện” trong cơ chế thị trường ở Việt Nam
hiện nay” của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí triết học, số 8 – 2002; “ Quan hệ biện chứng
giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên hiện nay”, Luận
án tiến sỹ triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; “ Tiêu chuẩn đạo đức của người cán
bộ lãnh đạo chính trị hiện nay” của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính trị, số 5 –
2003
Một số công trình khác đã đi sâu vào nghiên cứu giáo dục truyền thống, kết hợp
giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đào tạo, bước đầu đã đưa ra một số giải
pháp giáo dục truyền thống cho thanh niên, học sinh, sinh viên, như: “ Giáo dục đạo
đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách sinh viên Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay”, Luận án tiến sỹ Triết học của Trần Sỹ Phán, 1999; “ Tình cảm đạo đức và
giáo dục tình cảm đạo đức trong điều kiện hiện nay”, Nguyễn Văn Phúc, Tạp chí Triết
học, số 6-2000; “Lý tưởng đạo đức và việc giáo dục lý tưởng đạo đức cho thanh niên
trong điều kiện hiện nay” của Đoàn Văn Khiêm, Tạp chí Triết học, số 2- 2001; “ Kết
hợp chặt chẽ giáo dục lý luận với xây dựng đạo đức mới của người cán bộ lãnh đạo
quản lý” của Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Lý luận Chính trị, số 4- 2001; “ Giáo dục
truyền thống cho thanh niên”, Lương Ngọc, Nxb Thanh niên, HN, 1992; “ Kết hợp
truyền thống và hiện đại trong quá trình đổi mới giáo dục đào tạo ở Việt Nam hiện
nay”, Luận án tiến sỹ của Nguyễn Lương Bằng, 2001.

Vấn đề lối sống, đã có một số công trình đề cập đến, như: “ Lối sống xã hội chủ
nghĩa” của các tác giả Liên Xô cũ và cộng hoà dân chủ Đức ( sách dịch), Nxb Sự thật,
1982; “ Chủ nghĩa xã hội và nhân cách”, 2 tập, của các giả Liên Xô cũ (sách dịch), Nxb

4.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu ảnh hưởng, sự tác động của giá trị đạo đức truyền thống tới
việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức truyền thống, vấn đề lối sống của thanh niên,
sinh viên là vấn đề phong phú nhưng phức tạp, đòi hỏi phải được nghiên cứu từ nhiều
góc độ, nhiều nhân tố tác động và nhiều khía cạnh khác nhau, trong phạm vi luận văn
này chúng tôi chỉ đề cập đến một số nhân tố cơ bản của các giá trị đạo đức truyền thống
tác động đến việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên trên địa bàn tỉnh Nghệ An.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đạo đức, giá trị đạo đức
truyền thống, về lối sống và xây dựng lối sống mới. Đồng thời luận văn kế thừa có chọn
lọc những thành tựu của một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp với phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng
hợp. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp cụ thể khác như: so sánh, thống
kê, điều tra xã hội học
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
- Góp phần làm sáng rõ thêm bản chất và tầm quan trọng của các giá trị đạo đức
truyền thống đối với việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt nam hiện nay.
- Chỉ ra sự tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối
sống mới cho sinh viên ở một số trường đại học, cao đẳng trên địa bàn tỉnh Nghệ An.

Từ đó, đưa ra những luận cứ khoa học cho việc đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới
cho sinh viên Việt Nam nói chung và sinh viên ở Nghệ An nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn

định bởi sự đánh giá đúng đắn của con người, xuất phát từ thực tiễn và được kiểm tra bằng
thực tiễn. Thực tiễn “ vừa là tiêu chuẩn của chân lý về bản chất của khách thể, vừa là tiêu
chuẩn chân lý về giá trị của khách thể” [50, tr 29]. Theo V.I.Lênin : “ toàn bộ thực tiễn
của con người,- thực tiễn này vừa với tính cách là tiêu chuẩn của chân lý, vừa với tính cách
là kẻ xác định một cách thực tế mối liên hệ giữa sự vật với những điều cần thiết đối với
con người, cần phải được bao hàm trong “định nghĩa”” [52, tr 364].
Sự đánh giá đúng đắn của một giá trị không chỉ căn cứ vào nhu cầu, lợi ích của
chủ thể đánh giá mà còn phải căn cứ vào hiệu quả xã hội của hoạt động của chủ thể theo
đuổi những giá trị nhất định.
Thứ năm, giá trị đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống của con người. Nó là
cái mà con người dựa vào để xác định mục đích, phương hướng cho hoạt động của
mình, là cái mà con người mong muốn được theo đuổi. Giá trị là cơ sở của các chuẩn
mực, quy tắc xác định cách thức hành động của con người. Nói cách khác, cách thức và
hành động của con người trong xã hội được chỉ đạo bởi các giá trị, người ta dựa vào các
giá trị được xã hội chấp nhận để lựa chọn cách thức suy nghĩ và hành động phù hợp
nhất. Giá trị là động cơ thúc đẩy hoạt động của con người vì các nguyện vọng và mục
đích của cá nhân đều được đối chiếu với các giá trị nằm trong cấu trúc của nhân cách.
Các giá trị, nhất là các giá trị chung, phổ biến, được coi như phương tiện cơ bản để tạo
nên sự liên kết, hợp tác của mọi thành viên trong nhóm, cộng đồng.
Nói đến giá trị tức là “muốn khẳng định mặt tích cực, mặt chính diện, nghĩa là đã
bao hàm quan điểm coi giá trị gắn liền với cái đúng, cái tốt, cái hay, cái đẹp; là nói đến
cái khả năng thôi thúc con người hành động và nỗ lực vươn tới” [99,tr 16].
Trong việc nghiên cứu giá trị, do những mục đích cụ thể khác nhau mà người ta
thường phân loại giá trị theo cách của riêng mình. ở cấp độ chung nhất, các giá trị được
chia thành: giá trị vật chất và giá trị tinh thần.

Giá trị vật chất thường được thể hiện một cách rõ nét trong kinh tế, nó quyết định
sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc
biệt về trí tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn
hoá, nghệ thuật, phong tục tập quán Từ đó, giá trị tinh thần được phân thành các loại

cộng đồng. Nó là sản phẩm của quá trình phát triển của mỗi dân tộc, mỗi dân tộc khác
nhau có truyền thống khác nhau. Thậm chí, cùng một dân tộc, qua từng giai đoạn lịch sử
khác nhau thì truyền thống cũng được biểu hiện dưới những sắc thái khác nhau. Tuyền
thống vừa mang tính cộng đồng lại vừa mang tính giai cấp. Theo đó, trong xã hội có
giai cấp, mỗi giai cấp đều góp phần mình tạo dựng nên truyền thống của dân tộc mình,
quốc gia mình. Trong truyền thống của mỗi dân tộc, có những truyền thống tốt nhưng
cũng có những truyền thống lạc hậu. Tiêu chuẩn đánh giá “truyền thống” là mức độ
đóng góp của nó vào sự tiến bộ xã hội, sự phù hợp với quy luật khách quan hay không.
Từ những phân tích trên, chúng ta có thể nhận dạng về truyền thống qua những
đặc trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, truyền thống là kết quả hoạt động vật chất và tinh thần của con người
trong quá khứ biểu hiện ở tính cách, phẩm chất, tư tưởng, tình cảm, tập quán, thói quen
trong tư duy, lối ứng xử, tâm lý.
Thứ hai, truyền thống bao giờ cũng là truyền thống của một cộng đồng người (thị
tộc, bộ lạc, bộ tộc, dân tộc, dòng họ, gia đình, làng xã ), là bản sắc của cả cộng đồng
người.
Thứ ba, truyền thống được hình thành trong lịch sử do tác động của môi trường
tự nhiên và điều kiện địa lý, do tác động của quá trình lao động sản xuất và kết cấu kinh
tế xã hội, sự tác động thường xuyên của lịch sử, tác động của môi trường văn hoá khu
vực và thế giới.
Thứ tư, truyền thống có tính kế tục từ lớp người trước sang lớp người sau, nó ăn
sâu vào tâm lý, vào phong tục, tập quán, nếp nghĩ của con người.
Như vậy, truyền thống có tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu truyền. Những
đặc trưng đó của truyền thống có tính độc lập tương đối, khi những cơ sở, điều kiện

hình thành nên truyền thống đã thay đổi thì sớm muộn nội dung của truyền thống cũng
dần biến đổi theo cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Truyền thống không
phải là một phạm trù khép kín mà là hệ thống mở. Cho nên, những giá trị được tạo ra
hôm nay và ngày mai nếu trở thành phổ biến và ăn sâu vào đời sống tâm lý, lối sống của
cộng đồng thì sẽ tạo ra truyền thống mới.

gian qua, việc nghiên cứu để xác định các giá trị đạo đức truyền thống đã thu hút sự
quan tâm của nhiều học giả. Đó cũng là vấn đề phức tạp và có nhiều mặt phải nghiên
cứu. Nhưng đến nay vẫn chưa có sự thống nhất thật cao độ về cách sắp xếp các giá trị
đạo đức truyền thống Việt Nam.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động, cần cù sáng tạo, trong
đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc.
Còn Giáo sư Trần Văn Giàu khi nói về giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc
Việt Nam lại sắp xếp: “Yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người,
vì nghĩa” [28, tr.108]
GS Nguyễn Hồng Phong lại nhận định: tính cách dân tộc gần như là tất cả nội
dung của giá trị đạo đức truyền thống, bao gồm: tính tập thể- cộng đồng, trọng đạo đức,
cần kiệm, giản dị, thực tiễn; tinh thần yêu nước bất khuất và lòng yêu chuộng hoà bình,
nhân đạo lạc quan.
Nghị quyết 09 của Bộ Chính trị về một số định hướng lớn về công tác tư tưởng
hiện nay chỉ rõ: “ Những giá trị văn hoá truyền thống vững bền của dân tộc Việt Nam là
lòng yêu nước nồng nàn, ý thức cộng đồng sâu sắc, đạo lý “thương người như thể
thương thân”, đức tính cần cù, vượt khó, sáng tạo trong lao động” [22, tr.19].
Tuy còn có sự khác biệt trong việc sắp xếp thang giá trị đạo đức truyền thống.
Nhưng nhìn chung, các ý kiến đều thống nhất ở một điểm coi chủ nghĩa yêu nước là bậc
thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nó là
“sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại” [28, tr.100], là
“tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị” [28, tr. 94], là “động lực tình cảm

lớn nhất của đời sống dân tộc, đồng thời là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo
đức của dân tộc ta” [60, tr.74].
Đối với dân tộc Việt Nam, tình yêu quê hương đất nước là một thứ tình cảm hết
sức thiêng liêng, nó xuất phát từ ý thức cộng đồng gắn bó keo sơn. Mỗi người dân Việt
Nam đều đặt lợi ích của Tổ quốc lên trên hết, khi có giặc ngoại xâm thì sẵn sàng hy sinh
thân mình, lúc hoà bình thì biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương đất nước. Lòng

xã hội, vì hạnh phúc nhân dân.
Cùng với chủ nghĩa yêu nước, Truyền thống nhân ái yêu thương con người là
một trong những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta, truyền thống này bắt nguồn
sâu xa từ trong sinh hoạt công xã nông thôn, được củng cố, phát triển qua quá trình đấu
tranh dựng nước và giữ nước. Tấm lòng nhân nghĩa, nhân ái chính là cơ sở cho cách xử
thế của người Việt Nam, là triết lý sống của dân tộc Việt Nam. Với người Việt Nam,
sống là hết lòng vì nghĩa cả, giúp đỡ nhau trong hoạn nạn, khó khăn mà không hề tính
toán, là lên án một cách mạnh mẽ những kẻ xấu, “tán tận lương tâm”, “phụ tình bạc
nghĩa”
Từ trong lịch sử, nhân dân Việt Nam luôn gắn tình yêu quê hương đất nước với
lòng nhân ái, yêu thương con người. Cho nên con người yêu nước với con người yêu
dân luôn gắn bó chặt chẽ nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn đứng trước
nguy cơ xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết chúng ta hiểu rõ quyền sống của mình gắn
với vận mệnh tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái, vì con người của dân tộc ta còn thể hiện ở lòng vị tha cao thượng,
không cố chấp đối với những người lầm đường, lạc lối. Chính tư tưởng “lấy nhân nghĩa
để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo” trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn
Trãi là sự thể hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt lấy tình yêu thương để làm
cách xử thế ở đời, đối với kẻ thù, thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua
Quang Trung sau khi đánh bại quân Thanh, còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn
quân về nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân tiêu biểu cho lòng nhân ái, nhân nghĩa của
con người Việt Nam. Tư tưởng của Người được xuất phát từ lòng yêu thương con

người, trước hết là người lao động, lòng yêu quê hương, đất nước. Bác đã giành cả cuộc
đời mình cho độc lập của dân tộc, cho tự do và hạnh phúc của nhân dân. Nhà thơ Tố
Hữu từng viết: “Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người”. Lòng
nhân ái của Bác Hồ đã trở thành sức mạnh, trở thành vũ khí có tác dụng cảm hoá hàng
vạn con người lầm đường, lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như
những đứa con “lạc bầy” cần được cưu mang. Người nói: giống như bàn tay cũng có

chiều dài lịch sử dân tộc, nhân dân ta vẫn kiên trì bám đất, bám làng, vừa sản xuất vừa
đánh giặc để tồn tại và bảo vệ tổ quốc. Với đức tính cần cù và tiết kiệm, dân tộc Việt
Nam đã không chỉ đứng vững mà còn từng bước khẳng định vai trò, vị thế của mình
trong khu vực và trên thế giới.
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần mà
không kiệm thì khác nào: “Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống”. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính:
Trời có bốn mùa: Xuân – hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: Đông – Tây – Nam – Bắc:
Người có bốn đức: cần – kiệm – liêm – chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất:
Thiếu một đức thì không thành người.
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ. Cần, kiệm,liêm,
chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức mới.
Ngày nay, cần cù, sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất,
trong khoa học kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua
rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà
máy xí nghiệp, trong nhà trường Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục
tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, hơn bao giờ hết
truyền thống cần cù, sáng tạo càng được phát huy cao độ.

Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hoà vào dòng chảy của chủ
nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh
thần hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Tư tưởng đoàn kết giữa các dân tộc anh em được thể hiện rất sớm trong cách lý
giải về sự ra đời của dân tộc Việt Nam trong truyền thuyết “Trăm trứng nở trăm con”.
Cho đến lịch sử hình thành dân tộc: theo tiếng gọi của tiếng trống Hùng Vương, mười
lăm bộ lạc hợp thành quốc gia Văn Lang thống nhất. Thấy rõ vai trò của đoàn kết, cha

thể nói, ngay từ rất sớm con người đã sớm nhận thức được học hành không chỉ là quyền
lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Người xưa từng nói: “Ngọc bất trác bất thành
khí, nhân bất học bất tri đạo” (Ngọc không mài dũa thì không thành đồ dùng được,
người không học thì không biết đạo) hay “Hiếu nhân bất hiếu học kỳ tế dã ngu” (Kể cả
những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện nhưng không học thì cũng bị sự
ngu dốt che lấp đi).
Ngay từ buổi đầu dựng nước, ông cha ta đã nhận ra tầm quan trọng của giáo dục,
cho nên, việc chăm sóc và bồi dưỡng nhân tài đã được thực hiện sớm. Trong bia tiến sĩ
năm Nhâm Tuất niên hiệu Đại Bảo thứ ba ( năm 1442) ở Văn Miếu (Hà Nội) có ghi:
Hiền tài là nguyên khí của Nhà nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh,
nguyên khi kém thì thế nước yếu và suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không
ai không chăm lo việc gây dựng nhân tài, bồi đắp nguyên khí [56, tr.176-177].
Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh chỉ phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm
sao để “ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người đặt hy vọng và
tin tưởng vào thế hệ trẻ: “Non sông ta có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc, năm châu hay không chính
là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” [66].
Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta ý thức một cách sâu sắc rằng: “giáo
dục là quốc sách hàng đầu”, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người.
Việc phát huy truyền thống hiếu học, tôn trọng người hiền tài càng trở nên có ý nghĩa,
tôn trọng trí thức, tôn trọng hiền tài, tôn trọng sáng tạo trên cơ sở, nền tảng đạo đức

trong sáng. Trong những chủ trương lớn xây dựng và phát triển văn hoá, Đảng ta nêu rõ:
“Quan tâm giáo dục lý tưởng, đạo đức và lối sống văn hoá cho thế hệ trẻ. Có chính sách
trọng dụng người tài” [18, tr.81-82].
Có thể nói các giá trị đạo đức truyền thống Việt Nam không chỉ tạo nên sức
mạnh cho nhân dân ta vượt qua những khó khăn, thách thức trong lịch sử. Trong hiện
tại, các giá trị đạo đức ấy đang là động lực to lớn góp phần thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới đất nước.

tình cảm, thái độ và hoạt động xã hội, tổ chức đời sống và sinh hoạt cá nhân của con
người” [99, tr.28]. C.Mác cho rằng, ở những hình thái kinh tế -xã hội khác nhau, sẽ có
lối sống khác nhau. Đặc biệt, trong những hình thái kinh -tế xã hội có giai cấp, nhất là
có đối kháng giai cấp thì lối sống mang tính giai cấp.
Tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt động và tổng thể những
quan hệ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của những cá nhân trong một hình thái kinh tế
– xã hội, TS. Rútkêvich cho rằng: “ Lối sống là một tổng thể, một hệ thống những đặc
điểm chủ yếu nói lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá
nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [100, tr.45]. Còn
G.Glezerman cho rằng: “lối sống là tổng hoà những nét cơ bản, nói lên đặc điểm của hoạt
động sống của xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [99, tr
18]. Xem xét lối sống gắn với hoạt động sống của con người với hình thái kinh tế – xã
hội, TS triết học V.I.Tônxtưkhơ cho rằng: “lối sống là những hình thức cố định, điển hình
của họat động sống cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên đặc
điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động
xã hội – chính trị, sinh hoạt và giải trí” [99, tr 18- 19].
Cùng với quan điểm xem xét lối sống là một phương thức hoạt động,
I.V.Bextugiep cho rằng: “Lối sống được kiến giải như một phương thức hoạt động sống
của con người, thì điều hợp lý là lấy các hoạt động sống quan trọng nhất làm nền tảng
cho cơ cấu của lối sống, các lĩnh vực đó ta đều biết là: lao động, sinh hoạt, hoạt động
chính trị – xã hội và văn hoá xã hội” [32, tr.19].

ở góc độ khác, M.N. Rutkêvich còn khẳng định, lối sống chịu sự quyết định của
phương thức sản xuất, khái niệm “lối sống” và khái niệm “phương thức sản xuất” liên
hệ chặt chẽ với nhau. Ông viết: “Lối sống là một trong những khái niệm cơ bản của chủ
nghĩa duy vật lịch sử, nó liên quan chặt chẽ với một khái niệm có ý nghĩa mấu chốt đối
với nó là phương thức sản xuất của cải vật chất” [100, tr 12]. Theo hướng này, Z.Dunốp
khẳng định “lối sống trước hết là những điều kiện trong đó con người tự tái sản xuất về
mặt sinh học cũng như mặt xã hội. Đó là toàn bộ những hình thức hành vi hàng ngày, ổn
định và điển hình của con người” [99, tr.19]. Định nghĩa này cho thấy lối sống chịu sự

tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, lối sống của các nhóm xã hội và
cộng đồng dân cư”. Định nghĩa này cho thấy lối sống có quan hệ trực tiếp với môi
trường sống và chịu sự quy định của nó, đồng thời tiếp cận lối sống như là một phương
thức hoạt động thực tiễn của con người và do vậy, nó có ưu thế là làm sáng rõ mối quan
hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường.
Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về lối sống, GS Vũ
Khiêu trong tác phẩm “Văn hoá Việt Nam, xã hội và con người” đã quan niệm lối sống
theo nghĩa rộng:
Lối sống là phạm trù xã hội khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc,
các giai cấp, nhóm xã hội, các cá nhân trong điều kiện của một hình thái kinh tế –
xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống: trong lao động và
hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn
hoá” [42, tr.514].
Xét lối sống gắn liền với hoạt động sống của con người và với một hình thái kinh
tế - xã hội, GS Thanh Lê quan niệm: “Lối sống là một hệ thống những nét căn bản nói
lên hoạt động của các dân tộc, các giai cấp các tập đoàn xã hội, các cá nhân trong những
điều kiện của một hình thái kinh tế – xã hội nhất định” [49, tr.24].
ở góc độ xem xét tổng hoà các mặt cơ bản, khắc hoạ những đặc điểm cá nhân,
tập thể, giai cấp và cộng đồng, GS.TS Nguyễn Văn Huyên cho rằng:

Lối sống là tổ hợp các mô hình, cách thức và phong thái sống của con
người thể hiện trong mọi phương thức cũng như lĩnh vực hoạt động, từ sản xuất,
tiêu dùng đến thái độ hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con
người, giữa chủ thể với đối tượng, giữa điều kiện với phương tịên và mục đích
sống [38, tr 29]
GS.TS Đỗ Huy khẳng định: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống
điển hình của con người trong điều kiện tự nhiên và xã hội nhất định” [34, tr353]. Cùng
với quan điểm này, TS Nguyễn Viết Chức trong quyển “Xây dựng tư tưởng đạo đức, lối
sống văn hoá ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” đã định nghĩa: “Lối sống là tổng hoà những dạng hoạt động sống điển hình và

TS. Rútkêvich cho rằng: “Nếu như mặt chất của lối sống phản ánh tính chất của chế độ
xã hội – kinh tế thì mặt lượng của lối sống được xác định bởi mức độ phụ thuộc của nhu
cầu vào sự phát triển của lực lượng sản xuất ấy và mặt lượng này được thể hiện ở mức
độ phúc lợi của nhân dân. Mức độ phúc lợi này thường được gọi là mức sống”. Hay
Nói một cách giản đơn, không thể hiểu được lối sống của con người nếu
không biết họ sản xuất và tiêu dùng như thế nào, với số lượng bao nhiêu, họ
sống dở, chết dở hay được ăn uống theo mức ăn hợp lý, họ sống trong những
căn nhà rách nát hay trong các phòng có đủ tiện nghi, họ có đủ quần áo hay mặc
không, có biết chữ hay không, được học ở trường phổ thông trong bao nhiêu
năm, có phương tiện đi lại không và phương tiện đó như thế nào [100, tr.29,
33].
Cần lưu ý, không phải cứ mức sống biến đổi thì lối sống biến đổi vì mức sống
không là điều kiện duy nhất của lối sống. Tuy nhiên trong khuôn khổ của một lối sống
không thể xem mức sống như là một cái gì đó ở bên ngoài, nó là cơ sở vật chất của lối
sống. Nhưng không phải mức sống nâng cao thì lối sống cũng nâng cao. Thực tiễn cho
thấy có trường hợp mức sống ngang nhau nhưng lối sống khác nhau. Cho nên, có những
người mức sống rất cao nhưng lối sống lại đáng khinh và đáng phê phán. Chẳng hạn

Trích đoạn Phương hướng Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả tác động của các giá trị đạo đức truyền thống tới việc xây dựng lối sống mới cho sinh viên Việt Nam
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status