LUẬN VĂN: Nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay pot - Pdf 15


LUẬN VĂN:

Nhân tố chủ quan với việc thực hiện
công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế
thị trường ở nước ta hiện nay


đáng.
Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương chính sách
nhằm phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện tốt CBXH.
Kết hợp chặt chẽ, hợp lý các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội
trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, từng địa phương; thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực
hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn quyền lợi với
nghĩa vụ, cống hiến với hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ hơn cho phát triển
kinh tế - xã hội.
Song việc thực hiện ở các cấp các ngành vẫn còn những vấn đề bất cập chưa
đáp ứng được yêu cầu thực tiễn đặt ra, vấn đề bất công, bất bình đẳng trong xã hội ngày
càng có nguy cơ trở nên trầm trọng và là lực cản lớn có tính thời sự trong quá trình thực
hiện mục tiêu CBXH ở nước ta hiện nay.
Xuất phát từ thực tế đó, tác giả mạnh dạn chọn đề tài: "Nhân tố chủ quan với
việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay
(qua thực tế Vĩnh Phúc)" làm đề tài tốt nghiệp.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề: Nhân tố chủ quan (NTCQ) với việc thực hiện công bằng xã
hội trong điều kiện KTTT ở nước ta hiện nay đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu dưới
nhiều góc độ khác nhau như:
- "Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong quá trình
chuyển sang cơ chế thị trường ở nước ta", do TS Hoàng Thị Thành làm chủ nhiệm đề
tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở một số nước châu Á và Việt Nam", do TS Lê Bộ Lĩnh làm chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1998;
- "Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
ở một số tỉnh miền Trung", do TS Phạm Hảo, TS Võ Xuân Tiến, TS Mai Đức Lộc đồng

chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ triết học như tên đề tài đã
nêu ra. Những tài liệu nêu trên chứa đựng những giá trị khoa học rất quý giá, được tác giả tiếp
thu, kế thừa và phát triển trong luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích của luận văn:
Trên cơ sở làm rõ vai trò và thực trạng của việc phát huy vai trò NTCQ đối với
việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở
Việt Nam, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò
NTCQ với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta
hiện nay.
* Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ nội dung quan niệm CBXH; vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH
trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
- Khảo sát thực trạng việc phát huy vai trò NTCQ đối với việc thực hiện CBXH
(qua thực tế Vĩnh Phúc), chỉ ra những bất cập của nó, từ đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ trong việc thực hiện CBXH trong điều kiện
KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong
điều kiện nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Vai trò NTCQ và việc phát huy vai trò NTCQ với việc thực hiện CBXH trong
điều kiện KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay (qua thực tế ở Vĩnh Phúc), từ
đó đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy tốt vai trò NTCQ
với việc thực hiện CBXH trong điều kiện KTTT định hướng XHCN ở nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:

lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái lượm và
cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu được, và tuy
nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng đồng, không có
trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng đồng thì phải chịu sự
trừng phạt theo quy ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen đã nhận xét: "Với tất cả
tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao
Tất cả đều bình đẳng và tự do" [47, tr. 147-148]. Tuy nhiên, trong xã hội cộng sản
nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản phẩm lao động còn ít ỏi chỉ đủ
để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu chia đều là phương thức duy nhất
để xã hội cùng tồn tại.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương đối thì
xuất hiện tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội chiếm hữu nô lệ ra đời cùng với sự bất bình
đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo, sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân trong
xã hội. Như vậy CBXH bắt đầu bị vi phạm.
Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề Nhà
nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của mỗi người
cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và địa vị giai cấp
là lẽ tự nhiên, công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người cùng giai cấp, các
giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác nhau; sự bất bình giữa các
giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát
triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước thành một học thuyết pháp trị khá
hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng.
Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất đai
và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi cày thuê
cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất công trong xã hội.
Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của nông dân chống
lại bọn địa chủ phong kiến đòi công bằng và bình đẳng trong xã hội. Ph. Ăngghen đã

người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế ước xã hội thì mới
đạt được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân đạo nhưng cũng chưa
thoát khỏi hạn chế lịch sự.
Imanuen Cantơ (1724-1804), đại biểu của nền triết học cổ điển Đức, một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất của lịch sử tư tưởng phương Tây trước C.Mác, khi bàn
về vấn đề xã hội ông đã cho rằng: CBXH bao gồm công bằng và bảo hộ, công bằng
trong trao đổi và phân phối. Đây là tư tưởng tiến bộ của ông mà sau này được nhiều
người thừa kế.
Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời được
xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một mô hình
xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như nhau, xóa bỏ
mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội công bằng tạo điều kiện công bằng cho mọi
thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây là một mô hình xã hội không tưởng cả về lý luận
và thực tiễn, đây là một mơ ước về xã hội lý tưởng mà công bằng là theo chủ nghĩa bình
quân, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, tư tưởng về CBXH của nhân loại đã có
những bước tiến khá dài khác hẳn về chất so với các xã hội trước đó. Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm trong
lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh CBXH và cũng đạt được một số thành
tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đã làm dịu bớt được
sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đã nhận thức được rằng cuộc đấu tranh
giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất một còn nếu không thực sự
xoa dịu được tình hình, chính vì vậy mà chủ nghĩa tư bản có những điều chỉnh tương
đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về CBXH trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là
những biện pháp mang tính hình thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công
bằng của giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất công với
giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương tiện để đạt
mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích CBXH mà nhân loại

trước Mác và ngoài Mác cũng như thực tiễn lịch sử đã đề cập đến rất nhiều về vấn đề
CBXH, đã có những quan niệm khác nhau về nhưng chưa có một quan niệm nào, đầy
đủ, toàn diện, có tính hệ thống và khoa học về CBXH. Tuy nhiên, đây là những tiền đề
rất quan trọng cho các nhà tư tưởng sau này khi nghiên cứu về vấn đề CBXH.
1.1.2. Quan điểm mácxít về công bằng xã hội
Chủ nghĩa Mác với phương pháp nhận thức duy vật biện chứng, đồng thời kế
thừa những yếu tố hợp lý của các nhà tư tưởng trước đó, trên cơ sở thâm nhập trực tiếp
vào thực tiễn, đã đưa ra những quan điểm rất cơ bản về CBXH: CBXH là một phạm trù
có tính lịch sử và tính giai cấp sâu sắc, nó thay đổi theo các hình thái kinh tế - xã hội nhất
định, thậm chí còn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử khác nhau trong một hình thái
kinh tế - xã hội nhất định.
Theo quan điểm mácxít thì trong các nhà nước bóc lột không thể tồn tại CBXH
theo đúng nghĩa của nó, mà trái lại càng đẩy bất công xã hội lên tới đỉnh điểm cho cuộc
cách mạng xã hội. Khi phân tích chủ nghĩa tư bản, C.Mác đã chỉ ra rằng: sự TTKT
trong chủ nghĩa tư bản đồng nghĩa với quá trình tăng cường bóc lột giai cấp công nhân, vì vậy sự tăng trưởng đó về bản chất không thể tự dẫn tới CBXH được. Phương thức
phân phối trong chủ nghĩa tư bản là không hợp lý vì nó không dựa vào sức lao động mà
lại dựa vào tài sản và vốn nên dẫn đến nhà tư bản ngày càng giàu lên trên sự nghèo khổ
của công nhân và người lao động. Đây chính là sự phân phối không công bằng trong
chủ nghĩa tư bản, làm cho mâu thuẫn trong xã hội tư bản ngày càng gay gắt. C.Mác chỉ
ra rằng, phương thức phân phối tư bản chủ nghĩa chỉ mất đi khi mâu thuẫn giữa lực
lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao với quan hệ sản xuất dựa trên
chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất trong phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến mức bùng nổ cách mạng XHCN để mở ra một thời
đại mới, thời đại đó tư liệu sản xuất sẽ được công hữu hóa và phương thức phân phối
sản phẩm sẽ hợp lý hơn, CBXH sẽ được bảo đảm.
Theo các nhà mácxít thì chỉ có chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xã hội phát
triển nhất của nhân loại, ở xã hội này sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho

những thiếu sót ấy thì quyền phải lao động không bình đẳng chứ không phải là bình
đẳng [45, tr. 35]. Đây cũng là ưu việt những cũng là thiết sót của nguyên tắc phân phối
theo lao động - một thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ
nghĩa.
C.Mác cũng phân biệt sự khác nhau giữa CBXH với bình đẳng xã hội (BĐXH),
theo ông thì CBXH không đồng nhất với BĐXH, có khi chúng ta đang thực hiện CBXH
nhưng vẫn chưa thực hiện được BĐXH, khi nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng
nhau giữa người và người trong xã hội về một phương diện nào đấy như kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội , BĐXH hoàn toàn là sự ngang bằng nhau giữa người và người
trong xã hội về mọi phương diện. Còn CBXH là sự ngang bằng nhau giữa người với
người về một phương diện xác định, về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền
lợi, cống hiến và hưởng thụ, theo nguyên tắc cống hiến ngang nhau thì hưởng thụ ngang
nhau, và vì vậy xét theo khía cạnh này thì CBXH là một dạng, một biểu hiện cụ thể của
BĐXH và thực hiện CBXH chính là thực hiện một phần của BĐXH, là thực hiện CBXH
về một phương diện nhất định, phương diện quan hệ giữa cống hiến và hưởng thụ - và
là một bước tiến trên con đường lâu dài nhằm dần dần đạt tới BĐXH hoàn toàn.
V.I.Lênin cho rằng: Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa (mà
người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), pháp quyền tư sản chưa bị xóa
bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ với mức độ phù hợp
với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư
liệu sản xuất thôi. Pháp quyền tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu
riêng của cá nhân. chủ nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung
[34, tr. 116].
Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông cho rằng:
"Người nào không làm thì không có ăn", nguyên tắc này được thực hiện "số lượng lao
động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang nhau" [34, tr. 116].
Theo quan điểm mácxít thì phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng cao

tới ngang nhau về năng lực, điều kiện, cơ hội thì khi đó mới đạt tới công bằng tuyệt đối.
Trên cơ sở nền tảng của quan điểm mácxít, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo
vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, Người luôn coi CBXH gắn với độc lập dân tộc và
CNXH, theo Hồ chí Minh thì tiến lên CNXH, CNCS là phương thức duy nhất đúng hợp
lòng người để thực hiện CBXH "chỉ có CNCS mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng bác ái, đoàn kết, ấm no trên
quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình và hạnh phúc" [49,
tr. 115]. "Mục tiêu của CNXH là gì? nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: không ngừng
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, trước hết là nhân dân lao động
"Chủ nghĩa xã hội là gì? là mọi người ăn no mặc ấm, tự do" [52, tr. 22], Người nói: "có
khi vật tư hàng hóa không thiếu, mà phân phối không đúng thì gây ra căng thẳng không
cần thiết. Trong công tác lưu thông phân phối có hai điều quan trọng luôn phải nhớ:
"Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên" [51, tr. 185]. Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì công bằng không có nghĩa là cào bằng, bình quân
chủ nghĩa. Không có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó việc dễ cũng cùng điểm
như nhau" [51, tr. 143].
Từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng trong chế
độ xã hội thực dân không có CBXH mà " Nhân dân chỉ có nghĩa vụ, như nộp sưu đóng
thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi" [53, tr. 219], công nhân, nông dân là những
người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội, nhờ đó xã hội mới tồn tại và phát
triển nhưng lại rất bất công vì họ luôn là những người nghèo khổ, trong khi đó một số
người lại "ngồi mát ăn bát vàng", theo Người thì nguyên nhân của sự bất công đó là "vì
một số người đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội " [53, tr. 203].
Người kết luận rằng CBXH chỉ có trong xã hội mới, dưới chế độ dân chủ cộng hòa "
Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [53, tr. 219]; "Nhà nước ta ngày nay là
của tất cả những người lao động Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất
cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ" [53, tr.

Người đủ ăn thì khá giàu
Người khá giàu thì giàu thêm [52, tr. 65].
Bên cạnh đó, Người rất chú trọng đến lợi ích cá nhân nhằm động viên mỗi
người không ngừng phấn đấu, cống hiến nhiều nhất cho xã hội, đồng thời đấu tranh
chống lại chủ nghĩa cá nhân, chính chủ nghĩa cá nhân là căn nguyên gây ra trăm thứ
bệnh như quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, tham ô, lãng phí, chủ quan v.v mang tính cá
nhân, không nghĩ tới lợi ích giai cấp, dân tộc. Tuy nhiên cũng cần phân biệt rằng chủ nghĩa
cá nhân khác lợi ích cá nhân, nếu chống chủ nghĩa cá nhân mà lại vi phạm lợi ích chính đáng
của cá nhân thì sẽ dẫn tới sai lầm, Người khẳng định rằng " Lợi ích cá nhân là nằm trong
lợi ích tập thể, là một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được đảm
bảo thì lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn" [55, tr. 291]. Việc
đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của mỗi cá nhân, (tức
là biện pháp nhằm đảm bảo CBXH). Tư tưởng "mình vì mọi người, mọi người vì mình" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân với cá nhân, cá nhân với tập thể và cộng
đồng.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã có quan điểm về CBXH khá toàn diện và sâu
sắc.Thực chất của CBXH theo Người là không gì khác ngoài mối quan hệ giữa giữa
cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì hưởng ít, không làm
thì không hưởng (trừ những người già cả, bệnh tật và trẻ em). Người cũng cho thấy rõ
rằng không nhất thiết phải xã hội giàu có thì mới thực hiện được CBXH, mà ngay khi
xã hội còn chưa thật giàu có vẫn thực hiện được CBXH, tùy điều kiện kinh tế xã hội
khác nhau mà việc thực hiện CBXH khác nhau. Người cũng chỉ rõ CBXH khác với cào
bằng, bình quân chủ nghĩa nếu đồng nhất chúng thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Người chỉ ra rằng thực hiện CBXH là cả một quá trình, phải làm từng
bước một, tránh sự nôn nóng và tránh sự trì trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối cùng người khẳng
định CBXH là mục tiêu của CNXH mà chúng ta cần phải vươn tới, chỉ có xã hội XHCN
mới thực sự đem lại CBXH cho nhân dân lao động, phương thức duy nhất để thực hiện
CBXH là đi lên CNXH, CBXH là việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham

Trong từ điển Triết học giản yếu do Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp và Lê Hữu Tầng
biên soạn thì khái niệm công bằng, công lý được trình bày như sau:
Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung, bất di, bất
dịch phi thời gian - nó thay đổi theo lịch sử, phán ánh hoàn cảnh kinh tế - xã
hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của từng giai cấp theo quyền lợi
của mình. Trên cơ sở quan hệ kinh tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái
niệm công bằng mang một nội dung mới: Tất cả mọi người đều có thể trong
thực tế, phát triển như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ
hoạt động vì lợi ích xã hội. Nguyên tắc Mỗi người làm theo năng lực, và
hưởng theo lao động được thực hiện, chỉ khi nào tới CSCN thì mới thực hiện
được nguyên tắc Mỗi người làm theo khả năng và hưởng theo nhu cầu [62, tr.
97-98].
Theo PGS,TS Dương Xuân Ngọc: Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình độ phát
triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng đồng), được
thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội: kinh tế, chính
trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh
mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo
sự phát triển hài hòa của con người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ
xã hội. CBXH vừa là khát vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu
của sự phát triển xã hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi
mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [63, tr. 37-39].
Theo GS,PTS Lê Hữu Tầng: khái niệm CBXH và BĐXH tuy có nội dung rất
gần nhau nhưng dù sao chúng vẫn là những khái niệm khác nhau. Sự khác nhau ấy là ở
chỗ nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xã hội về
một phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.v.v), và nói tới BĐXH
hoàn toàn là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người trong xã hội về mọi
phương diện. Trong khi đó, nói tới CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với

Thứ hai, CBXH là đối xử ngang nhau với những người có đóng góp như nhau
và là sự đối xử khác nhau với những người có đóng góp khác nhau, những khác biệt
bẩm sinh hoặc có những điều kiện xã hội khác nhau. CBXH được thực hiện bằng cơ chế
thị trường và sự điều tiết của nhà nước. Chỉ như vậy thì mới thực hiện được CBXH một
cách thực sự.
Thứ ba, CBXH không chỉ là ở sự phân phối kết quả sản xuất, tức là sự tương
xứng giữa lao động và thu nhập, cống hiến và hưởng thụ mà còn phải xét đến việc có cơ
hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu sản xuất như vốn, tài nguyên,
thông tin, khoa học kỹ thuật.v.v. Phải có cơ hội ngang nhau để phát huy năng lực cá
nhân.
Thứ tư, CBXH không chỉ đơn thuần là cống hiến về mặt kết quả lao động và
hiệu quả kinh tế, mà phải tính đến việc cống hiến về tư liệu sản xuất (vốn, tài năng trí tuệ…) và họ phải được hưởng một phần thành quả lao động từ sự cống hiến ấy. Chỉ như
vậy thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế - xã hội và mới là CBXH.
Thứ năm, CBXH phải tính đến sự cống hiến trong quá khứ và hiện tại của các
chiến sĩ cách mạng, lực lượng vũ trang, đó là những thương binh, những liệt sĩ, người có
công với cách mạng đã hy sinh xương máu sức lực của bản thân mình trong các cuộc kháng
chiến vì mục tiêu và lý tưởng cao cả cho toàn thể dân tộc và họ phải được bù đắp lại một
phần tương xứng. Đó mới là CBXH.
Thứ sáu, Kinh tế thị trường đã tạo động lực cho phát triển và TTKT, đồng thời
tạo nên sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, về mặt tích cực nếu giàu nghèo là do sự
cống hiến về lao động, tài năng, trí tuệ. thì đó là CBXH, nhưng giàu nghèo do làm ăn
phi pháp, làm giàu không chính đáng thì đó lại là bất công trong xã hội.
Đối lập với CBXH là bất công:
Bất công trong tự nhiên: như về thể chất, điều kiện, hoàn cảnh (ốm yếu, tàn tật;
đồng bằng với miền núi; nông thôn với thành thị; Dân tộc thiểu số với dân tộc đa số;
vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo với thành phố, các trung tâm tỉnh lị v.v ).
Bất công phi lý phi pháp: là loại bất công mang tính tiêu cực không chính đáng

không nơi nương tựa. CBXH đảm bảo cho mọi thành viên trong xã hội không ngừng
nâng cao mức sống và tự khẳng định mình.
CBXH đòi hỏi phải xóa bỏ những bất công trong xã hội, chống đặc quyền, đặc
lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công phi phí, đi ngược với lợi ích của sự phát triển
của xã hội, vi phạm nguyên tắc CBXH.
CBXH là một trong những yêu cầu của sự phát triển xã hội vì CBXH là cái đảm
bảo cho mức hưởng thụ của người lao động tương xứng với cống hiến của họ mà còn
được nâng cao cùng với sự nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc của họ. Như vậy
CBXH phù hợp với nhu cầu bên trong của người lao động nên nó kích thích tính năng
động, sáng tạo, thúc đẩy người lao động đem hết khả năng, lòng nhiệt tình, sức lực, trí
tuệ của mình để tạo ra ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. CBXH
kích thích các nhà kinh doanh bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất, kích thích các nhà quản lý phát huy hết năng lực và sáng kiến để hoàn thiện tổ chức hợp lý
hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều kiện quan trọng để đảm bảo tăng trưởng
và phát triển kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu đảm bảo
CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối, chính sách đối với các thành
phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu, độc quyền, chống cạnh tranh
không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống thu nhập không chính đáng,
tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp cận được cơ hội và mọi người đều bình đẳng
trong nền kinh tế. Giải quyết được vấn đề này chính là thực hiện CBXH và là động lực
mạnh mẽ để thúc đẩy TTKT và ngược lại TTKT lại là động lực để thúc đẩy việc thực
hiện CBXH, TTKT phải gắn liền với CBXH ngay trong từng bước và ngay trong từng
chính sách phát triển.
CBXH có vai trò rất quan trọng, mất CBXH có thể kìm hãm tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Một nền kinh tế - xã hội ổn định và lành mạnh thì phải loại trừ được ngày
càng nhiều những bất công trong xã hội. Chủ nghĩa mác-xít đã vạch ra những bất công
trong chủ nghĩa tư bản sẽ làm bùng nổ cuộc cách mạng vô sản. Sự sụp đổ của các nước


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status