LUẬN VĂN: Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay doc - Pdf 15



LUẬN VĂN:
Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức
truyền thống cho sinh viên Việt
Nam hiện nay

mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng
nổ về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được trong những năm gần đây đã làm thay đổi cuộc
sống của nhiều dân tộc trên thế giới.

trên cội nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn.
Cội nguồn đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những
giá trị truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn
bị "hành trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền thống dân
tộc", những truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ
nước đã giúp chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất
gốc", trọng truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho
thanh niên Việt Nam nói chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản
lĩnh của mình, đứng vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề
hết sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn
chọn: "Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện

nay (qua thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)" làm đề tài
nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều
công trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía
cạnh này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống
Việt Nam" do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện
chứng của truyền thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền
thống dân tộc" của Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống
và cái hiện đại trong sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp
chí Thông tin Khoa học xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc, một nhu cầu phát triển của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết
học, số 4-1992; "Tìm hiểu định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện
kinh tế thị trường" do Thái Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá trị - định hướng

Thắng, Tạp chí Triết học, số 5, 2002; "Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục" của Nguyễn
Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học công nghệ và đạo đức trong
điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Từ
"cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị trường ở Việt Nam hiện nay"
của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002; "Quan hệ biện chứng giữa
truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh niên Việt Nam hiện nay",
Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu chuẩn đạo đức của
người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phòng, Tạp chí Lý luận chính
trị, số 5, 2003 v.v
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối
với việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta.

Tuy nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá
trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó
đưa ra phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác định
tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các
trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn

thời, nó cũng góp phần nhất định vào việc nhận thức rõ vai trò của việc giáo dục giá trị
đạo đức truyền thống cho tầng lớp sinh viên trong giai đoạn hiện nay. Bên cạnh đó, tác giả
luận văn cố gắng lượng hóa nội dung các giá trị đạo đức truyền thống quý báu của dân
tộc, làm cho đạo đức truyền thống dân tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà
mỗi con người Việt Nam luôn hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân
tộc cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói cách khác, ngay từ
đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trước thế kỷ XIX,
những kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức triết học. Sau này, khi khoa
học có sự phân ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ
giá trị được dùng để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử dụng trong
các lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học Trong
lĩnh vực kinh tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật khác khi trao
đổi với nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống
con người và đáp ứng được nhu cầu của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị
là yếu tố hàng đầu. C.Mác viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là
một lao động được nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo
ra giá trị cao hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [40, tr. 104-105].


nói trên được biểu hiện trong các nguyên tắc và chuẩn mực đạo đức, trong
lý tưởng, tâm thế và mục đích [63, tr. 1462].
Qua các khái niệm, các quan điểm về giá trị trên đây, có thể khái quát lại như
sau:
Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái
đúng, cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị
trí quan trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển
của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó luôn vận
động biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong từng thời điểm nhất
định. Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đã có giá trị trong quá khứ
đều giữ nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy giá trị mang tính lịch sử
khách quan, sự ra đời tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý
thức của con người mà do yêu cầu của từng thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá
trị giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp con người
định hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là động cơ thúc đẩy hoạt
động của con người.

Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí mục đích
phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá trị: Giá trị vật
chất và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn tại
và phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí
tuệ, tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật, phong tục tập quán Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời
sống tinh thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái
đúng, cái sai, cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người
với con người, con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và

trong bài "Đạo đức cách mạng" (tháng 12-1958) cũng đã viết: "Thói quen và truyền
thống lạc hậu cũng là kẻ địch to; nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ. Chúng ta
lại không thể trấn áp nó, mà phải cải tạo nó rất cẩn thận, rất chịu khó, rất lâu dài"
Hiểu theo nghĩa thứ nhất, truyền thống trở thành một bộ phận thiết yếu của đời
sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng ta. Tóm
lại, sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là

những chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người
với con người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị đạo đức sinh
thái). Đặc điểm cơ bản của truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói
riêng là sự kế thừa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam
đã rèn luyện và tạo nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương
con người, cần cù, thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó Những đức tính đó
đã trở thành những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời
nay chúng ta vẫn nâng niu quý trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến
truyền thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt
đẹp, có thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn phát huy
phát triển cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó.
Chính vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến
những phẩm chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài
lịch sử của dân tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta được cô đúc,
được thử thách và tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng trầm của
lịch sử, nó chứa đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh
vốn có của dân tộc Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị


Đạo Nho là một hệ thống quan điểm về thế giới, về xã hội và về con người, là
một học thuyết chính trị - đạo đức - xã hội (mà Khổng Tử là người khởi xướng) đã ảnh
hưởng mạnh mẽ tới đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam. Những nội dung tư tưởng
của Nho giáo như: Nhân; lễ; chính danh; tam cương; ngũ thường cũng dần thấm sâu
vào đời sống, trở thành lối sống, cách ứng xử ở đời của người Việt Nam và được Việt
hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống vốn
có của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn kết thân ái, gắn bó và
tinh thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà còn có
sự giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào
lưu văn hóa, tôn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được nhân dân Việt Nam kế thừa
có chọn lọc để hình thành nên những nét riêng đặc trưng cho mình, nhưng cái riêng đó
nó vẫn luôn ẩn chứa cái chung tạo nên sự tương đồng trong việc hình thành nên các
giá trị đạo đức của các dân tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương diện
nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập mà không hòa
tan, không đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự
cường dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ

quốc; lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù
sáng tạo trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc,
vì hạnh phúc của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối

sẵn sàng hy sinh thân mình, lúc hòa bình biết chăm lo xây dựng và bảo vệ quê hương
đất nước. Lòng yêu nước của dân tộc ta đã trở thành triết lý sống, triết lý nhân sinh,
trở thành chủ nghĩa yêu nước. GS. Trần Văn Giàu có viết: "Chủ nghĩa yêu nước là
sản phẩm của bản thân lịch sử Việt Nam được bắt đầu từ tình cảm tự nhiên của mỗi
người đối với quê hương mình tiến lên thành lý tưởng và hệ thống tư tưởng làm chủ
của nhận thức đúng sai, tốt xấu, nên chăng và chỉ đạo rất nhiều phương lược xây
dựng và bảo vệ nước nhà" [21, tr. 7].
Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn bó
con người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống
yêu nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương làng xóm,
yêu cây đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái,
bạn bè, bà con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người hàng ngày vất vả chiến
đấu với thiên nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm. Vì
vậy, yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cho

dù ở hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất, "thà hy sinh
tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái
trai nhất tề đứng lên đánh giặc, "còn cái lai quần cũng đánh". Chính vì vậy mà trải qua
hơn một ngàn năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn
bó với mồ mả tổ tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Kiên quyết chống lại
chính sách đô hộ của ngoại bang, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn
cảnh nào tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam không hề giảm sút mà nó luôn luôn
được hun đúc, âm ỉ cháy trong lòng mỗi người dân nước Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ thuở vua Hùng
dựng nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000 năm đấu tranh
giành độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng,
cho đến cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến thắng giòn giã,
đã mở ra một thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc ta liên tiếp đánh tan
quân xâm lược Tống, Nguyên, Minh, Thanh Đến thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc:

luôn xả thân vì đất nước, con người yêu nước và con người yêu dân gắn bó chặt chẽ
với nhau. Trong suốt trường kỳ lịch sử, dân tộc ta luôn luôn đứng trước nguy cơ bị
xâm lược và bị đồng hóa, hơn ai hết, chúng ta hiểu rất rõ quyền sống của mình gắn với
vận mệnh của Tổ quốc và dân tộc.
Lòng nhân ái nhân nghĩa của người Việt Nam còn thể hiện ở lòng vị tha cao
thượng, không cố chấp đối với những người lầm đường lạc lối, nhưng biết lập công
chuộc tội, trở về với chính nghĩa. Chính tư tưởng "lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn,
lấy chí nhân để thay cường bạo" trong Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi là sự thể
hiện đỉnh cao của lòng nhân ái đó. Người Việt Nam lấy tình yêu thương làm cách xử
thế ở đời, đối với kẻ thù thậm chí còn mở đường hiếu sinh khi thua trận, Vua Quang

Trung sau khi đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn
quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng
thương yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba tìm
đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập dân
tộc và hạnh phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: "Bác ơi tim Bác mênh
mông thế, ôm cả non sông mọi kiếp người". Lòng nhân ái của Người đã trở thành sức
mạnh, nó đã thấm sâu vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta,
có tác dụng cảm hóa hàng vạn con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân
dân. Bác xem họ như là những đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang. Bác nói: Giống
như bàn tay cũng có ngón dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay.
Trong mấy chục triệu người, có người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là
dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng
năm, Đảng và Nhà nước thường có những đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt,
điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại của Đảng:
"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển". Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu
chuộng hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng

Để có bát cơm thơm dẻo, người nông dân đã phải một nắng hai sương "bán
mặt cho đất bán lưng cho trời", hình ảnh người nông dân trong những câu ca dao dân
ca Việt Nam còn đó: "Trên đồng cạn dưới đồng sâu, chồng cày vợ cấy con trâu đi

bừa". Ông cha ta thường dạy con cháu phải biết quý trọng thành quả lao động của con
người: "Ai ơi bưng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần".
Truyền thống cần cù của người Việt Nam luôn gắn với tiết kiệm, vì vậy cần
mà không kiệm thì khác nào: "Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống". Nên ông cha
ta thường nhắc nhở con cháu rằng: "Được mùa chớ phụ ngô khoai. Đến khi thất bát lấy
ai bạn cùng". Hồ Chủ tịch đã nêu rõ: con người phải có bốn đức tính: Cần, kiệm, liêm,
chính, so sánh với bốn mùa của trời, bốn phương của đất, nếu thiếu một đức thì không
thành người:
Trời có bốn mùa: Xuân - hạ - thu - đông;
Đất có bốn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc;
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất;
Thiếu một đức thì không thành người [47, tr. 631].
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ, cần, kiệm, liêm,
chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất,
trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua

rộng rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà
máy xí nghiệp, trong nhà trường
Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền thống cần cù sáng tạo
càng được phát huy cao độ.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hòa vào dòng chảy của chủ

Truyền thống giáo dục - hiếu học của người Việt Nam được hình thành từ
nhiều thế hệ. Là người Việt Nam ngay từ thuở ấu thơ đã được sống trong lời ru của
mẹ:
"Qua sông phải bắc cầu Kiều,
Muốn con hay chữ phải yêu lấy thầy".
Câu hát ru đó đã thể hiện truyền thống "Tôn sư trọng giáo" của người Việt
Nam.
Truyền thống "Tôn sư trọng giáo" là một nội dung trong học thuyết của Khổng
Tử, khi vào Việt Nam đã trở thành một nội dung đạo lý của người Việt Nam. Học trò

Trích đoạn Kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống với hiện đại trong giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Xây dựng môi trường kinh tế xã hội trong sạch, lành mạnh tác động tích cực đến việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Đưa môn "Đạo đức học" trở thành môn học bắt buộc trong trường đại học và cao đẳng Phát huy tính tự giác và tính chủ động học tập, rèn luyện các giá trị đạo đức truyền thống của sinh viên Kết hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường, xã hội trong việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status