Ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ việt nam hiện nay - Pdf 15

Những kết quả khoa học của luận án chưa được công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Vân
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 5
1.1. Những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo và thuyết tam
tòng, tứ đức trong Nho giáo 5
1.2. Những công trình nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ
đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 12
1.3. Những công trình nghiên cứu quan điểm và giải pháp chủ yếu
nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu
cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam
hiện nay 18
Chương 2: THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO 23
2.1. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Trung Quốc 23
2.2. Thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam 38
Chương 3: ẢNH HƯỞNG CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI
VỚI NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY- THỰC
TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
62
3.1. Ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay 62
3.2. Ảnh hưởng tích cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối với người
phụ nữ Việt Nam hiện nay 89
3.3. Những nhân tố làm biến đổi sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ
đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay 108
3.4. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức

Nho giáo ra đời thời Xuân Thu - Chiến Quốc - thời kỳ mà tình hình
kinh tế - xã hội có nhiều biến động nhất trong lịch sử Trung Quốc. Các nước
chư hầu nhà Chu tranh giành quyền lực, tàn sát lẫn nhau làm cho xã hội lâm
vào cảnh loạn lạc, rối ren. Trước tình hình đó, các nhà tư tưởng của Nho giáo
đã lý giải các vấn đề xã hội và họ muốn tìm ra phương pháp đưa xã hội từ
loạn lạc tới thịnh trị. Chính vì vậy, có nhiều ý kiến cho rằng, thực chất Nho
giáo là đạo trị nước, Nho giáo là đạo làm người vì bàn nhiều tới việc giáo dục
đạo đức cho con người - nhân tố giúp xã hội ổn định, trật tự.
Nội dung giáo dục đạo đức cho con người của Nho giáo tập trung ở các
phạm trù cơ bản như Tam cương, Ngũ thường, Chính danh. Đối với người
phụ nữ, nội dung giáo dục đạo đức của Nho giáo thể hiện rõ thông qua thuyết
tam tòng, tứ đức.
Nho giáo được truyền vào nước ta từ thời Bắc thuộc. Khi vào Việt
Nam, nó được cải biến đi cho phù hợp với tính chất ôn hòa vốn có của người
Việt. Trong quá trình tồn tại, giai cấp phong kiến Việt Nam sử dụng Nho giáo
làm công cụ để thiết lập ổn định trật tự xã hội và duy trì sự thống trị của giai
cấp cầm quyền. Trải qua những bước thăng trầm của lịch sử, Nho giáo đã có
chỗ đứng nhất định trong đời sống tư tưởng của người Việt. Trong các nội
dung đạo đức của Nho giáo thì thuyết tam tòng, tứ đức là những quy phạm
giáo dục đạo đức cơ bản đối với người phụ nữ. Tư tưởng này đã có ảnh hưởng
rất sâu sắc đến vai trò, vị trí, cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh
các giá trị tích cực, thuyết tam tòng, tứ đức có nhiều mặt tiêu cực, trói buộc
người phụ nữ Việt Nam vào lễ giáo phong kiến, kìm hãm các bước tiến của
họ. Tuy nhiên, thuyết tam tòng, tứ đức trên chặng đường dài của lịch sử dân
tộc, nó vẫn có giá trị nhất định góp phần làm nên vẻ đẹp truyền thống của
người phụ nữ Việt Nam.
Ngày nay, mặc dù cơ sở kinh tế - xã hội của nhà nước phong kiến
không còn nhưng phần nào tư tưởng của Nho giáo nói chung; thuyết tam
tòng, tứ đức nói riêng vẫn còn tồn tại ít nhiều và có ảnh hưởng đến người phụ
1

Nho giáo Trung Quốc và Việt Nam, phân tích ảnh hưởng của nó; luận án đề
2
xuất một số quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những ảnh hưởng
tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam tòng, tứ đức đối
với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức trong Nho
giáo Trung Quốc và Nho giáo Việt Nam.
- Làm rõ thực trạng ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức trong Nho giáo đối với người phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
- Đề xuất quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những
ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của thuyết tam
tòng, tứ đức đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án tập trung làm rõ một số nội dung cơ bản trong thuyết tam tòng, tứ
đức của Nho giáo và sự ảnh hưởng của nó đối với phụ nữ Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu ảnh hưởng của thuyết tam tòng, tứ đức
đối với người phụ nữ Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
- Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về
vấn đề phụ nữ
- Luận án dựa trên cơ sở nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của Nho giáo và
các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; kết hợp chặt chẽ lý luận và thực tiễn, sử dụng phương

THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC TRONG NHO GIÁO
Thứ nhất, những công trình nghiên cứu về đạo đức Nho giáo
Trong tác phẩm Nho giáo (quyển Thượng và quyển Hạ), Trần Trọng
Kim đã khái quát quá trình hình thành, phát triển và các quan điểm của Nho
giáo qua các giai đoạn phát triển chủ yếu. Trong quyển Thượng, tác giả phân
tích cụ thể khái niệm và nội dung của thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử
phát triển của Nho giáo trung Quốc và Nho giáo ở Việt Nam.
Trong Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã trình bày rõ một số phạm
trù, nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Tác giả đặc biệt đề cao những giá trị của
Nho giáo và coi đạo đức Nho giáo có vai trò cực kỳ to lớn trong việc giáo
dục, hoàn thiện nhân cách con người.
Trong tác phẩm Khổng giáo phê bình tiểu luận, Đào Duy Anh cho rằng,
chúng ta phải có thái độ khách quan, toàn diện và khoa học khi nhận xét vai
trò của Nho giáo trong xã hội. Ông phê phán thái độ của một số trí thức ở
Trung Quốc và Việt Nam coi Nho giáo chỉ là vô dụng, không phù hợp với
khoa học. Đặc biệt, ông đã nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những nội dung
cơ bản của Nho giáo để từ đó đi đến kết luận, Nho giáo “dẫu nó không thích
hợp nữa ở đời nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch
sử, không ai có thể chối cãi hay xóa bỏ đi được” [1, tr.150].
Trái ngược với hai quan điểm trên về Nho giáo (ca ngợi và phủ nhận),
trong Nho giáo xưa và nay [36], Quang Đạm cho rằng, Nho giáo có cả hai mặt
tích cực, hạn chế và vấn đề là biết tiếp thu, vận dụng nó như thế nào cho hợp lý.
Trong bài Đạo đức Nho giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam của
Trần Văn Giàu, từ chỗ chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa đạo đức Nho
giáo và đạo đức truyền thống Việt Nam, tác giả khái quát một số đặc điểm
của nền đạo đức truyền thống và nêu lên những tàn dư của đạo đức Nho giáo
cần phải khắc phục trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó
5
là chủ nghĩa gia đình, chủ nghĩa đồng tộc, phương châm trị đạo “thân thân”
gây trở ngại cho thực hiện dân chủ, động viên tài năng [Dẫn theo 135].

Nôm số 3 (28) - 1996, tác giả Lê Thu Hương đã thông báo có khoảng 34 tên
tài liệu. Bên gia huấn có niên đại sớm nhất mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm
còn lưu giữ là Cùng đạt gia huấn (VHv.286). Đây là một bản viết tay, có niên
đại 1733, do Hồ Sĩ Tích soạn. Cuốn này chép những bài học kinh nghiệm
trong cuộc đời của ông, dạy con cháu trong nhà giữ gìn nền nếp, biết cần
kiệm, cẩn thận, khiêm tốn, tránh kiêu căng, xa xỉ, đắm chìm trong chuyện
rượu chè Nói chung, sách gia huấn nêu ra những chuẩn mực ứng xử trong gia
đình như cha con, vợ chồng, anh em, hoặc mở rộng ra trong mối quan hệ xã hội
(quan hệ láng giềng, bạn bè). Một số bản còn đề cập đến giáo dục giới tính cho
con trai, con gái (Hành tham gia huấn, Nữ huấn tam tự thư, Xuân Đình gia
huấn). Riêng về bàn luận về Nữ huấn có 10 tên tài liệu [Dẫn theo 174].
Trong Nho học và Nho học Việt Nam của Nguyễn Tài Thư [156] đã có
nhiều kiến giải mới về ảnh hưởng và vai trò của xã hội đối với xã hội và con
người Việt Nam trong lịch sử. Khi đề cập tới phạm vi, ảnh hưởng của Nho
giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, tác giả cho rằng, ảnh hưởng quan trọng
hơn của Nho giáo là trong lĩnh vực thế giới quan và nhân sinh quan. Quan
niệm của Nho giáo về thuyết tam tòng, tứ đức thuộc về nhân sinh quan (quan
niệm về đạo đức người phụ nữ trong xã hội phong kiến). Chính vì vậy, tư
tưởng này có ảnh hưởng rất lớn đối với đời sống tinh thần con người Việt
Nam, phụ nữ Việt Nam xưa và nay.
Trong cuốn sách Nho giáo tại Việt Nam do Lê Sĩ Thắng chủ biên [135]
có một số bài viết đề cập tới vấn đề đạo đức của Nho giáo - thuyết tam tòng,
tứ đức đối với phụ nữ Việt Nam.
Bài Nho giáo triều Nguyễn và sự thất bại hoàn toàn của nó trước thử
thách của lịch sử của Nguyễn Tài Thư có nhận định rằng “vua quan nhà
Nguyễn chỉ muốn người phụ nữ cam tâm tới số phận thấp hèn để không còn
khả năng gì có thể gây tác hại cho trật tự xã hội đương thời”. Tác giả khẳng
định: “Hoảng sợ trước sức mạnh của phụ nữ mà Bùi Thị Xuân, một nữ tướng
của Tây Sơn là tiêu biểu, bực tức trước những yêu cầu tự do và bình đẳng của
phụ nữ mà Hồ Xuân Hương nói lên bằng thơ, vua quan nhà Nguyễn ra sức

Theo tác giả, cuộc sống vợ chồng là cơ sở tồn tại của gia đình. Nhưng xuất
phát từ quan điểm coi trọng huyết thống và từ thái độ coi thường phụ nữ,
Nho giáo coi trọng tình anh em hơn tình vợ chồng. Bên cạnh đó, tác giả
8
cũng chỉ ra rằng theo Nho giáo, phụ nữ là người phải hứng chịu nhiều đau
khổ, thiệt thòi, bất công, cả cuộc đời phụ nữ chỉ thực hiện chữ tòng. Tác giả
cũng chỉ ra rằng, Nho giáo có quan niệm nghiệt ngã về tiết hạnh của người
phụ nữ và bên cạnh những điểm tích cực khuyên răn người phụ nữ phải trau
dồi phẩm chất đạo đức thì Nho giáo cũng có ảnh hưởng không tốt đến người
phụ nữ ở quan niệm trong xã hội có hai loại người không thể giáo hóa đó là
tiểu nhân và phụ nữ.
Cuốn sách Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy [35]
đã chỉ ra sự ảnh hưởng của Nho giáo đối với văn hóa Việt Nam. Ở đây, tác
giả đề cập tới đặc điểm của gia đình Nho giáo Việt Nam, vị trí vai trò của
người phụ nữ. Đặc điểm nổi bật của gia đình Nho giáo là gia đình phụ quyền
gia trưởng nhằm củng cố chế độ phong kiến. Trong gia đình Nho giáo, người
phụ nữ phải tuân phục người đàn ông, người phụ nữ phải thực hiện đạo tòng
trong tam tòng: “Con gái về nhà chồng phải kính nhường, giữ mình cho khéo,
đừng trái ý chồng. Còn chuẩn mực tứ đức mà người phụ nữ cần vươn tới đó là
truyền cho con gái, tiếp nối vòng đời tam tòng, tứ đức [tr.148]. Theo Nho giáo,
người đàn ông có quyền lấy năm thê, bảy thiếp nhưng người phụ nữ chỉ được
phép lấy một chồng và “trinh tiết” của người phụ nữ được Nho giáo đặc biệt đề
cao. Bên cạnh đó, cuốn sách này cũng chỉ ra rằng, nếu như tình cảm vợ chồng
là cơ sở quan trọng nhất để xây dựng gia đình hạnh phúc thì Nho giáo lại đặt
chữ “hiếu đễ” trên chữ “tình” (vợ chồng), thực chất là coi nhẹ yếu tố cơ bản để
xây dựng hạnh phúc [tr.149].
Cuốn Một số vấn đề Nho giáo ở Việt Nam của Phan Đại Doãn (chủ
biên) [33] là tác phẩm trình bày khá đầy đủ quan niệm của Nho giáo về vị trí,
vai trò và đạo đức của người phụ nữ, sự ảnh hưởng của các quan niệm đó đối
với người phụ nữ Việt Nam. Cuốn sách này chỉ ra các điều luật của các triều

đối tượng khó dạy bảo. Đặc biệt tác giả đã chỉ ra các nhục hình mà người
phụ nữ phải chịu khi bị phạm tội (trong thời Nguyễn): “Gọt gáy bôi vôi, thả
bè trôi sông hoặc voi giày” [174, tr.230].
Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương [2] tập trung trình bày
các đặc điểm kinh tế, chính trị, đời sống xã hội theo nếp cũ của người Việt
Nam. Công trình đề cập tới vị trí, vai trò, đạo đức của người phụ nữ Việt Nam
trong xã hội cũ. Trong xã hội Việt Nam luôn tồn tại quan niệm trọng nam
10
khinh nữ, phụ nữ là người chịu nhiều thiệt thòi, luôn luôn phải chịu thuận
theo thuyết tam tòng. Mặt khác, tác giả thừa nhận vị trí của người đàn bà Việt
Nam cao hơn người đàn bà Trung Quốc.
Phan Ngọc trong Bản sắc văn hóa Việt Nam [112] đã chỉ ra các khúc xạ
của Nho giáo khi vào Việt Nam. Nho giáo được người Việt tiếp thu và biến đổi nó
cho phù hợp với xã hội Việt. Nhiều phạm trù của Nho giáo đã được các nhà Nho
Việt Nam cải biến, có nội hàm rộng hơn, phong phú, mang nhiều yếu tố nhân văn,
nhân bản hơn. Theo tác giả, có như vậy Nho giáo mới đóng một vai trò quan trọng
đối với lịch sử của dân tộc và ảnh hưởng nhiều mặt đối với văn hóa Việt Nam.
Bài viết Nho giáo với gia đình Việt Nam truyền thống của Tú Hoan [57]
có những đánh giá sắc sảo về vai trò, vị trí của người phụ nữ Việt Nam trong
gia đình truyền thống. Gia đình là một phạm trù lớn trong Nho giáo với tư
cách là một hệ tư tưởng triết học. Trong Ngữ luân: “Vua - Tôi, Cha - Con,
Chồng - Vợ, Anh - Em, Bạn bè” thì có đến hai cương nói về gia đình, trong
ngũ luân: “quân thần, phụ tử, huynh đệ, phu thê, bằng hữu” có đến ba luân nói
về gia đình. Có lẽ cũng bởi vì Nho giáo là một học thuyết chính trị nên Nho
giáo coi gia đình như là một quốc gia thu nhỏ và để điều hành được đất nước
trước hết phải điều khiển được gia đình (Tề gia, Trị quốc, Bình thiên hạ). Những
mối quan hệ gia đình phức tạp này cứ dai dẳng đeo bám người phụ nữ, khổ lắm,
nhưng vẫn cắn răng chịu đựng cũng bởi tam tòng. Sống trên cương vị người vợ,
người con dâu, người phụ nữ càng phải uốn mình để đạt tứ đức. Nhưng dù thế
nào, vai trò của người phụ nữ trong gia đình Việt Nam truyền thống cũng vẫn rất

Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nhằm xoá bỏ
tư tưởng trọng nam khinh nữ, tiến tới thực hiện nam nữ bình đẳng.
Nguyễn Bình Yên trong luận án tiến sĩ Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng
phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và phương hướng khắc phục [189],
đã chỉ ra những tiêu cực cơ bản của tư tưởng phong kiến Việt Nam và ảnh
hưởng của nó trong các lĩnh vực đạo đức, lối sống; trong nhận thức, thực hiện
dân chủ; trong thế giới quan và phương pháp tư duy. Một trong những tiêu cực
của tư tưởng phong kiến đó chính là “Đạo đức phong kiến Việt Nam có đặc
trưng là địa vị, tôn ti trật tự nặng nề, bè phái cục bộ, trọng nam khinh nữ, xem
thường lớp trẻ, đạo đức giả” [189, tr.87]. Và đặc biệt khi nói về những tư tưởng
tiêu cực đó đối với phụ nữ tác giả đã cho rằng “trọng nam khinh nữ là một đặc
12
cầu tâm lý, tình cảm trong gia đình; chức năng xây dựng gia đình ấm no, bình
đẳng, tiến bộ và hạnh phúc. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra những mặt hạn
chế của người phụ nữ Việt Nam hiện nay: lực lượng tham gia chính trị xã hội
còn thấp, số ít phụ nữ là chủ hộ gia đình, vẫn còn nhiều tình trạng bạo lực gia
đình Tất cả ảnh hưởng đến vị trí, vai trò của người phụ nữ ngày nay.
Gia đình Việt Nam và người phụ nữ trong gia đình thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước của Đỗ Thị Bình - Lê Ngọc Văn - Nguyễn Linh Khiếu
[9]. Ở công trình này, các tác giả đã thực hiện rất nhiều các cuộc khảo sát và điều
tra xã hội học về vai trò của người phụ nữ với những số liệu cụ thể. Thông qua các
kết quả khảo sát, các tác giả cho chúng ta thấy vai trò rất lớn của người phụ nữ.
Họ là những người có công lớn trong việc phát triển kinh tế cho gia đình, là người
làm chính các việc chăm sóc con, chăm sóc người già, người ốm và dạy bảo con.
Tuy nhiên, tỉ lệ phụ nữ đứng tên sổ đỏ, sở hữu nhà và chủ hộ kinh doanh gia đình
so với nam giới là thấp nhất. Nguyên nhân của vấn đề này là do tính gia trưởng,
đề cao vai trò của nam giới đã tồn tại lâu đời trong đời sống xã hội nước ta.
Bài viết Lễ giáo Nho gia phong kiến kìm hãm bước tiến của phụ nữ Việt
Nam hiện nay của Lê Văn Quán [120], đã chỉ ra những mặt tiêu cực trong quan
niệm của Nho giáo về người phụ nữ. Tác giả sử dụng những thuật ngữ trong dân

dung: 1. Mở mang về đường trí thức của phụ nữ; 2. Liên kết đoàn thể phụ nữ;
3. Chấn hưng chức nghiệp của phụ nữ; 4. Nâng cao địa vị của phụ nữ”. Trong
4 nội dung trên theo Phan Bội Châu quan trọng nhất là việc nâng cao trình độ
trí thức cho phụ nữ vì chỉ có trên cơ sở nâng cao trình độ trí thức cho phụ nữ
mới có thể thực hiện nâng cao địa vị phụ nữ.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH
HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA THUYẾT TAM TÒNG, TỨ ĐỨC ĐỐI VỚI NGƯỜI PHỤ
NỮ VIỆT NAM HIỆN NAY
Tuyên truyền giáo dục phẩm chất, đạo đức phụ nữ Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước - Đề án 343 [15], Bộ giáo dục và
đào tạo xác định: Những phẩm chất, đạo đức tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam
cần giữ gìn, phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Đó là phẩm chất yêu nước; Ý thức trách nhiệm đối với gia đình và xã
hội; Ý thức tiếp thu tri thức, làm chủ khoa học, công nghệ và kỹ năng nghề
18
nghiệp; Tinh thần năng động, sáng tạo và ý chí vươn lên trong cuộc sống;
Xây dựng lối sống văn hóa của phụ nữ Việt Nam; Ý thức pháp luật; Phẩm
chất nhân hậu, vị tha.
Cuốn Công, dung, ngôn, hạnh thời nay của Lê Thị Bừng, Nguyễn Thị
Vân Hương [17] khẳng định: các nhà khoa học đã dự báo thế kỷ 21 là thế kỷ
của phụ nữ. Phụ nữ chiếm hơn một nửa nhân loại trên thế giới. Trong lịch sử
phát triển của mọi quốc gia, mọi dân tộc, thái độ đối với phụ nữ luôn luôn là
một vấn đề thời sự, một vấn đề đạo đức, chính trị, cũng là thước đo của một
xã hội văn minh. Tác phẩm bàn đến Công, dung, ngôn, hạnh với mục đích
giúp người phụ nữ tự đánh giá mình một cách nghiêm túc, bởi cái khó nhất
của một con người là tự biết mình là ai? Cuốn sách với mong muốn góp phần
nhỏ trong việc định hướng, gợi ý cho các bạn gái hiện nay: Cảm nhận, suy
nghĩ, hành động theo những chuẩn mực “công, dung, ngôn, hạnh” mang giá
trị đạo đức, truyền thống - nét đẹp văn hóa của người phụ nữ Việt Nam nói

bình đẳng giới; xoá bỏ những hủ tục lạc hậu, phản tiến bộ do tàn dư của
thuyết tam tòng, tứ đức để lại; đổi mới chính sách xã hội đối với phụ nữ;
phát huy những giá trị đạo đức truyền thống của người phụ nữ Việt Nam.
Tiểu kết chương 1
Những nội dung các công trình nghiên cứu đã đạt được:
Thứ nhất, các công trình đã khái quát quá trình hình thành, phát triển
qua các giai đoạn phát triển chủ yếu: Nho giáo Xuân Thu; Nho giáo thời
Lưỡng Hán; Nho giáo thời Tam quốc; Nho giáo thời Thanh. Và đặc biệt là
Nho giáo ở Việt Nam.
Thứ hai, các công trình đã làm rõ những phạm trù, nguyên lý cơ bản
của Nho giáo. Trong đó, các tác giả đặc biệt đề cao những giá trị của Nho
giáo và coi đạo đức Nho giáo có vai trò to lớn trong việc giáo dục, hoàn thiện
nhân cách con người.
Thứ ba, các công trình đã khái quát một số đặc điểm đạo đức truyền
thống của người phụ nữ Việt Nam và nêu lên những tàn dư của đạo đức
Nho giáo cần phải quét sạch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
20
Thứ tư, các công trình đã làm rõ khái niệm và nội dung chủ yếu của
thuyết tam tòng, tứ đức trong lịch sử phát triển của Nho giáo Trung Quốc
và Nho giáo Việt Nam. Thuyết tam tòng, tứ đức có ảnh hưởng lớn đối với
đời sống tinh thần con người Việt Nam, đạo đức và vai trò vị trí của người
phụ nữ Việt Nam xưa và nay. Tuy nhiên các tác giả cũng khẳng định: khi
vào Việt Nam nó được người Việt tiếp thu và biến đổi nó cho phù hợp với
xã hội Việt.
Thứ năm, các công trình phân tích sự ảnh hưởng của thuyết tam tòng,
tứ đức thông qua các bài Gia huấn và Hương ước được truyền tụng trong đời
sống xã hội Việt Nam cho thấy rõ mức độ ảnh hưởng sâu đậm của những tư
tưởng này đối với con người Việt Nam.
Thứ sáu, các công trình chỉ ra điều luật của các triều đại phong kiến


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status