LUẬN VĂN: Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con người ở Việt Nam hiện nay pot - Pdf 15


LUẬN VĂN:

Một số quan điểm cơ bản về phát triển con
người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay



hành động của từng quốc gia, đặc biệt trong việc giải quyết các vấn đề xã hội. Trong
điều kiện quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ như hiện nay, hội nhập
là xu thế tất yếu của thế giới đương đại, các quốc gia đang đứng trước những cơ hội và
thách thức lớn đối với sự phát triển của mình. Theo đó, việc phát triển con người của các
quốc gia cũng được đặt trước những cơ hội và thách thức to lớn, đặc biệt là đối với các
nước đang phát triển. Toàn cầu hóa mở ra những cơ hội to lớn cho các nước đẩy nhanh
quá trình phát triển kinh tế, nhưng cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với các
quá trình xã hội, chẳng hạn, làm mất công bằng xã hội, tăng nhanh khoảng cách phân
hóa giàu nghèo, mở rộng rủi ro an sinh xã hội, gây ô nhiễm môi trường sống, đánh mất
bản sắc văn hóa truyền thống, v.v
ở Việt Nam, Ngay sau khi đất nước giành được độc lập, trong bản "Tuyên ngôn
độc lập", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã long trọng tuyên bố với thế giới về quyền được sống,
quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền cơ bản và bất khả xâm
phạm của mọi người và mọi dân tộc. Người nhấn mạnh, việc phấn đấu không ngừng để
thực hiện các quyền của con người, đó cũng là mục tiêu phấn đấu, là mục đích tối cao
của mọi hành động của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam.
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh về các quyền của con người là sự kết
tinh từ những tinh hoa tiến bộ nhân loại và của truyền thống Việt Nam qua mấy ngàn
năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Phát triển là của con người, do con người và vì
con người - đó là giá trị trường tồn của nhân loại và cũng là của văn hóa Việt Nam.
Trong tất cả các thời kỳ cách mạng, Đảng ta luôn chú trọng đến sự nghiệp giải
phóng, xây dựng và phát triển con người Việt Nam. Đặc biệt, trong 20 năm qua, bằng
việc thay đổi cơ chế quản lý kinh tế, thực hiện chính sách mở cửa hội nhập với khu vực
và thế giới, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; công cuộc đổi mới toàn diện đã
mở rộng không gian phát triển đầy triển vọng cho nhân dân Việt Nam, trong đó, các cơ
hội và điều kiện cho việc phát triển toàn diện con người ngày càng được xác lập, bảo
khảo.
- Số cuối là số trang của tài liệu tham khảo.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lịch sử, có thể nói, các nhà triết học đã bàn nhiều đến vấn đề con người;
các nhà triết học đã chú ý đến khía cạnh xã hội cũng như mục tiêu của phát triển xã hội,
xét cho cùng là phát triển con người. Tuy nhiên, các nhà triết học trước C. Mác và kể cả
nhiều trường phái triết học hiện đại mặc dù đề cao con người, nhưng vẫn chưa đặt ra vấn
đề phải lượng hóa sự phát triển con người một cách triệt để trong thực tiễn.
Như đã biết, vấn đề phát triển con người đã được C.Mác đề cập năm 1848 trong
tác phẩm "Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản". ở đây, phát triển con người đã được C.Mác
xác định như là mục tiêu của phát triển xã hội. Khi phê phán những hạn chế của chủ
nghĩa tư bản, những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản, C. Mác khẳng định rằng chỉ có
giai cấp công nhân mới có đủ khả năng lãnh đạo nhân dân tiến hành thành công cuộc
cách mạng vô sản, lập nên chế độ xã hội chủ nghĩa. Chế độ xã hội chủ nghĩa là chế độ
xóa bỏ mọi sự áp bức, bóc lột, bất công, đảm bảo sự công bằng, bình đẳng, văn minh, tạo
đầy đủ những điều kiện cho sự phát triển toàn diện con người, trong đó, "sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người" [24, tr. 628]
Phấn đấu vì sự phát triển của con người là mục tiêu chung của các Đảng Cộng
sản trong quá trình lãnh đạo cuộc đấu tranh giành chính quyền, cũng như trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề lượng hóa sự phát triển con người cùng với sự xác định nội hàm hiện đại
của khái niệm "phát triển con người" (Human development) được UNDP (United
Nations Development Programme) đưa ra vào năm 1990 trong báo cáo đầu tiên về phát
triển con người. Người đề xuất và sử dụng khái niệm này là Mahbub ul Haq, cũng trong
năm này chỉ số HDI (Human Development Index) được coi là công cụ hữu hiệu để đo
chỉ số phát triển con người và cũng từ đây hàng năm "Báo cáo phát triển con người"

từ đó đề ra những giải pháp cụ thể nhằm phục vụ các yêu cầu về phát triển con người
mới. Có thể kể ra các công trình như: "Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa" của Phạm Minh Hạc, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội (2001);

"Tính tương thích giữa phát triển giáo dục và phát triển kinh tế trong phát triển con
người ở Việt Nam" của Đặng Quốc Bảo, trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2
(2002); "Nhà nước và sự phát triển con người trong quá trình đổi mới ở Việt Nam" của
Bùi Tất Thắng trong tạp chí Nghiên cứu con người, số 2, (2002)…
Nhìn chung, các công trình trên đều khẳng định yêu cầu phát triển con người và
ý nghĩa của việc nhận thức đúng đắn và xây dựng chính sách phát triển con người. Song,
do yêu cầu của thời đại và của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện
nay vì mục tiêu phát triển nhanh và bền vững, việc tiếp tục nghiên cứu một cách có hệ
thống các quan điểm cơ bản về phát triển con người, phân tích thực trạng và luận chứng
một số giải pháp phát triển con người ở nước ta hiện nay vẫn là một việc làm cần thiết cả
về mặt lý luận, lẫn thực tiễn. Theo hướng nghiên cứu này, tác giả luận văn chọn đề tài
"Một số quan điểm cơ bản về phát triển con người và thực trạng của việc phát triển con
người ở Việt Nam hiện nay" làm đề tài nghiên cứu trên cơ sở kế thừa giá trị của các công
trình đi trước.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu đề tài
Mục đích: Bước đầu nghiên cứu một số quan điểm cơ bản về hệ vấn đề phát
triển con người, từ quan điểm của các nhà triết học trước Mác, quan điểm của C.Mác và
của quan điểm UNDP. Trên cơ sở đó, luận văn tìm hiểu quan điểm của Đảng ta về phát
triển con người, đánh giá thực trạng phát triển con người ở nước ta trong thời gian qua
và chỉ ra một số nguyên nhân cơ bản của những hạn chế, đồng thời, luận chứng một số
giải pháp cho phát triển con người ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ: Để đạt được mục tiêu trên, luận văn có nhiệm vụ giải quyết những vấn
đề sau:

- Luận văn trình bày và làm sáng tỏ hơn quan niệm của UNDP về phát triển con
người; nội hàm của khái niệm phát triển con người, các chỉ số, các yêu cầu, điều kiện và
mục tiêu phát triển con người.

- Luận văn trình bày quan điểm của Đảng về phát triển con người ở nước ta.
Trên cơ sở quan điểm của Đảng và của UNDP, luận văn đánh giá thực trạng phát triển
con người ở nước ta hiện nay, phân tích nguyên nhân của những mặt chưa làm được
trong phát triển con người; đồng thời, bước đầu luận giải một số phương hướng và giải
pháp nhằm để phát triển toàn diện, bền vững con người Việt Nam hiện nay.
6. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phát triển con người,
đặc biệt là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của UNDP và của Đảng, giúp nhận thức
sâu sắc hơn về mục tiêu phát triển con người của nhân loại và của Việt Nam hiện nay,
thông qua đó thấy được chương trình và mục tiêu phấn đấu của Đảng, Nhà nước và của
cả dân tộc vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nghiệp đó là của con người, do con
người, vì sự giải phóng và phát triển của chính bản thân con người.
Luận văn có thể được dùng làm tài liệu phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy và
học tập về vấn đề con người. Đồng thời, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
các nhà quản lý trong việc đề ra các chính sách phát triển con người.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 2 chương, 5 tiết.

Chương 1

đẳng cấp, giàu nghèo, sang hèn là do "thiên mệnh", con người không nên và không thể
thoát khỏi, cưỡng lại được "mệnh trời". Mọi cố gắng của con người nhằm thoát khỏi sự
an bài trong hiện thực là vô ích.
Bên cạnh các quan điểm duy tâm, tôn giáo về vấn đề con người và phát triển con
người, ở ấn Độ và Trung Quốc cổ - trung đại còn có một số quan điểm tiến bộ khi nhìn
nhận con người một cách duy vật (Phái Lokayata, phái Âm dương - Ngũ hành ), coi tính
người là do rèn luyện, do giáo dục mà nên
Trong lịch sử triết học phương Tây trước Mác, vấn đề con người, bản chất con
người và việc giải phóng, phát triển con người cũng được đặt ra khá phong phú.
Phần lớn các nhà triết học Hy Lạp - La Mã cổ đại đều đề cao vai trò của con
người. Prôtagora đã coi con người là thước đo của mọi vật đang tồn tại và lần đầu tiên,
ông đưa ra quan niệm về quyền bình đẳng giữa người với người, khẳng định thượng đế
tạo ra mọi người đều là người tự do, tự nhiên không ai biến thành nô lệ cả, con người
được tự do phát triển về mọi mặt. Arixtốt coi con người là một động vật chính trị, một
sinh vật xã hội được cố kết trong một cộng đồng người, trong một xã hội nhất định, "ông
cho rằng, để con người phát triển được thì xã hội có nhiệm vụ bảo đảm công lý cho
người dân, đảm bảo đời sống vật chất cho mỗi gia đình và người dân phải có nghĩa vụ
đối với xã hội. Tuy có sự hạn chế về mặt lịch sử và giai cấp, song các nhà triết học Hy
Lạp - La Mã đã đưa ra một số quan điểm tiến bộ về vấn đề con người và phát triển con
người. Đó là những cơ sở để các nhà triết học sau này tiếp tục phát triển.
Dưới sự thống trị khắc nghiệt của nhà thờ Ki tô giáo, các trường phái triết học
Tây Âu đều bị thần học chi phối, hầu hết các quan điểm chứng minh sự tồn tại của
Thượng đế, sự tồn tại của chế độ đẳng cấp là sự tồn tại hợp lý do sự quy định của
Thượng đế. Các trào lưu triết học thời kỳ này đều cho rằng, con người là sản phẩm của
thượng đế và Thượng đế có vai trò tối cao đối với đời sống của con người. Giăngxicốt
Ơrrgiennơ cho rằng, con người không có tự do mà sự tự do của con người chỉ có được

người suy nghĩ và hành động. Tư tưởng của ông đều xuất phát từ bản thân con người và
vì sự giải phóng của bản thân con người. Đây là tư tưởng mang tính nhân văn, nhân đạo
sâu sắc và đặt nền móng cho những quan điểm về con người sau này của C.Mác.
Khẳng định con người là chủ thể, đồng thời là kết quả của quá trình lao động,
Hêghen coi sự phát triển con người là sự phát triển của tự do, của tư duy nhân loại. Ông
cho rằng, sự phát triển của tự do của con người là thước đo đánh giá trình độ phát triển
của xã hội. Tuy nhiên, do đứng trên lập trường của chủ nghĩa duy tâm, nên ông đã đi tới
quan niệm sai lầm khi cho rằng sự phát triển đó là quá trình trở về cái "tinh thần tuyệt
đối".
Nhà triết học duy vật nhân bản L.Phoi ơ bắc đặc biệt quan tâm đến vấn đề con
người, coi con người là trung tâm, cốt lõi, xuyên suốt toàn bộ hệ thống triết học của
mình. Con người trong triết học của L.Phoi-ơ-bắc là sản phẩm của tự nhiên, là kết quả
của sự phát triển của tự nhiên. Giữa con người và tự nhiên nằm trong một thể thống nhất
hữu cơ không thể tách rời. Tuy nhiên, xét về mặt xã hội, ông chỉ thấy con người có quan
hệ duy nhất là quan hệ tình yêu; từ đó, ông kêu gọi mọi người hãy đối xử với nhau bằng
quan hệ tình yêu tôn giáo và trong điều kiện như vậy, con người được tự do phát triển
bằng tình yêu của chính họ. Vì vậy, con người phát triển là đạt đến mục tiêu của một tình
yêu phổ biến, phi giai cấp, phi lịch sử.
Triết học phi mácxít hiện đại với sự phát triển tuy phong phú nhưng đầy tính
phức tạp với nhiều trường phái khác nhau như: chủ nghĩa thực chứng, chủ nghĩa hiện
sinh, chủ nghĩa thực dụng, hiện tượng học, chú giải học… đã xem xét vấn đề con người
và phát triển con người ở từng khía cạnh khác nhau. Triết học hiện sinh đi vào cái tôi cá
nhân và con người phát triển để trở về với cái tôi đích thực trừu tượng của mình; hay
triết học nhân bản lại nhấn mạnh yếu tố bẩm sinh, di truyền, mang tính bản năng và coi
đó là sự tồn tại đích thực, để trở về với cái vô thức… Nói chung, trong triết học phi mác
xít hiện đại, mỗi trường phái đi vào xem xét theo những khía cạnh riêng lẻ, theo từng
"thuộc tính cố hữu" của con người. Sự phát triển con người là quá trình đi tìm đến cái tôi
của cá nhân chung chung trừu tượng.

điểm duy tâm tư biện của Hê-ghen và quan điểm duy vật nhân bản của L.Phoi-ơ-bắc về

con người, C.Mác đã phát hiện ra và chứng minh rằng, hoạt động thực tiễn cải tạo thế
giới vật chất là hoạt động vốn có của con người. Và ông đã lấy hoạt động có tính đặc
trưng này làm đối tượng nghiên cứu, làm xuất phát điểm khi nghiên cứu vấn đề con
người và giải phóng, phát triển con người.
Khác với tất cả các nhà triết học trước đó, khi xây dựng quan niệm duy vật về
lịch sử, vạch ra vai trò quyết định của sản xuất vật chất, xem xét các quan hệ xã hội từ
quan hệ sản xuất, C.Mác và Ph.Ăng ghen đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong quan niệm
về bản chất con người. Các ông cho rằng, bản thân cái trừu tượng tư biện chẳng qua chỉ
là sản phẩm, là sự thể hiện của những điều kiện sản xuất và giao tiếp nhất định nào đó.
Từ đó, các ông đi đến quan niệm: để nghiên cứu bản chất đích thực của con người, nhận
thức đúng đời sống con người thì phải nghiên cứu một cách cụ thể đời sống sinh hoạt
hiện thực của con người, từ hoạt động lao động sản xuất, hoạt động thực tiễn của con
người và chỉ bằng cách đó mới có được những tri thức đúng đắn về con người hiện thực,
về những hoạt động của con người ấy.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đối lập quan điểm của mình với quan điểm của các
nhà triết học duy tâm, duy vật siêu hình và nhấn mạnh sự mới mẻ trong cách tiếp cận của
mình. Tuy C.Mác và Ph.Ăng ghen vẫn sử dụng các khái niệm của các nhà triết học tiền
bối nhưng nội dung thì hoàn toàn mới để luận chứng cho quan điểm duy vật lịch sử. Các
ông không đặt vấn đề cấp bách trong việc xem xét những lập luận trừu tượng, tư biện về
đời sống sinh hoạt của con người có nội dung khách quan hay không, mà cho rằng, bản
thân đời sống sinh hoạt của con người vốn mang tính hiện thực. Hoạt động cơ bản của
con người là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất của những cá nhân nắm quyền làm
chủ tư liệu sản xuất nhất định, hoạt động trong khuôn khổ của những quan hệ sản xuất và
giao tiếp nhất định. Vì vậy, các khái niệm đó dù có trừu tượng, tư biện, nhưng đó là
những khái niệm phản ánh hoạt động, sinh hoạt của hiện thực, phản ánh hoạt động sản

người, chỉ có thể được quan niệm và được hiểu một cách hợp lý khi coi đó là thực tiễn
cách mạng" [23, tr. 10].
Theo C.Mác, con người không phải là "cái trừu tượng", mà là sản phẩm của tự
nhiên, của xã hội, mang tính lịch sử - cụ thể. Con người là con người hiện thực, con

người cụ thể, cảm tính; bản chất của con người được thể hiện ra, được tồn tại và phát
triển trong lao động sản xuất, cải tạo tự nhiên, đấu tranh giai cấp, cải tạo xã hội… Bản
chất con người là do những mối quan hệ xã hội của chính con người quy định. Mọi quá
trình xã hội đều là quá trình hoạt động của chính con người, không có con người thì
không có xã hội và ngược lại không có xã hội chung chung trừu tượng mà thiếu vắng
những con người hiện thực. Tuy nhiên, xã hội không phải là tập hợp giản đơn những
cộng đồng con người, bởi trong xã hội, ngoài sự hiện diện của tập hợp người còn có
những mối liên hệ gắn kết với con người, cộng đồng người liên kết với nhau thành một
hệ thống. Trong quan niệm của C.Mác, xã hội không phải là những cá thể người, mà
biểu hiện tổng số những mối liên hệ và quan hệ của con người trong đó những cá thể này
tồn tại đối với nhau. Xã hội là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người.
Do vậy, quan hệ xã hội là tổng thể những quan hệ mà con người đã có, đang có và trong
chừng mực nào đó, nó còn bao hàm cả những quan hệ với tương lai. Bản chất con người
không phải là bất biến, mà nó luôn vận động, biến đổi cùng với sự biến đổi của hoàn
cảnh sống, của thời đại, gắn liền với phương thức sản xuất của một chế độ xã hội nhất
định.
- Về phát triển con người, các nhà triết học trước Mác cũng đã bàn đến, trong đó
họ đưa ra một số luận điểm với mong muốn phát triển con người, muốn tìm lại xã hội tốt
đẹp kiểu Nghiêu - Thuấn như trong triết học Trung Quốc cổ đại hoặc mong muốn có một
xã hội tự do và bình đẳng của công dân như quan điểm của các nhà triết học ánh sáng.
Nhưng, phải đến khi chủ nghĩa Mác ra đời, thì vấn đề phát triển con người mới được bàn
đến như là mục tiêu của sự phát triển xã hội. Xuất phát từ quan điểm duy vật biện chứng

quyền về tay mình. Từ đó, xóa bỏ tận gốc mọi sự áp bức xã hội. Nói cách khác, giai cấp
vô sản phải tiến hành cuộc cách mạng vô sản nhằm giải phóng mình và giải phóng toàn
nhân loại, đưa nhân loại từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do. Đó là sứ mệnh
cao cả của giai
cấp công nhân trong công cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ của bản thân và của nhân
loại.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu ấy, hoàn toàn không phải là việc làm đơn giản,
chốc lát, hay có thể hoàn thành trong "một sớm, một chiều", mà đó là một quá trình hết

sức lâu dài, phức tạp và gay go quyết liệt. Bởi vì quá trình đó không chỉ là xóa bỏ trật tự
của xã hội cũ mà hơn thế, còn là một sự nghiệp xây dựng xã hội mới, xóa bỏ những tàn
tích cũ, xây dựng những nhân tố xã hội mới từ cơ sở hạ tầng đến kiến trúc thượng tầng.
Để có thể thực sự giải phóng và phát triển con người, theo C.Mác, tất yếu phải
xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa và thay vào đó một hình thái kinh tế -
xã hội mới cao hơn, đó là hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sự thay thế xã
hội cũ bằng một xã hội mới, tốt đẹp hơn chính là nhằm phục vụ con người, vì sự phát
triển tự do, toàn diện của con người.
Để con người được phát triển toàn diện thì việc xây dựng xã hội mới - xã hội
cộng sản chủ nghĩa - là yêu cầu, là mục tiêu của toàn bộ sự nghiệp cách mạng của giai
cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong xã hội đó, con người mới thực sự tự mình
làm ra lịch sử của mình một cách tự giác, con người mới trở về với bản chất đích thực
của mình. Trong xã hội đó, như C.Mác khẳng định:
Cuộc đấu tranh để sinh tồn của cá nhân sẽ chấm dứt. Do đó, mà lần đầu tiên, con
người tách hẳn - theo một ý nghĩa nào đó - khỏi thế giới thú vật, chuyển từ điều kiện sinh
tồn của thú vật sang điều kiện sinh tồn thật sự của con người… Tổ chức xã hội của con
người, từ trước tới nay vẫn đối lập với con người như những cái do tự nhiên và lịch sử áp
đặt cho con người thì giờ đây biến thành hành động tự do của bản thân con người.

C.Mác là tư tưởng về giải phóng, phát triển con người. Theo C.Mác và Ph.Ăngghen,
khắc phục, xóa bỏ sự tha hóa của con người trong xã hội tư bản là điều kiện cho giải
phóng con người; muốn giải phóng con người thì phải xóa bỏ hình thái kinh tế - xã hội
tư bản chủ nghĩa và thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong
điều kiện đó, con người mới trở về với bản chất đích thực của mình, mới có đầy đủ các
điều kiện để phát triển toàn diện. Đến lược nó, khi con người trở thành chủ thể xã hội, sự
phát triển xã hội lại do chính con người thực hiện. Do đó, phát triển xã hội là cơ sở của
phát triển con người, phát triển con người là động lực của phát triển xã hội và của chính
bản thân con người.

Mặc dù không phân tích một cách chi tiết hay không có một tác phẩm riêng nào
về phát triển con người, nhưng những tư tưởng về giải phóng, phát triển con người, các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã cung cấp cho chúng ta cơ sở phương pháp luận trong việc
xem xét, đánh giá các quan điểm hiện đại về phát triển con người cũng như xem xét,
đánh giá các vấn đề thực tiễn của phát triển con người, của tiến bộ xã hội của nhân loại
trong giai đoạn hiện nay.
1.3 Quan điểm phát triển con người của Chương trình phát triển Liên hợp
quốc (UNDP)
Mục tiêu của học thuyết Mác - Lênin là đưa loài người đến một xã hội dân chủ,
bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột. Với cách tiếp cận duy vật biện chứng và khoa học,
các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác đã chứng minh rằng, dù sớm hay muộn, loài người tất
yếu sẽ vượt qua mọi rào cản để đi đến xã hội đó. Hiện nay, không một dân tộc nào lại
không đặt ra cho mình những mục tiêu phát triển nhưng chưa hẳn là đều hướng đến sự
giải phóng, phát triển của con người. Tính chất của thời đại ngày nay đã có nhiều thay
đổi so với thời kỳ học thuyết Mác mới ra đời. Vì vậy, những mục tiêu cụ thể về phát
triển con người cần phải được bổ sung thêm cho đầy đủ. Nhưng tựu trung lại, những mục
tiêu ấy, về nguyên tắc, không khác với học thuyết Mác. Có thể nói, những nội dung về

nhiên, cũng có nhiều quan điểm tiến bộ hơn, những quan điểm này thường nhấn mạnh
đến các khía cạnh của sự phát triển xã hội, phát triển con người, thì cũng chỉ nhấn mạnh
tới việc phân phối lại các kết quả lao động cho con người thông qua sự điều hành của
nhà nước, chính phủ, nghĩa là chú ý đến việc xem xét vị trí, vai trò của nhà nước trong
việc nâng cao đời sống vật chất, chú ý đến sự công bằng của nhà nước trong phân phối
thu nhập cho các tầng lớp dân cư, các nhóm người trong xã hội hay giữa các dân tộc với
nhau.
Có thể thấy, trên thế giới, trong những năm 50 của thế kỷ XX, phần lớn các quốc
gia trên thế giới chú trọng nhiều đến tăng trưởng kinh tế, vô tình đồng nhất phát triển với
phát triển kinh tế. Nghĩa là chú ý, chăm lo đến thu nhập, cho rằng, tăng trưởng kinh tế là
chìa khóa duy nhất sẽ đem lại phồn vinh, hạnh phúc cho con người. Nhiều nước trên thế
giới lấy thước đo thu nhập quốc dân để đánh giá trình độ phát triển của kinh tế, xã hội.
Công cụ GDP được coi như là công cụ hữu hiệu mà các quốc gia vẫn sử dụng. Tuy
nhiên, công cụ này đã thể hiện nhiều hạn chế, nó mới chỉ chú ý đến góc độ của tăng

trưởng kinh tế của mỗi quốc gia, đó chỉ là một khía cạnh của sự phát triển xã hội, chứ
chưa chú ý đến các khía cạnh xã hội - nhân văn của phát triển xã hội như sự công bằng,
bình đẳng xã hội, đến giáo dục, y tế, sức khỏe cộng đồng, Vì vậy, chưa đảm bảo sự
phát triển bền vững của xã hội, chưa hẳn đã nâng cao đời sống văn hóa cho con người…
Chỉ riêng sự tăng trưởng kinh tế cũng không thể đảm bảo được yêu cầu cho sự phát triển
công bằng, bình đẳng xã hội. Chạy theo mục tiêu đó, nhiều quốc gia đã phải trả giá cho
sự phát triển của mình, đó là nền kinh tế tăng trưởng nhanh, nhưng tệ nạn xã hội phát
triển tràn lan, xung đột xã hội thường xuyên nổ ra, đời sống văn hóa suy đồi…
Đến những năm 80, 90 của thế kỷ XX, loài người nhận thấy sự tăng trưởng kinh
tế nhanh không có nghĩa là xã hội đã ổn định và phát triển; kinh tế tăng trưởng cao
không có nghĩa là đời sống vật chất và tinh thần của con người theo đó mà được phát
triển lành mạnh, phong phú; sự tăng trưởng kinh tế không đồng nhất với sự tiến bộ xã

không phân biệt giới tính, dân tộc, tôn giáo… Sự bình đẳng về cơ hội là điều kiện để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người, trong đó, thu nhập là yếu tố rất
quan trọng, là yếu tố đầu tiên. Tuy nhiên, thu nhập mới chỉ là điều kiện đầu tiên cho sự
tồn tại của con người; ngoài yếu tố này, con người còn cần phải được tiếp cận đến các
dịch vụ khác của xã hội như: dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa… Phát triển vì con người
phải nhấn mạnh đến việc mở rộng không gian lựa chọn cho con người để mỗi người có
thể đạt được một cuộc sống tốt đẹp nhất và có ý nghĩa nhất.
Tăng cường năng lực lựa chọn của con người:. Năng lực của con người có thể
hiểu là trình độ tri thức, sức khỏe, trình độ thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa… Con người có
năng lực mới có khả năng tham gia vào xã hội với tính cách như là người chủ xã hội, tạo
ra những cơ hội mới để con người tham gia vào xã hội một cách chủ động. Năng lực của
con người là điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi người có thể tham gia vào xã hội, để
tiếp cận với xã hội, tham gia vào xã hội.
Để tham gia vào các hoạt động xã hội, con người cần có nhiều loại năng lực như:
năng lực tham gia, năng lực tổ chức, thực hiện các công việc và năng lực hưởng thụ các
kết quả lao động, và các kết quả khác trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống. Để có

các năng lực này thì đòi hỏi con người phải có thể lực, trí lực ở mức tối thiểu và cần
thiết. Vì vậy, các hoạt động chăm sóc con người về y tế, giáo dục, văn hóa… có vai trò
rất quan trọng trong việc hình thành các năng lực cho con người, phải có một chiến lược
toàn diện về xây dựng và phát triển con người.
Quan niệm về phát triển con người bao hàm các khía cạnh chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, mục tiêu của phát triển là vì con người, vì việc nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần một cách hiệu quả, bền vững. chứ không phải là sự gia tăng đơn thuần
về mặt của cải vật chất. ở đây, tăng trưởng kinh tế chỉ là một trong những điều kiện cần,
là một phương tiện cực kỳ quan trọng để phát triển con người, song nó vẫn không phải là
mục tiêu cuối cùng của sự phát triển. Nhìn vào thực tế nhiều nước trên thế giới, ta thấy,


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status