đề tài : " Nghiên cứu chế tạo chất tẩy rửa để xử lý cặn dầu trong các thiết bị tồn chứa và ph −ơng tiện vận chuyển " - Pdf 15

Bộ khoa học và công nghệ

Báo cáo khoa học thực hiện đề tài độc
lập cấp nhà nớc giai đoạn 2004-2005 T
ên đề tài :
N
ghiên cứu chế tạo chất tẩy rửa để xử lý cặn dầu
trong các thiết bị tồn chứa và phơng tiện vận chuyển

Cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài
PGS. TS Đinh Thị Ngọ Bộ khoa học và công nghệ
Hà nội 12/2005 Các chữ viết tắt dùng trong báo cáo

CTR: Chất tẩy rửa
DT: Dầu thông
DL: Dầu dừa
Dầu lạc
DS: Dầu sở
DN: Dầu ngô
DC: Dầu cám
DTBT : Dầu thông biến tính
HĐBM: Chất hoạt động bề mặt
SCBM: Sức căng bề mặt
CMC : Nồng độ mixen tới hạn
HLB: Chỉ số cân bằng tính a dầu - nớc
APG: Alkyl polyglucozit
NI: Không ion
GC - MS: Phơng pháp sắc ký khí kết hợp phổ khối
COD: Nhu cầu oxy hoá học
BOD: Nhu cầu oxy sinh hoá

tất từ lâu và đã có công nghệ ổn định. ở nớc ta, từ trớc đến nay, việc làm sạch bồn bể
chứa xăng dầu đợc thực hiện bằng phơng pháp thủ công, vừa có năng suất thấp, vừa
ảnh hởng đến sức khoẻ của công nhân ngành xăng dầu. Mặt khác, cặn dầu sau khi tẩy
rửa để phân huỷ tự do trong không khí, hoặc đem chôn dới đất, gây ô nhiễm trầm trọng
, ảnh hởng đến sức khoẻ của cộng đồng.
Từ tất cả các vấn đề đ nêu ở trên thấy rằng, phải chế tạo đợc một loại chất tẩy
rửa đặc chủng và tìm ra qui trình công nghệ để làm sạch cặn dầu trong các thiết bị
tồn chứa, phơng tiện vận chuyển. Việc này sẽ góp phần nâng cao chất lợng của
nhiên liệu và bảo vệ bồn bể chứa. Mặt khác, cũng cần phải có biện pháp xử lý cặn
dầu thu gom đợc để tránh ô nhiễm môi trờng. Đây cũng là mục đích đặt ra ngay từ
ban đầu của đề tài.
Để hoàn thành các tiêu chí đã đặt ra, trong đề tài này bao gồm các nhiệm vụ sau :

2
* Tổng quan lý thuyết về tác hại của cặn dầu, các phơng pháp tổng hợp chất tẩy
rửa cặn dầu và biện pháp xử lý môi trờng sau tẩy rửa.
* Xác định một cách có hệ thống thành phần cặn dầu tại các địa điểm, thời gian
tồn chứa, loại nhiên liệu tồn chứa khác nhau.
* Tổng hợp chất tẩy rửa cặn dầu từ dầu thực vật và các nguyên liệu khác sẵn có ở
Việt nam, mà tiêu biểu là dầu thông. Trong đó, phải biến tính dầu thông để tạo nguyên
liệu tốt hơn.
* Đa ra hớng dẫn qui trình công nghệ tổng hợp CTR,
* Thử nghiệm tẩy rửa cặn dầu trong các thiết bị tồn chứa và phơng tiện vận
chuyển tại Hải Phòng Petolimex. Xác định cơ chế tẩy rửa và thiết lập qui trình công
nghệ tẩy rửa các loại thiết bị ở trên.
* Nghiên cứu xử lý hỗn hợp sau tẩy rửa và đa ra hớng dẫn qui trình công nghệ
xử lý cặn dầu chống ô nhiễm môi trờng.
Báo cáo này sẽ chi tiết hoá các nội dung nêu trên dới góc độ khoa học, còn báo
cáo về các loại sản phẩm cụ thể thu đợc trong Đề tài sẽ đợc thể hiện theo biểu mẫu
HD1 và HD4.

I.1.1. Tác hại của cặn dầu đối với động cơ [46,48]
Trong cặn dầu luôn có nớc, nhựa, asphanten, dầu mỡ có phân tử lợng lớn,
cacboit, cacben vv Nớc luôn là tác nhân có hại, ví dụ, nớc trong dầu nhờn làm tăng
khả năng ôxy hoá của dầu, làm tăng quá trình ăn mòn các chi tiết kim loại tiếp xúc với
dầu, làm giảm tính bôi trơn. Nớc trong nhiên liệu làm giảm khả năng toả nhiệt của
nhiên liệu, làm tắc bộ chế hoà khí, tắc vòi phun nhiên liệu. ở nhiệt độ thấp, nớc đóng
băng và làm tắc hẳn các thiết bị lọc nhiên liệu, làm tắc ống dẫn, đấy có thể là nguyên
nhân tai nạn của các động cơ hàng không.
Các chất nhựa kết tủa trong nhiên liệu sẽ làm giảm hẳn các tính chất sử dụng của
nhiên liệu đó và gây hậu quả xấu cho sự hoạt động của động cơ. Nguyên nhân chủ yếu
của những sự cố xảy ra trong động cơ là do sử dụng loại nhiên liệu có lẫn những sản
phẩm ôxy hoá sinh ra trong quá trình tồn chứa lâu dài. Các sản phẩm nhựa không hoà
tan (mặc dù số lợng không lớn lắm) cùng với nớc, cặn bẩn và gỉ kim loại tạo thành

4
chất kết tủa dới dạng nhũ tơng bền vững, là nguyên nhân chủ yếu gây nên bẩn tắc bộ
lọc. Khi lọt vào động cơ, các sản phẩm ôxy hoá đó sẽ bịt kín các bộ lọc, đóng cặn trong
hệ thống hút và sẽ dễ dàng gây nên sự cố trong quá trình hoạt động của động cơ. Khi
cấp nhiên liệu cho máy bay, ô tô và máy kéo, các phần tử đó sẽ theo sản phẩm dầu đi
qua các lớp lọc mỏng, lọt vào động cơ, phá hoại chế độ làm việc bình thờng của động
cơ và mài mòn trớc thời hạn quy định. Những năm gần đây, do sự phát triển vô cùng
mạnh mẽ của những động cơ đốt trong và động cơ phản lực, ngời ta đã chế tạo ra
những loại nhiên liệu và dầu mỡ bôi trơn có tính ổn định nhiệt cao ;việc tồn chứa những
loại nhiên liệu và dầu mỡ đó đòi hỏi nhiều yêu cầu cao hơn nữa về chất lợng các bồn
bể chứa và phơng tiện vận chuyển .
I.1.2. Tác hại của cặn dầu đối với bồn bể chứa [46]
Trong các nhiên liệu đều có nớc; hiện tợng gỉ sẽ xuất hiện ở những nơi tiếp xúc
giữa nớc với kim loại. Trong quá trình tồn chứa tại bể, các sản phẩm dầu dần dần bị lẫn
nớc do hấp thụ hơi nớc trong khoảng trống chứa hơi, do đó làm cho bể bị gỉ, chủ yếu
là nắp và các tầng thép phía trên của thành bể là nơi tiếp xúc thờng xuyên với không

Trong quá trình chế biến dầu mỏ, phần cặn dầu tồn tại chủ yếu ở dạng dầu cặn FO
hay bitum (bitum là loại sản phẩm nặng nhất thu đợc từ dầu mỏ hoặc bằng con đờng
chng cất chân không rất sâu hoặc bằng con đờng khử asphan bằng propan các loại cặn
chng cất chân không, hoặc bằng con đờng ôxy hoá tất cả các loại cặn sinh ra trong
quá trình chế biến dầu mỏ). Do vậy có thể xem nh quá trình chế biến dầu mỏ thành các
sản phẩm khác nhau không sinh ra cặn dầu trực tiếp mà cặn dầu chỉ sinh ra trong quá
trình vận chuyển, tồn chứa dầu thô trớc khi đa vào chế biến.
1.2.2. Sự tạo thành cặn dầu trong quá trình vận chuyển, tồn chứa hay xuất nhập
trong hệ thống bồn bể chứa [10]
Trong quá trình vận chuyển và tồn chứa, phẩm chất của dầu mỏ cũng nh các sản
phẩm dầu có thể bị kém đi do mất các phần nhẹ (bay hơi), do nhiễm bẩn các tạp chất cơ
học, do lẫn lộn các loại dầu khác nhau trong khi nhập vào các phơng tiện cha đợc
tháo cạn và cha rửa sạch, hoặc trong khi bơm chuyển liên tiếp các loại sản phẩm dầu
khác nhau trong cùng một đờng ống, do lẫn nớc, hoá nhựa dới tác dụng của ôxy
trong môi trờng có không khí có tác động của nhiệt độ.
Cho dù là tồn chứa hay vận chuyển dầu dới hình thức nào đi nữa: đờng bộ,
đờng sắt, đờng thuỷ, tuyến ống thì sau một thời gian nhất định, tuỳ theo phẩm chất

6
của các sản phẩm đó, thời gian và nhiệt độ tồn chứa, vòng lu chuyển mà có hiện
tợng tích tụ, tức là hiện tợng các phần tử rắn to lên và lắng đọng xuống.
Nhiều nhà nghiên cứu đã khẳng định rằng, hiện tợng lắng đọng nhựa-parafin tuỳ
thuộc vào kích thớc các tinh thể parafin, khả năng hợp thể của chúng ; các tính chất bề
mặt của các tinh thể và các đặc điểm lý-hoá của môi trờng dầu mỏ, trong đó sẽ xảy ra
hiện tợng lắng đọng. Rõ ràng là các tinh thể parafin càng nhỏ bao nhiêu thì chúng càng
lắng đọng chậm bấy nhiêu (trờng hợp không có quá trình hợp thể), và ở một mức độ
kích thớc nhất định, chúng không thể lắng đọng đợc mà ở trong trạng thái chuyển
động Brao. Vậy ngời ta thấy rằng, cặn dầu xuất hiện trong quá trình tồn chứa và vận
chuyển chính là do hai nguyên nhân: thứ nhất là do tính thiếu ổn định của nhiên liệu
trong quá trình bảo quản, thứ hai là do trong quá trình xuất nhập: nớc, tạp chất cơ học

đôi khi có thêm các loại muối khoáng, ngoài ra hàm lợng tạp chất thờng thay đổi
trong một giới hạn khá rộng. Tất cả các tạp chất khi lọt vào ống dẫn chỉ có một phần
lắng đọng lại trong ống, còn phần lớn lọt vào các bể nhập.
Trong những sản phẩm dầu đã đợc tinh chế bằng đất sét trắng, phần lớn các tạp
chất cơ học chính là loại đất hấp thụ nói trên; còn trong những sản phẩm dầu đợc tinh
chế bằng các phơng pháp khác thì các tạp chất cơ học bao gồm gỉ sắt và nhiều muối
khoáng khác nhau.
Ngoài ra, các tạp chất còn có thể theo thuốc nhuộm lọt thêm vào các loại xăng ô tô
trong quá trình nhuộm màu xăng tại các nhà máy lọc dầu. Khi phân tích các tạp chất cơ
học thu đợc sau khi lọc loại xăng nói trên, ngời ta thấy rằng, gần 10% là các phần tử
thuốc nhuộm hữu cơ không tan và 90% là ôxit sắt ở dạng bụi gỉ sắt.
Các sản phẩm dầu sáng (xăng, dầu hoả, nhiên liệu phản lực) vận chuyển bằng
wagon xitec thờng bị lẫn tạp chất cơ học nhiều nhất. Trong đó có gỉ của thành trong
xitec, bụi từ không khí rơi vào trong khi xuất nhập, những mảnh nhỏ joăng nắp bị h
hỏng Kích thớc của các phần tử tạp chất trong xăng là vào khoảng 70micron và tổng
số các phần tử đủ loại to nhỏ trong 1l xăng là vào khoảng 500.
Rõ ràng là trong khi bơm dầu vào bể, phần lớn dầu đã bị đảo trộn lên, trong đó có
các hạt gỉ sắt rất nhỏ và các tạp chất cơ học khác đã bị khuấy từ d
ới đáy lên.

8
Ngoài ra, do các hạt ngng kết lớn bị phân huỷ cũng làm tăng tổng số các hạt tạp
chất lên, những hạt này sau một thời gian dài sẽ kết tụ lại dới trạng thái huyền phù
trong sản phẩm dầu và sẽ làm cho phẩm chất sản phẩm dầu xấu đi.
Thông thờng sau một thời gian tồn chứa, mức độ nhiễm bẩn của các loại dầu
sáng trong bể chứa sẽ giảm đi. Nhng cũng trong thời gian đó, dầu lại bị nhiễm bẩn bởi
gỉ của bể chứa và đờng ống, bởi bụi từ không khí lọt vào trong quá trình hô hấp lớn và
nhỏ của bể chứa, bởi các sản phẩm mài mòn của các thiết bị bơm chuyển Bởi vậy
tổng mức nhiễm bẩn bởi các tạp chất cơ học của sản phẩm dầu vẫn còn rất cao. Theo tài
liệu thì trung bình cứ 100 tấn xăng có từ 1,7ữ3,9 kg tạp chất lắng đọng lại trong các bể

trong một năm là từ 500 ữ 800mm. Khi súc rửa các bể này, ngời ta phải bỏ tới 400 ữ
450m
3
dầu cặn trong mỗi bể.
Trên bảng 1.1 là thành phần gần đúng của phần cặn trong các bể chứa dầu mỏ
(tính ra %KL):
Bảng 1.1: Thành phần cặn trong bể chứa dầu mỏ
Thành phần Hàm lợng (%KL)
Nớc 18
Các loại tạp chất cơ học 12
Dầu mỡ và Parafin 21
Các sản phẩm dầu lỏng và các chất nhựa, asphanten 49

1.3.1. Cặn các sản phẩm dầu sáng
Tính chất của các loại cặn đáy trong các bể chứa dầu sáng có khác đôi chút so với
cặn trong các bể dầu mỏ nguyên khai. Tạp chất chủ yếu trong các loại cặn đáy ở đây
bao gồm các sản phẩm ăn mòn (vảy gỉ sắt) và các tạp cơ học. Các sản phẩm ăn mòn
nằm lẫn trong khối sản phẩm dầu dới dạng các hạt cực nhỏ trong suốt quá trình sử
dụng bể. Trong đó các sản phẩm ôxy hoá chiếm phần lớn (đặc biệt là trong các sản
phẩm chế tạo bằng phơng pháp xúc tác).
Cặn trong các bể chứa dầu nhờn cũng gồm các sản phẩm ăn mòn, các tạp chất cơ
học và các loại nhũ tơng dầu lẫn nớc.

10
1.3.2. Cặn dầu mazut
Khác với cặn trong các bể chứa sản phẩm dầu sáng, dầu nhờn và dầu mỏ nguyên
khai, cặn trong các bể chứa mazut có những đặc điểm riêng; bởi vậy các thao tác súc
rửa những bể này cũng có một số điểm khác biệt.
Thành phần hoá học của các loại cặn đáy trong các bể chứa mazut khác hẳn với
cặn của các sản phẩm dầu sáng. Phần chính của cặn này là các hợp chất cao phân tử

45,9
Tro 5,8
Lu huỳnh 3,8

Tóm lại, cặn đáy trong các bể chứa mazut là một khối đặc sệt. Các chất nhựa,
asphanten lắng xuống đáy bể, lâu dần dính kết lại với nhau, tạo thành một lớp cặn vững
chắc. Nếu cặn này tồn tại lâu dài trong bể thì sự kết dính lại càng tăng thêm và cặn sẽ
trở thành một loại nhựa asphan cứng.Việc súc rửa bể cho sạch loại cặn này sẽ rất khó,
nếu ta không sử dụng các biện pháp cơ học chuyên dụng, các biện pháp hoá lý hay chất
tẩy rửa đặc chủng.
1.4. Giới thiệu bồn bể chứa [46,48]
Trong ngành công nghiệp dầu khí thì bề mặt bị nhiễm bẩn bởi các cặn bẩn dầu
chính là các loại phơng tiện tồn chứa chúng. Dầu mỏ nguyên khai và các sản phẩm dầu
đợc tồn chứa trong nhiều loại phơng tiện khác nhau: bể kim loại nổi trên mặt đất, bể
bê tông cốt thép nửa nổi, nửa ngầm và hoàn toàn ngầm dới mặt đất, túi chứa sản phẩm
dầu ngầm trong những lớp đất đá đã đợc xử lý cho phẳng và không thẩm thấu, các loại
thùng phuy nhỏ vv Tại các kho trung chuyển cỡ lớn, ta còn thấy loại bể chứa làm theo
kiểu hố lớn.
Tùy theo loại vật liệu làm bể, ngời ta chia các bể chứa ra làm hai loại: bể kim loại
và bể phi kim loại (bằng gạch, bê tông và bê tông cốt thép).
Việc lựa chọn phơng tiện tồn chứa đợc dựa trên cơ sở tính toán kinh tế - kỹ
thuật, trong đó ngời ta phải tính đến loại sản phảm đợc tồn chứa, khả năng giảm bớt
hao hụt do bay hơi (đối với các loại dầu sáng) cũng nh giá thành thiết bị và giá thành
sử dụng.

12
Bể kim loại: Thờng sử dụng rộng rãi nhất là loại bể thép hình trụ đứng, nổi trên
mặt đất, có đáy phẳng và mái hình nón, áp suất dơng là 200 mm cột nớc và áp suất
âm là 25 mm cột nớc (các bể mẫu). Bể đợc sản xuất theo các dung tích danh định
100, 200, 300, 400, 700, 1000, 2000, 3000 và 5000m

Tính chất của các loại bồn bể khác nhau sẽ dẫn đến có những phơng pháp khác
nhau để tẩy rửa làm sạch.

II. Thành phần và cơ chế tác động của chất tẩy rửa
2.1. Thành phần chính trong các chất tẩy rửa thông thờng
Chất tẩy rửa dùng trong sinh hoạt và trong công nghiệp có thành phần rất phức tạp,
nhng có thể bao gồm các nhóm chính nh sau:
- Chất hoạt động bề mặt.
- Chất xây dựng.
- Chất phụ gia.
Mỗi thành phần đơn lẻ trong chất tẩy rửa đều có những chức năng rất đặc biệt
trong quá trình tẩy rửa, tuy nhiên chúng vẫn có ảnh hởng qua lại lẫn nhau. Ngoài các
thành phần chính trên đây, tuỳ thuộc vào quá trình sử dụng mà ta có thể cho thêm vào
các chất phụ gia hoặc bỏ bớt những thành phần không cần thiết [1,20,32,64,66,82]
2.1.1. Chất hoạt động bề mặt (HĐBM) [23,36,77,87,90]
Chất HĐBM chiếm vai trò quan trọng nhất trong thành phần chất tẩy rửa. Nó có
mặt ở tất cả các loại chất tẩy rửa khác nhau. Nhiệm vụ của nó là đảm bảo sự tẩy đi các
vết bẩn và những chất lơ lửng trong nớc giặt để ngăn cản sự bám lại của chúng trên bề
mặt.
Một phân tử chất HĐBM gồm hai đầu: Một đầu kỵ nớc (không tan trong nớc) và
một đầu a nớc (tan trong nớc). Các phân tử này có tác động lớn vào các giao diện
không khí/nớc hoặc dầu/nớc. Ngời ta đặt tên cho chúng là những tác nhân bề mặt,
hoặc đơn giản là chất HĐBM, hoạt động hai mặt. Có bốn loại chất HĐBM: các anionic,
các chất không ion, các cationic và các chất lỡng tính.
- Chất HĐBM anionic: Nếu nhóm hữu cực đợc liên kết bằng hoá trị cộng với
phần kỵ nớc của chất HĐBM mang điện tích âm (-COO
-
, -SO
3
-

H
33
- H
+
N
2
-CH
2
-COOH chất cationic trong môi trờng axit.
C
16
H
33
-NH-CH
2
-COO
-
chất anionic trong môi trờng kiềm.
Trong tất cả các phân tử ấy, phần kỵ nớc gồm một dây alkyl hay dây béo. Chúng
đợc biểu thị bằng:
CH
3
-CH
2
-CH
2
-CH
2
hoặc
hoặc R

nhiều hơn nh:
- Những rợu béo có sulfat gốc dầu thực vật (dầu dừa): PAS.
- Những alkyl poly glucosit: APG.
- Các alkyl-glucosamit.
- Các metyl este sulfonat.
- Các rợu béo etoxy hoá với sự phân phối hẹp của số oxit etylen.
Đối với một chất HĐBM NI bình thờng có trung bình 7 phân tử oxit etylen, con
số này thay đổi từ 1 ữ 15. Đối với cùng một chất HĐBM NI với một sự phân phối hẹp,
số lợng các phân tử oxit etylen ở vào khoảng giữa 3 và 12. Loại chất HĐBM NI này rất
công hiệu, nhng giá thành còn cao vì cách thức chế biến nó phức tạp hơn.
Tỷ lệ của các chất HĐBM đợc sử dụng: Cũng khó để đa ra một quy tắc tổng
quát về tỷ lệ của chất HĐBM dùng trong tẩy rửa. Thật vậy, nhiều yếu tố cần đợc lu ý
để xác định tỷ lệ của chúng thờng là:
- Tỷ trọng của sản phẩm
- Loại chất xây dựng
- Tính chất của các chất xây dựng

16
2.1.2. Chất xây dựng
Các chất xây dựng đóng một vai trò trung tâm trong suốt quá trình tẩy rửa; chức
năng của chúng là làm tăng hoạt tính tẩy rửa và loại bỏ ảnh hởng của các ion Ca
2+

Mg
2+
có trong nớc và đôi khi có trong thành phần chất bẩn và bề mặt nhiễm bẩn. Các
chất xây dựng hiện đại phải bao gồm những tính năng sau:
- Loại bỏ đợc ảnh hởng của các kim loại kiềm thổ từ nớc, bề mặt, chất bẩn.
- Tính năng tẩy rửa tốt đối với các chất màu, chất béo, thích hợp với các bề mặt
nhiễm bẩn khác nhau, cải thiện tính chất của chất hoạt động bề mặt, có đặc tính tạo bọt

-
Orthophosphat
P
O
O
O
O
-
-
P
O
O
O
-
-
Diphosphat = Pyrophosphat
P
O
O
O
O
-
-
P
O
O
O
-
P
O

O
-
Ca

Với Tripolyphosphat có hai khả năng:
Ca
P
O
O
O
O
P
O
O
O
P
O
O
O
O
P
O
O
O
P
O
O
O
-
-

2
CH COOH
2
CH COOH
2
N18
EDTA (Ethylen Diamin Tetra-Axetat)
CH
2
N
COOH
CH
2
COOH
CH
2
CH
2
N
CH
2
HOOC
CH
2
HOOC

Axit Citric và axit Tartric :

CH
2
H O P
3
2
CH
2
H O P
3
2

b- Các chất trao đổi ion
Từ nhiều năm nay, việc sử dụng những chất trao đổi ion trong nhiều sản phẩm tẩy
rửa đã gia tăng đáng kể vì những lý do môi trờng. Những nguyên liệu mới không tan
này là những silico-aluminat Natri, zeolit, nguyên liệu xa nhất là
Zeolt dạng 4A
Gần đây, những Zeolit với phẩm chất mới đã xuất hiện; đặc biệt là Zeolit MAP mà
tốc độ trao đổi Ca
2+
nhanh hơn tốc độ trao đổi cation của Zeolit 4A nhờ hình dạng tinh
thể của nó (hình phẳng). Hơn nữa Zeolit này giúp tạo đợc sự ổn định về các tác nhân
làm trắng trong chất tẩy rửa. Sau cùng, chất lợng mới này lại giúp "hấp phụ nhiều
hơn một lợng lớn các thành phần lỏng (chất HĐBM) so với Zeolit A. Điều trở ngại
chính của các nhựa trao đổi ion là chúng không có khả năng "xử lýcác ion canxi trong
nớc, nhng trái ngợc với các tác nhân phức hợp, chúng có khả năng "gỡ ra các ion
bám trên bề mặt nhiễm bẩn, ở những vết bẩn.
c-Những tác nhân kiềm
Cacbonat natri đợc dùng thờng xuyên trong thành phần chất tẩy rửa, đặc biệt
trong lĩnh vực giặt giũ quần áo, vì nó có một dự trữ kiềm, nó có khả năng đệm và cũng
có vai trò chống canxi trong những điều kiện khó khăn, bằng cách làm kết tủa CaCO

O
O
O
CH OR
2
CH OR
2
H
OR
H
H
H
H
H
H
H
H
OH
H
H
OR
OR
- CH
3
- CH
2
CH
3
- CH
2

- Sự lựa chọn các chất HĐBM tạo bọt hay không tạo bọt: Một chất HĐBM hay
một hỗn hợp chất HĐBM có thể làm thành một hệ thống tạo bọt. Mặt khác, sự thêm một
chất phụ gia có thể tạo một lợng lớn bọt với một chất HĐBM ít bọt. Ngợc lại, một
chất HĐBM với khả năng tạo bọt cao có thể bị biến cải thành một hệ thống không tạo
bọt qua việc sử dụng một chất êm bọt. Thông thờng số lợng bọt tăng với nồng độ đạt
tối đa quanh nồng độ micelle tới hạn (CMC). Tất cả các yếu tố có khả năng cải biến
CMC có thể tăng hoặc giảm khả năng tạo bọt của một chất HĐBM. Các yếu tố đó là:
Nhiệt độ.
Sự có mặt của một chất điện giải (muối vô cơ).
Cấu trúc của phân tử chất HĐBM.
- Sử dụng những phụ gia làm tăng bọt: Có nhiều chất phụ gia có thể làm thay đổi
các đặc tính mixen hoá của một chất HĐBM và nh vậy, làm biến đổi sự ổn định và khả
năng tạo bọt của sản phẩm.
Theo một số tác giả / 32,82,87,88/, việc thêm vào một số hợp chất hữu cơ đối cực
có thể làm giảm CMC của những chất HĐBM. Việc sử dụng hợp chất có một dây
cacbon thẳng có cùng chiều dài giống nh chiều dài của chất HĐBM là phơng thức

21
hiệu nghiệm nhất để làm ổn định bọt của một chất HĐBM. Các chất làm tăng bọt sau
đây đợc xếp theo thứ tự hiệu lực tăng dần.
Ete glyxerol< Ete sulfonyl<Amit<Amit N thay thế
*
Các tác nhân chống bọt
Các tác nhân chống bọt làm giảm hoặc loại trừ bọt của sản phẩm. Chúng tác động
hoặc bằng cách ngăn cản sự tạo bọt, hoặc bằng cách làm tăng tốc độ phân huỷ chúng.
Trong trờng hợp thứ nhất, đó là những ion vô cơ nh canxi, có ảnh hởng đến sự ổn
định tĩnh điện hoặc giảm nồng độ các anion (bằng kết tủa). Trong trờng hợp thứ hai, đó
là những hợp chất vô cơ hoặc hữu cơ, sẽ đến thay thế các phân tử các chất HĐBM của
màng bọt, nh vậy làm cho bọt ít ổn định.
Những hạt keo không a nớc (đất sét, silic) có thể đợc sử dụng nh là những

)
n
- COOH.
Các axit này là nguyên liệu đầu quan trọng trong công nghiệp sản xuất polyamide
hay diester và polyester. Các ester đợc sản xuất bằng phản ứng giữa axit dicacboxylic
với rợu đơn chức, tạo thành các chất dẻo hay dầu nhờn. Bên cạnh đó, axit dicacboxylic
nh là chất trung gian trong rất nhiều các phản ứng tổng hợp hữu cơ.
a- Axit Oleic.
Công thức phân tử : CH
3
-(CH
2
)
7
-CH=CH-(CH
2
)
7
-COOH.
Axit Oleic là chất lỏng không màu, không mùi, không vị, điểm nóng chảy của nó
là 14
o
C. Axit Oleic có cấu tạo cis, đồng phân trans của nó là axit Elaidic, nóng chảy
ở51
O
C. Dới tác dụng của axit Nitro, axit Oleic đồng phân hoá thành axit Elaidic:
CH-(CH
2
)
7


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status