LUẬN VĂN: Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay pot - Pdf 15

LUẬN VĂN:

Vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức
sinh viên trong điều kiện kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay
kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay là một yêu cầu cơ bản và cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề xây dựng nhân cách, giáo dục đạo đức trong điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay nói chung đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu ở những khía cạnh
khác nhau, theo những cách tiếp cận khác nhau:
- Nhóm các tác giả đề cập đến mối quan hệ giữa kinh tế với đạo đức đã làm rõ
tính chất hai mặt của kinh tế thị trường và tác động của nó đối với đời sống đạo đức:
GS.TS Nguyễn Ngọc Long: "Quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và đạo đức
trong việc đổi mới tư duy", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, tháng 1-2, 1987; TS Nguyễn Thế
Kiệt: "Quan hệ giữa kinh tế và đạo đức trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện
nay", Tạp chí Triết học 6/1996; PGS.TS Nguyễn Tĩnh Gia: "Sự tác động hai mặt của cơ
chế thị trường đối với đạo đức người cán bộ quản lý", Tạp chí Nghiên cứu lý luận, số
2/1997;
- Một số tác giả quan tâm nghiên cứu sự biến đổi của đạo đức và thang giá trị đạo
đức trong nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta: PGS.TS Nguyễn Chí Mỳ: "Sự biến
đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức
mới cho cán bộ quản lý ở nước ta hiện nay", Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999;
Nguyễn Văn Lý: "Kế thừa và đổi mới những giá trị đạo đức truyền thống trong quá
trình chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam hiện nay", Luận án Tiến sĩ, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1998.

- Nhân cách sinh viên và giáo dục nhân cách sinh viên là vấn đề được nhiều tác
giả đặc biệt quan tâm: "Chủ nghĩa xã hội và nhân cách" của tập thể các nhà khoa học
Liên Xô (cũ), nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin phát hành năm 1983; "Nhân
cách của người sinh viên" của tập thể các nhà khoa học trường đại học Lêningrát, Tủ
sách Đại học Kinh tế kế hoạch năm 1981; Lê Diệp Đĩnh: "Thực trạng tâm lý xã hội của
sinh viên và vấn đề giáo dục nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay", Luận văn
thạc sĩ Triết học bảo vệ năm 1995; Trần Sỹ Phán: "Giáo dục đạo đức với việc hình
thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện nay", Luận án tiến sĩ triết
học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 1999

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh viên trong một số trường đại học tiêu biểu
được chọn làm khảo sát, làm rõ sự biến đổi nhân cách đạo đức trong sinh viên từ sau đổi
mới đất nước đến nay.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, đặc biệt là mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội; các
phương pháp lịch sử và lôgic, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học, thống kê cũng
được sử dụng trong quá trình thực hiện đề tài.
6. Cái mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều
kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu xây dựng nhân cách đạo đức mới cho sinh
viên hiện nay.
7. ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần tìm hiểu, nghiên cứu một vấn đề bức thiết của môn Đạo đức
học và đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn xã hội: nghiên cứu nhân cách đạo đức sinh
viên trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Trên bình diện nghiên cứu và những kết quả đã đạt được, chúng tôi hy vọng luận
văn sẽ góp phần làm phong phú thêm nguồn tài liệu tham khảo cho giáo viên, sinh viên
dạy và học môn Đạo đức học.
Luận văn có ý nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục và xây dựng nhân cách
đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
hiện nay ở nước ta.

8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2
chương, 4 tiết.


Triết học Mác ra đời đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử tư tưởng của nhân
loại. Theo đánh giá của V.I. Lênin, triết học Mác đã khắc phục được những thiếu sót lớn
nhất của lịch sử triết học: Chủ nghĩa duy tâm "không thấy được" điểm xuất phát là từ
hiện thực khách quan, chủ nghĩa duy vật siêu hình "không thấy được" vai trò tích cực
của chủ thể con người. Chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng định, con người là thực thể sinh
học xã hội. Mặt sinh học và mặt xã hội có mối quan hệ bao chứa lẫn nhau, chế ước lẫn
nhau. Mặt sinh học không thuần túy là sinh học mà là sinh học - xã hội. Mặt xã hội
không trừu tượng, trống rỗng, hư vô mà nó là sự phản ánh hiện thực của tồn tại sinh học
- xã hội.
Như vậy, con người không chỉ xuất hiện và tuân theo nhờ những qui luật tiến hóa
hữu cơ mà nó còn chịu sự tác động của những qui luật xã hội. Sự hoàn thiện bản chất xã
hội trong con người cũng đồng thời là quá trình hoàn thiện về nhân cách, trong quá trình
này, cái sinh học ngày càng được xã hội hóa, nhân tính hóa nhiều hơn. Nhân cách được
hình thành và phát triển trong quá trình sống, lao động, quan hệ giao tiếp
Tuy nhiên, trên lập trường triết học mác xít, giữa các nhà khoa học cũng có nhiều
định nghĩa khác nhau về nhân cách: Chẳng hạn "Nhân cách là hệ thống những phẩm giá
xã hội của cá nhân thể hiện trong cá nhân, ngoài cá nhân, thông qua hoạt động giao tiếp
của cá nhân ấy" [4, tr. 74]; "Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý của cá nhân đã
hình thành và phát triển từ trong các quan hệ xã hội" [53, tr. 80] hoặc "Khái niệm nhân

cách được thể hiện là toàn bộ đời sống" tinh thần và xã hội của con người bao gồm
"tầng" xã hội và "tầng" tâm lý trong con người. Khái niệm này cho phép hiểu bản chất
Người ở mỗi cá nhân, cái tư cách làm Người của nó, cái phân biệt nó với giống loài
động vật. Tuy nhiên, nhân cách là một khái niệm phức tạp, cần được tiếp cận từ nhiều
phía " [49, tr. 28] và có hàng trăm định nghĩa khác nhau về nhân cách và mỗi ngành
khoa học lại tiếp cận nhân cách từ góc độ nghiên cứu đặc thù của mình, đi sâu vào mặt
này, hoặc mặt khác của nhân cách, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của ngành đó.
Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các quan điểm đó tập hợp thành hai khuynh hướng cơ
bản:
- Một là: Coi nhân cách như là đặc trưng, chức năng, vai trò, vị trí của con người

Mặt khác, nhân cách là nhân cách của từng cá nhân riêng biệt, cụ thể có mối
quan hệ mật thiết với điều kiện tự nhiên, xã hội xung quanh. Mỗi cá nhân mang nhân
cách này vừa có khả năng tự đánh giá những hành vi của bản thân mình, vừa có khả
năng đánh giá hành vi của cá nhân mang nhân cách khác. Quá trình tự đánh giá và được
đánh giá đó là quá trình cá nhân thực hiện những hành vi cho mình và cho người khác
theo yêu cầu chung của nhân cách xã hội. Nói cách khác, nhân cách là những phẩm chất
bên trong của mỗi cá nhân trước những đòi hỏi của xã hội và của bản thân cá nhân để cá
nhân đó tồn tại và làm tròn trách nhiệm của mình với bản thân, với xã hội. Do đó, nhân
cách cá nhân bị chi phối bởi nhân cách xã hội, phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời

nhân cách xã hội tìm thấy mình qua những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của
mỗi nhân cách cá nhân.
1.1.2. Nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên
Nhân cách đạo đức: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức của nhân cách (nhu
cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức ) được hình thành một
cách lịch sử - cụ thể, được thể hiện, thực hiện trong toàn bộ hoạt động sống của mình
như một cá nhân.
Nếu nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa đức và tài, của những thuộc tính,
phẩm chất, xu hướng bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, dùng để phân biệt cá nhân
này và cá nhân khác thì nhân cách đạo đức lại thể hiện năng lực đạo đức cá nhân, là ý
thức, tình cảm, lý tưởng đạo đức cá nhân. Nhân cách là một khái niệm rộng bao hàm
trong nó phương diện đạo đức, phương diện thẩm mỹ, phương diện nhận thức hoặc
nói cách khác nhân cách bao gồm những phẩm chất đạo đức, phẩm chất thẩm mỹ, phẩm
chất nhận thức tức là những phẩm chất xã hội của con người. Những phẩm chất xã hội
ấy được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt động xã hội của con người
chứ không phải do thiên phú hay là những phẩm chất bẩm sinh. Vì vậy, tất yếu trong
cấu trúc của nhân cách phải bao gồm phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức và
phẩm chất đạo đức của cá nhân.
Tuy nhiên, sự tham gia của nhân cách đạo đức trong cấu trúc của nhân cách
không chỉ được hiểu đơn giản chỉ là yếu tố cấu thành lên nhân cách, dù là yếu tố nền

từng lĩnh vực hoạt động cụ thể. Trước những yêu cầu chung ấy, mỗi cá nhân hành động

theo nhận thức của mình. Vì vậy, nếu đồng nhất đạo đức cá nhân với những qui tắc,
những chuẩn mực đạo đức sẽ tạo ra mô hình phát triển rập khuôn, hạn chế sự phát triển
độc lập của mỗi cá nhân. Đây là điều hoàn toàn không có trong hiện thực!
- Xu hướng thứ ba, quan niệm: phẩm chất đạo đức cá nhân không thể chỉ là
những yêu cầu chung của đạo đức xã hội mà nó còn phải là những nét tính cách mang ý
nghĩa tâm lý đạo đức của con người cấu thành nên nhân cách cá nhân. Đó là sự thống
nhất giữa giữa lý tưởng và hiện thực cuộc sống, giữa trí tuệ, tình cảm và hoạt động thực
tiễn của các cá nhân.
Thống nhất với xu hướng thứ ba, chúng tôi đi vào phân tích một số đặc trưng
của nhân cách đạo đức.
Nhu cầu đạo đức: Nhân cách con người chỉ thực sự hình thành và phát triển thông
qua sự phát triển của hoạt động của con người. "Nền tảng của nhân cách là những quan
hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người mà vốn do tiến trình phát triển của
những hoạt động ấy tạo ra" [31, tr. 128], mà yếu tố có liên quan chặt chẽ tới hoạt động
và giữ vai trò động lực của hoạt động là nhu cầu.
Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm xu hướng
của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng của cá nhân, xác định
thái độ của người đó đối với hiện thực và trách nhiệm của bản thân. Nó ảnh hưởng
mạnh mẽ tới lối sống và hoạt động của cá
nhân [24, tr. 51].
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng. Trong tổng hệ nhu cầu có nhu cầu vật
chất và nhu cầu tinh thần. Trong nhu cầu tinh thần có nhu cầu thẩm mỹ, nhu cầu đạo

đức Nhu cầu đạo đức là nhu cầu con người hướng tới cái thiện, là động lực của những
hành động thiện. Đó cụ thể là nhu cầu tương trợ giúp đỡ người khác, nhu cầu phục vụ tự
nguyện tự giác lợi ích của người khác, lợi ích của toàn xã hội
Trong nhu cầu nói chung, nhu cầu đạo đức nói riêng có sự thống nhất giữa chủ
quan và khách quan. Trước hết, nhu cầu đạo đức là những đòi hỏi khách quan về những

mình, phát hiện bản thân mình và làm chủ bản thân mình. Với tình cảm đạo đức - con
người "trở lại" với chính mình trong những hành vi đạo đức không vì mình. Như vậy,
tình cảm đạo đức không chỉ là biểu hiện của nhân cách đạo đức, mà đây còn là một nét
quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Bồi dưỡng tình cảm đạo đức có một ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng nhân cách đạo đức, xây dựng con người mới.
"Nói rèn luyện con người, trước hết nói giáo dục lòng nhân ái cho con người, vì lòng
thương người là đạo lý cuộc sống, là đạo lý làm người" [22, tr. 29].
Niềm tin là cơ sở để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp. Niềm tin là
yếu tố quan trọng trong toàn bộ đời sống tinh thần của con người. Mác và Ăngghen coi
niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy hoạt động của con người. Niềm tin là cơ sở
vững chắc để chúng ta xây dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và đấu tranh chống lại
mọi thế lực thù địch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là cái riêng có của con
người, niềm tin được thể hiện qua quan niệm sống, lý tưởng, tình cảm của mỗi cá
nhân. Con người làm nên lịch sử của mình chính nhờ năng lực hiểu biết thế giới và quá
trình không ngừng cải tạo thế giới. Đó là quá trình điều chỉnh, hoàn thiện dần mối quan
hệ giữa con người với tự nhiên, giữa con người với những người xung quanh mình.
Niềm tin được tạo lên từ con tim và khối óc, từ sự kết hợp hài hòa, thẩm thấu lẫn nhau
giữa tình cảm và trí tuệ. Niềm tin là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và qui định mức độ
khám phá, hiểu biết và do đó, nó qui định hành động của mỗi người. Trong hành vi đạo
đức, niềm tin là cơ sở đem đến cho chúng ta một nhận thức, một tâm trạng tốt - xấu,
thiện - ác trước khi hành động. Khi có niềm tin trong sáng con người hoạt động tích
cực hơn, hướng thiện hơn, tạo cho con người một sự tin tưởng vào chính khả năng nhận
thức của mình, vào sự quyết định đúng đắn cho mỗi hành vi mà mình thực hiện. Niềm

tin là điều mà nhân cách đạo đức cần và trước hết phải có để thực hiện một hành vi đạo
đức.
Tri thức đạo đức: Tri thức đạo đức là kết quả của quá trình nhận thức đạo đức, là
sự phản ánh hiện thực đời sống đạo đức của xã hội con người. Giống như tri thức khoa
học, tri thức đạo đức cũng được phân thành hai cấp độ: tri thức đạo đức ở trình độ thông
thường và tri thức đạo đức ở trình độ

không có lý tưởng, không nhận thức được điều nên làm hay không nên làm, dễ bị du
nhập, lôi kéo Lý tưởng chung của thời đại chúng ta đã được Đảng, Bác Hồ và cả dân
tộc ta lựa chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đạo đức phải
gắn với lý tưởng xã hội - chính trị thì mới có một nội dung cụ thể, xác định. Lý tưởng
đạo đức trong thời đại chúng ta đó là đấu tranh để thực hiện thắng lợi đường lối, chủ
trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra để bảo vệ và xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội. Là bộ phận hợp thành lý tưởng, lý tưởng đạo đức là cơ sở lựa chọn những
giá trị đạo đức của thời đại; là mục tiêu cao nhất cho mọi hành vi đạo đức của các cá
nhân; là tiêu chuẩn cao nhất của các đánh giá đạo đức.
Thế giới mà chúng ta đang sống là tổng thể của những chân lý và sai lầm, của
các điều thiện và ác, của những hành vi đẹp và xấu được diễn ra trong mối quan hệ
tương tác giữa con người với tự nhiên và giữa những con người với nhau. Xuất phát từ
mục đích thực hiện lợi ích của mình, của dân tộc mình, của quốc gia mình, mỗi cá nhân,

mỗi dân tộc phải biết chọn lựa những giá trị phù hợp làm định hướng cho hành động
của mình. Lý tưởng đạo đức có vai trò quan trọng trong việc định hướng giá trị, định
hướng mục tiêu cho mọi hành động, tạo ra sự khát vọng, say mê, tạo ra động cơ thúc
đẩy chủ thể trong các hoạt động sáng tạo những giá trị đạo đức phù hợp với lợi ích của
mình, của dân tộc mình.
Lý tưởng đạo đức không chỉ phản ánh những giá trị đạo đức căn bản trong thực
tiễn xã hội mà còn phản ánh khả năng thực tế của sự phát triển xã hội tiến tới những giá
trị đạo đức cần có, những giá trị đạo đức cao nhất và hoàn thiện những giá trị đạo đức
ấy đáp ứng yêu cầu trong tương lai con người mong muốn. Trên bình diện nhân cách
đạo đức, lý tưởng đạo đức phản ánh những khát vọng của con người về giá trị đạo đức
với tư cách là mục đích của hành vi, là lợi ích của họ. ở đây, nhu cầu và lợi ích của chủ
thể đạo đức là hai yếu tố căn bản xác định nội dung sự định hướng giá trị đạo đức. Sự
thống nhất biện chứng giữa lý tưởng đạo đức của cá nhân và lý tưởng đạo đức của xã
hội là điều kiện cho chủ thể đạo đức tham gia tích cực vào hoạt động đạo đức xã hội.
Đồng thời nó cũng là một chỉ báo về sự phát triển ý thức đạo đức của con người như
một nhân cách. Tuy nhiên, "đạo đức là lý trí thực hành" nên lý tưởng đạo đức "trừu

năng lực đạo đức. ý thức đạo đức là sự thống nhất biện chứng của tình cảm đạo đức,
niềm tin đạo đức, tri thức đạo đức và lý tưởng đạo đức. Các yếu tố này tác động qua lại
lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau cùng phát triển. Năng lực đạo đức bao gồm năng lực
nhận thức, năng lực đánh giá, năng lực thực hiện hành vi đạo đức trong thực tế của mỗi
chủ thể đạo đức. Tuy nhiên, sự phân chia này chỉ mang một ý nghĩa tương đối, bởi ý

thức đạo đức khi thực hiện chức năng điều tiết các hành vi đạo đức của con người thì nó
hiện ra như là một yếu tố của năng lực đạo đức. Sự phát triển của nó chính là sự kích
thích nhu cầu và là điều kiện cho quá trình nhận thức, đánh giá, quá trình thực hiện
những hành vi đạo đức. Ngược lại, quá trình thực hiện hành vi đạo đức, quá trình nhận
thức và đánh giá đúng các hiện tượng đạo đức không chỉ là sự biểu hiện năng lực đạo
đức mà còn là thước đo sự phát triển của ý thức đạo đức.
Mỗi cá nhân ở những địa vị xã hội khác nhau đều có sự thể hiện nhân cách đạo
đức đặc trưng phù hợp với vị thế xã hội của mình: Nhân cách đạo đức cán bộ lãnh đạo,
nhân cách đạo đức giáo viên Sinh viên, một bộ phận xã hội đặc thù cũng có phương
diện thể hiện tính đặc thù trong nhân cách đạo đức của mình. Nhân cách đạo đức sinh
viên là trường hợp cụ thể của nhân cách đạo đức, là hình thức biểu hiện của tính Người
ở một tầng lớp xã hội đặc biệt.
Nhân cách đạo đức của sinh viên: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức (nhu
cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo đức ) của người sinh viên.
Nhân cách đạo đức sinh viên được thể hiện, thực hiện trong hoạt động học tập, trong
hoạt động ứng xử thông qua các quan hệ chủ đạo: quan hệ thày - trò, bạn bè, tình
yêu , trong hoạt động xã hội mà tập trung trong các hoạt động văn thể của cá nhân
mỗi sinh viên.
Xuất phát từ bộ phận xã hội đặc thù nên nhân cách đạo đức của sinh viên, bên
cạnh những biểu hiện chung của nhân cách đạo đức, thì có những biểu hiện đặc thù của
nhân cách đạo đức sinh viên.
Ví dụ: Lý tưởng đạo đức cao cả của sinh viên Việt Nam hiện nay vẫn là độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, là lý tưởng đạo đức cộng sản. ở tầm cao nhất, lý tưởng đạo
đức cộng sản là sự thống nhất giữa quan niệm và biểu tượng về các chuẩn mực, các

"Phải đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong học tập" [44, tr. 256]. Tình yêu ở đây,
không chỉ được hiểu đơn thuần là tình yêu đôi lứa mà nó bao hàm cả tình yêu đối với tri
thức khoa học. Đó là những đặc trưng cơ bản nhất của tình cảm đạo đức trong sinh viên.
1.1.3. Những nhân tố cơ bản qui định sự hình thành nhân cách đạo đức của
sinh viên
Sự hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức bị qui định trước hết bởi điều
kiện kinh tế - xã hội. Con người trong hoạt động sản xuất, hoạt động chính trị xã hội
đều thể hiện mục đích, lợi ích của mình trong quan hệ với những người xung quanh, với
xã hội. Mác khẳng định lịch sử không phải là cái gì khác mà là hoạt động của con người
theo đuổi những mục đích của mình, nhưng mục đích của con người bao giờ cũng xuất
phát và gắn liền với tính chế định của các điều kiện lịch sử - xã hội, các quan hệ kinh tế
trong một thời đại nhất định. Tính qui định khách quan của điều kiện kinh tế - xã hội là
tạo ra một giới hạn chung, một xu thế chung cho mọi hoạt động của con người. Sự phát
triển của nhân cách đạo đức, với tư cách là đạo đức của một cá nhân trong cộng đồng xã
hội cũng không nằm ngoài những qui định đó. Vì "con người ta, dù tự giác hay không tự
giác, rút cuộc đều rút những quan niệm đạo đức của mình ra từ những quan hệ thực tiễn
đang làm cơ sở cho vị trí giai cấp của mình, tức là từ những quan hệ kinh tế trong đó
người ta sản xuất và trao đổi" [39, tr. 136].
Bị qui định khách quan bởi điều kiện kinh tế - xã hội, nhưng cái trực tiếp qui
định bản chất và đặc trưng của nhân cách đạo đức lại không phải là tất cả các quan hệ
kinh tế, mà nhân tố qui định nhân cách đạo đức ở tầng sâu nhất đó là quan hệ lợi ích.
Bởi cái lõi vật chất của đạo đức là vấn đề lợi ích, không xuất phát từ lợi ích thì tư tưởng
đạo đức không có cơ sở và càng không thể hiểu được hành động trong thực tiễn lịch sử

của con người. Nói cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân
và xã hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt đạo đức của nhân cách.
Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng là tập hợp
của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách khác, do lợi ích và thông
qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp, liên kết và có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "ở đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có

của con người cá biệt phù hợp với toàn thể loài người" [35, tr. 199-200].
Việc giải quyết hài hòa giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân là động lực của sự
phát triển nhân cách đạo đức được minh chứng rõ ràng qua quá trình xây dựng đất nước
ta. Trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, lợi ích tập thể được đề cao, lấn át lợi ích
cá nhân, dẫn tới có sự đối lập tách rời giữa việc thực hiện hành vi đạo đức với việc thực
hiện lợi ích cá nhân. Con người đứng trước hai lựa chọn: thực hiện hành vi đạo đức phải
từ bỏ lợi ích của cá nhân; ngược lại hoạt động vì lợi ích cá nhân không thể có động cơ
để thực hiện hành vi đạo đức, điều này khiến cho hoạt động đạo đức của nhân cách bị
hạn chế. Vì vậy, nhân cách nói chung và nhân cách đạo đức nói riêng không có điều
kiện phát triển một cách hoàn thiện. Từ khi đất nước đổi mới, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ chế thị trường với tính đặc thù của mình là thừa
nhận tính hợp lý và thỏa mãn tối đa lợi ích cá nhân. Trên mặt tích cực của mình, lợi ích
cá nhân là "chất kích thích" thôi thúc con người năng động, sáng tạo, tích cực hoạt
động. Quá trình tham gia và chủ động tham gia vào các hoạt động kinh tế xã hội tạo
điều kiện cho sự phát triển toàn diện của nhân cách đạo đức. Bởi nhân cách đạo đức nói
riêng và đạo đức có thể chỉ được xác định đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các
nhu cầu và lợi ích.
Sự phát triển nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của truyền
thống đạo đức. Đồng thời nó cũng bị qui định bởi nhân tố văn hóa tinh thần xã hội và

Trích đoạn Xu hướng biến đổi của nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay Tạo lập môi trường xã hội lành mạnh cơ sở để xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên Việt Nam Đổi mới công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên Nâng cao vai trò của các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội sinh viên trong việc xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên hiện nay
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status