đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện thanh chương, tỉnh nghệ an - Pdf 14

I ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá, là tài sản quan trọng nhất
của mỗi quốc gia. Đất đai không chỉ là địa bàn phân bố khu dân cư, nơi sinh
sống của loài người mà còn là tư liệu sản xuất đặc biệt không thể thiếu của
nền sản xuất vật chất nói chung và sản xuất nông nghiệp nói riêng. Là một sản
phẩm của tự nhiên nhưng đất đai không giống như nguồn tài nguyên khác bởi
diện tích hạn chế và vị trí cố định. Trong quá trình sử dụng đất, con người đã
tác động làm thay đổi đất đai theo cả hai hướng xấu và tốt. Nhiều quốc gia
trên thế giới và cả ở Việt Nam đất đang dần bị thoái hóa dưới nhiều hình thức
khác nhau như: xói mòn trơ sỏi đá, quá trình sa mạc hóa, mặn hóa, phèn hóa,
chua hóa…Đây là kết quả của một thời gian dài con người sử dụng, sản xuất
và canh tác theo một theo một chiều phiến diện, chỉ biết khai thác những gì có
sẵn của đất chứ không quan tâm tới sự bồi bổ đất hay nói cách khác là con
người không coi đất như một cơ thể sống cần được chăm sóc khỏe mạnh để
ngày càng phục vụ con người tốt hơn.
Huyện Thanh Chương – tỉnh Nghệ An là một huyện miền núi nằm ở
phía tây nam tỉnh Nghệ An có diện tích đất tự nhiên là 112.886,78 ha, trong
đó diện tích đất nông nghiệp là 90.655,14 ha chiếm 80,31% tổng diện tích đất
tự nhiên với đầy đủ các thành phần các loại đất và diện tích đồi núi chiếm
phần lớn trong tổng diện tích đất tự nhiên của toàn huyện. Các loại hình sử
dụng đất nông nghiệp trên địa bàn huyện khá đa dạng tuy nhiên do điều kiện
tự nhiên, kinh tế xã hội còn gặp nhiều khó khăn, dẫn đến thu nhập của người
dân hiện vẫn còn thấp. Những năm gần đây, trong huyện đã có nhiều chuyển
biến về kinh tế - xã hội, trước các nhu cầu ngày càng tăng của con người về
sản xuất nông nghiệp bền vững. Việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất của
huyện là rất quan trọng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế nông nghiệp
1
theo hướng sản xuất thị trường và đảm bảo sử dụng đất hiệu quả, bền vững cả
ở hiện tại và tương lai. Từ những vấn đề thực tế và yêu cầu khách quan nói
trên chúng tôi đã tiến hành đề tài nghiên cứu: “Đánh giá hiệu quả sử dụng

gây ra các quá trình thoái hóa, rửa trôi và phá hoại đất một cách nghiêm trọng
Đoàn Công Quỳ,2000) [9].
Hiện tại cũng như tương lai, trong sản xuất nông nghiệp, đất đai vẫn là
điều kiện vật chất cho sự tồn tại của ngành sản xuất này, là yếu tố tích cực
quan trọng trong sản xuất. Quá trình sản xuất nông nghiệp liên quan trực tiếp
với đất, với độ phì nhiêu của đất cũng như các sinh vật liên quan tới môi
trường đất. Xã hội ngày càng phát triển với trình độ khoa học ngày càng cao
thì con người ngày càng tìm ra những phương thức sử dụng và khai thác tiềm
năng của đất trở nên đa dạng và hiệu quả hơn. Bên cạnh đó việc khai thác và
3
sử dụng đất còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế - xã hội của từng vùng, từng
khu vực.
Đất có nhiều chức năng đối với hoạt động sản xuất và sinh tồn của xã
hội loài người được thể hiện ở các mặt như sau: sản xuất, môi trường, sự
sống, cân bằng sinh thái, tàng trữ, dự trữ các nguyên vật liệu, không gian sự
sống, bảo tồn, bảo tàng, vật mang sự sống, phân dị lãnh thổ. Đất đai là tài
nguyên thiên nhiên không tái tạo được và vô cùng quý giá, đất được xác định
vừa là tư liệu sản xuất vừa là đối tượng sản xuất trong sản xuất nông nghiệp
(Lê Quang Chút, Nguyễn Tuấn Anh, 1994) [5].
Trong sản xuấ nông nghiệp đất là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất
và là điều kiện vật chất, cơ sở không gian, đồng thời vừa là đối tượng lao
động vừa là công cụ lao động. Còn quá trình sản xuất nông nghiệp luôn có
quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học của đất (Lê Thái Bạt
và cs, 2003) [2].
Theo kết quả nghiên cứu của FAO, phần lớn diện tích đất canh tác nằm
ở các nước đang phát triển và trong tương lai vẫn còn có khả năng mở rộng để
đảm bảo an toàn lương thực và thực phẩm của con người. Vì vậy, để thực
hiện mục tiêu trong tương lai là giảm một nửa số lượng con người trên thế
giới đang thiếu lương thực hiện nay, việc sử dụng đất canh tác có hiệu quả
cao và bền vững là mục tiêu hàng đầu không chỉ đối với các nước đang phát

hiện nhiều hoạt động sản xuất và quản lý đất đai theo nhiều vùng đất xác định
theo nhu cầu và mục đích sử dụng của con người. Đất đai trong sản xuất nông
nghiệp chỉ được gọi là sử dụng bền vững trên cơ sở duy trì các chức năng
chính của đất là đảm bảo khả năng sản xuất của cây trồng một cách ổn định,
không làm suy giảm về chất lượng tài nguyên đất theo thời gian và việc sử
dụng đất không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường sống của con người và
sinh vật
5
2.1.2. Khái quát đất canh tác
Theo luật đất đai, đất nông nghiệp là đất được xác định chủ yếu để sử
dụng vào sản xuất nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản,
lâm nghiệp hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp và các loại đất khác
sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp mà Nhà nước đã quy định (Luật
Đất đại , 2003) [17].
Như vậy, trong tập quán truyền thống sản xuất nông nghiệp đất canh tác
(đất trồng cây hàng năm) là một bộ phận đất nông nghiệp được sử dụng trồng
cây hàng năm. Đất canh tác là đất có tiêu chuẩn về chất lượng nhất định, được
thường xuyên cày bừa, cuốc xới để trồng cây có chu kỳ sản xuất dưới 1 năm.
Đất canh tác chiếm tỷ trọng lớn trong tổng diện tích đất đai nông nghiệp
và nó có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp bởi
trong quá trình sản xuất nông nghiệp, phần lớn các sản phẩm của ngành đều
sản xuất ra lương thực, thực phẩm cung cấp cho nhu cầu ăn uống hàng ngày
của con người, động vật…, đều được sản xuất trên đất canh tác.
Theo báo cáo của World Bank (1992), hàng năm mức sản xuất so với
yêu cầu sử dụng lương thực vẫn thiếu hụt từ 150 – 200 triệu tấn, trong khi đó
vẫn có từ 6 – 7 triệu ha đất nông nghiệp bị hoang hóa do xói mòn. Trong 1200
triệu ha đất bị thoái hóa có tới 544 triệu ha đất bị mất khả năng sản xuất do sử
dụng không hợp lý [20].
Theo số liệu thống kê năm 2003 của Bộ Tài nguyên và Môi trường, Việt
Nam có tổng diện tích tự nhiên là 32,931 triệu ha, trong đó đất canh tác chỉ có

2.1.3. Nguyên tắc sử dụng đất
Tại điều 11 của Luật đất đai 2003 [17], quy định về việc sử dụng đất
phải đảm bảo các nguyên tắc sau đây:
- Đúng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và mục đích sử dụng đất.
- Tiếc kiệm có hiệu quả, bảo vệ môi trường và không làm tổn hại đến lợi
ích chính đáng của người sử dụng đất xung quanh.
7
- Sử dụng đất bền vững nghĩa là duy trì nâng cao sản lượng cây trồng,
giảm tối thiểu mức rủi ro trong sản xuất, bảo vệ được tiềm năng của đất. Việc
sử dụng đất đó có thể tồn tại về mặt kinh tế và xã hội [17].
Tại Việt Nam (theo Đào Châu Thu và Nguyễn Khang 1998) [11], thì sử
dụng đất bền vững cần dựa vào những nguyên tắc trên và thể hiện ở 3 nguyên
tắc sau:
+ Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao và được
thị trường chấp nhận.
+ Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất bảo vệ được đất
đai, ngăn chặn sự suy thoái đất, bảo vệ môi trường tự nhiên.
+ Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được nhiều công lao động, đảm bảo
đời sống người dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển[11].
Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn, xã hội càng phát triển nhu cầu sử
dụng đất của con người càng lớn, nhất là đất canh tác ngày càng bị thu hẹp do
bị trưng dụng sang mục đích khác như đô thị hóa, mở rộng khu công
nghiệp Vì vậy, sử dụng đất canh tác với mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế
xã hội trên cơ sở hợp lý, tiếc kiệm, đảm bảo an ninh lương thực, thực phẩm,
tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và hướng tới xuất khẩu là chiến lược
của mỗi quốc gia. Sử dụng đất canh tác trong sản xuất đất nông nghiệp trên cơ
sở cân nhắc những mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi
thế về điều kiện sinh thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là
những nguyên tắc cơ bản và cần thiết để đảm bảo cho khai thác sử dụng bền
vững tài nguyên đất đai. Do đó, đất nông nghiệp nói chung và đất canh tác nói

+ Tính đệm.
+ Phân phối năng lượng.
9
Những chức năng trên đảm bảo cho khả năng điều chỉnh sự cân bằng
của hệ sinh thái tự nhiên trước những thay đổi trong quá trình sử dụng đất đai
con người đã không chỉ tác động vào đất đai mà còn tác động vào khí quyển,
tạo ra ngày một nhiều lương thực, thực phẩm hơn và hậu quả là đất đai và các
nhân tố tự nhiên khác bị suy thoái ngày một theo chiều hướng xấu đi. Vì vậy,
cần phải có những chiến lược về sử dụng đất đai hiện tại và tương lai [21].
“Sử dụng đất bền vững” bao gồm các giải pháp sử dụng đất một cách hiệu
quả và bền vững luôn là mong muốn của con người trong suốt thời gian lâu
dài. Nhiều nhà khoa học và các nhà tổ chức quốc tế đã đi sâu nghiên cứu vấn
đề sử dụng đất bền vững trên nhiều vùng trên thế giới trong đó có Việt Nam.
Việc sử dụng đất bền vững là sử dụng với tất cả các đặc trưng vật lý, hóa học,
sinh học có ảnh hưởng đến khả năng sử dụng đất.
Để duy trì được sự bền vững của đất đai, Smyth A. J và Julian Dumanski
(1993) [21], đã xác định 5 yếu tố liên quan đến sử dụng đất bền vững là:
+ Duy trì hoặc nâng cao các hoạt động sản xuất
+ Giảm mức độ rủi ro đối với sản xuất
+ Bảo về tiềm năng các nguồn tài nguyên tự nhiên, chống lại sự thoái
hóa chất lượng đất nước.
+ Khả thi về mặt kinh tế
+ Được xã hội chấp nhận.
Như vậy, sử dụng đất bền vững không chỉ thuần túy về mặt tự nhiên mà
còn cả về mặt môi trường, lợi ích kinh tế và xã hội [20].
2.2. Nghiên cứu về hiệu quả sử dụng đất và đánh giá về
hiệu quả sử dụng đất
2.2.1. Hiệu quả sử dụng đất
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể
là quy luật tiếc kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian

11
kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích do hoạt động sản xuất trong một
thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích của xã hội [13].
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế. Mục đích sản xuất kinh tế - xã hội là đáp ứng nhu cầu
ngày một càng cao về mặt vật chất tinh thần của toàn xã hội, khi nguồn lực
sản xuất xã hội ngày càng trở nên khan hiếm. Yêu cầu của công tác quản lý
kinh tế đòi hỏi phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện
phạm trù hiệu quả kinh tế [13].
Hiệu quả kinh tế là phạm trù hiệu quả chung nhất, nó liên quan trực tiếp
tới nền sản xuất hàng hóa và tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác.
Vì thế hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
- Một là, mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật “tiếc kiệm
thời gian”.
- Hai là, hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết hệ
thống.
- Ba là, hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực có sẵn phục vụ
cho lợi ích con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa kết quả đạt
kết quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí
bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Một tương quan đó cần xét cả
về phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt
chẽ giữa 2 đại lượng đó.
Hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác là một bộ phận của hiệu quả kinh
tế sản xuất nói chung. Hiệu quả kinh tế sử dụng đất canh tác cao mới góp
phần nâng cao hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất nông nghiệp. Đây là
một chỉ tiêu kinh tế phản ánh sức sản xuất của đất trên cơ sở đất canh tác hiện
12

môi trường. Môi trường trong nông nghiệp bao gồm các biện pháp làm đất,
bón phân, tưới tiêu nước, nếu như sự phối hợp các khâu này trong canh tác
không hợp lý sẽ dẫn đến tình trạng ô nhiễm đất bởi các chất hóa học, đất bị
chua, mặn hoặc phèn hóa, làm giảm độ phì nhiêu của đất, ảnh hưởng trực tiếp
đến năng suất, phẩm chất nông sản và suy thoái môi trường.
Hiệu quả môi trường là môi trường được sản sinh do tác động của sinh
vật , hóa học, vật lý…, chịu ảnh hưởng tổng hợp của các yếu tố môi trường
của các loại vật chất môi trường. Hiệu quả môi trường phân theo nguyên nhân
trên gồm: Hiệu quả hóa học môi trường, hiệu quả vật lý môi trường, hiệu quả
sinh vật môi trường. Hiệu quả sinh vật môi trường là hiệu quả môi trường do
các phản ứng hóa học giữ các vật chất chịu ảnh hưởng của điều kiện môi
trường dẫn đến. Hiệu quả vật lý môi trường là hiệu quả môi trường do tác
động vật lý dấn đến (Đại từ điển kinh tế thị trường).
Để đánh giá một phương thức canh tác nào đó là tiến bộ, đi đôi với việc
xem xét hiệu quả kinh tế còn phải đánh giá chung về hiệu quả môi trường.
Hiệu quả môi trường của một hệ thống canh tác trước hết phải phục vụ mục
tiêu phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Đó là:
- Bảo vệ làm tăng độ phì nhiêu của đất, cải tạo và phục hồi những loại
đát nghèo dinh dưỡng, đất đã bị suy thoái do kỹ thuật canh tác gây nên, duy
trì và nâng cao tiềm năng sinh học của các loại đất còn chưa bị suy thoái. Các
tiêu thức dùng để đahs giá gồm:
+ Bón phân và giữ gìn đất; việc cung cấp lại lượng mùn mất đi hàng
năm của đất là rất cần thiết để giữ độ phì nhiêu của đất.
+ Hạn chế dùng hóa chất trong nông nghiệp.
+ Trồng cây họ đậu, bao gồm các cây họ đâu ngắn ngày, dài ngày, cây
phân xanh, cây đa tác dụng bằng nhiều hình thức: Trồng luân canh, trồng xen,
trồng dọc đường ranh giới.
14
+ Tăng vụ,, tăng hệ số quay vòng của đất để tăng cường sự che phủ đất.
- Tính đan dạng sinh học, bảo vệ nguồn gen của các động vật, thực vật

luật tự nhiên của sinh vật nhằm đặt ra các mục tiêu. Theo Frank Ellis và
Douglass C. North [13], ở các nước ph át triển, khi có tác động tích cực của
kỹ thuật, giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu
mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất
tiến bộ là đảm bảo vật chất cho kinh tế nôngnghiệp tăng trưởng nhanh. Cho
đến giữa thế kỷ 21, trong nông nghiệp Việt Nam, qua trình kỹ thuật có thể
góp phần đến 30% của năng suất kinh tế [13].
Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất
canh tác.
2.2.3.3 Nhóm các yếu tố kinh tế tổ chức
Nhóm các yếu tố này bao gồm:
a) Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất:
Thực hiện phân vùng sinh thái nông nghiệp dựa vào điều kiện tự nhiên,
trên cơ sở phân tích, dự báo và đánh giá nhu cầu của thị trường, gần với quy
hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cầu hạ tầng, phát triển nguồn nhân
lực và các thể chế luật pháp về bảo vệ tài nguyên môi trường. Đó là cơ sở để
phát triển hệ thống cây trồng và khai thác đất một cách đầy đủ, hợp lí. Đồng
thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hóa,
chuyên môn hóa, hiện đại hóa nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác
(Bùi Quang Toản, 1986) [12].
b) Hình thức tổ chức sản xuất:
16
Các hình thức tổ chức sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tổ chức
khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Vì thế, phát huy thế
mạnh của các loại hình tổ chức sử dụng đất trong từng cơ sở sản xuất là rất
cần thiết. Muốn vậy, cần phải thực hiện đa dạng hóa các hình thức hợp tác
trong nông nghiệp, xác lập một hệ thống tổ chức sản xuất phù hợp và giải
quyết tốt mối quan hệ giữa cách hình thức đó.
2.2.2.4 Nhóm các yếu tố xã hội

lực lượng sản xuất của Liên Xô thì chỉ cóc một tiêu chuẩn duy nhất, xuất phát
từ giá tị lao động mà Mác và Ăngen là tăng năng suất lao động hay tiết kiệm
chi phí sản xuất [13].
Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác có thể
xem xét ở các mặt:
- Đối với đất nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mực đạt
được các mục tiêu xã hội, môi trường do xã hội đặt ra. Cụ thể như tăng năng
suất cây trồng,vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thỏa mãn
tốt hơn nhu cầu nông sản cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời
đáp ứng yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
- Sử dụng đất phải đảm bảo cự tiểu hóa chi phí các yếu tố đầu vào theo
nguyên tắc tiết kiệm khi cần sả xuất ra một lượng nông sản nhất định hoặc
thực hiện cực đại hóa lượng nông sản khi có một lượng nhất địn đất nông
nghiệp và các yếu tố đầu và khác [13].
- Hiệu quả sử dụng đất canh tác có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến
những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất
canh tác phải theo quan điểm sử dụng đất bền vững hướng vào 3 tiêu chí sau:
18
Bền vững về mặt kinh tế, bền vững về mặt môi trường, bền vững về mặt xã
hội. Nghĩa là sự thay đổi về mặt kỹ thuật và tổ chức sản xuất nhằm đảm bảo
thỏa mãn liên tục các nhu cầu con người thuộc các thế hệ hôm nay và mai sau
(FAO, 1990) [20].
- Quá trình sản xuất trên đất canh tác phải sửi dụng nhiều yếu tố đầu
vào kinh tế, Vì thế, khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất canh tác phải được xác
định bằng kết quả thu được trên một đơn vị diện tích, cụ thể thường là một ha,
tính trên một đồng chi phí, một lao động đầu tư.
- Trên đất canh tác có thể bố trí cây trồng, các hệ thống luân canh, do
đó cần phải đánh giá hiệu quả từng cây trồng, từng hệ thống luân canh.
- Thâm canh là một biện pháp sử dụng đất canh tác theo chiều sâu, tác động

+ Các chỉ tiêu biểu hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và
đung đắn nhất theo tiêu chuẩn và quan điểm đã vạch ra ở trên để soi sáng sự
lựa chọn các giải pháp tối ưu và phải gắn với cơ chế quản lý kinh tế, phù hợp
với các đặc điểm và trình độ hiện tại của nền kinh tế.
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông
nghiệp ở nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối
ngoại, nhất là các sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu.
+ Các chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học và phải có
tác dụng kích thích sản xuất phát triển. Tính thực tế thể hiện ở các chỉ tiêu
đánh giá hiệu quả kinh tế thích hợp với điều kiện cụ thể của ngành, đối tượng
nghiên cứu và tình độ kinh tế của một đất nước. Hơn nữa, hệ thống chỉ tiêu
phải thích ứng với xu thế phát triển của thế giới. Từ đó, có những đánh giá
đúng và có ý nghĩa thúc đẩy sản suất phát triển đạt hiệu quả kinh tế cao và
tăng cường mức độ áp dụng kỹ thuật tiến bộ vào sản xuất.
2.2.6 Các nghiên cứu về nâng cao hiệu quả sử dụng đất
* Các nghiên cứu trên thế giới:
20
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu
trước mắt và lâu dài là vấn đề quan trọng thu hút sự quan tâm của nhiều nhà
khoahọc trên thế giới. Các nhà khoa học đã tập trung nghiên cứu vào việc
đánh giá hiệu quả đối với từng loại cây trồng, từng giống cây trồng trên mỗi
loại đất, để từ đó có thể bố trí, sắp xếp lại cơ cấu cay trồng phù hợp nhằm
khai thác tốt hơn lợi thế so sánh của vùng.
Hằng năm, các Viện nghiên cứu nông nghiệp các nước trên thế giới
cũng đưa ra nhiều giống cây trồng mới, những công thưc luân canh mới,
những kiểu sử dụng đất mới, giúp cho việc tọa thành một số hình thức sử
dụng đất mới ngày càng có hiệu quả cao hơn trước. Viện nghiên cứu Lúa
quốc tế IRRI đã có nhiều thành tựu về lĩnh vực lúa giống và hệ thống cây
trồng trên đất canh tác. Tạp chí Farrming Japan của Nhật hàng tháng đã giới
thiệu nhiều công trình nghiên cứu cảu ác nước trên thế giới về các hình thức

trên cơ sở ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất làm phong phú thêm
hệ thống giống về chủng loại và chất lượng, thích nghi với các vùng sinh thái,
góp phần đáng kể trong việc đưa năng suất và sả lượng nông nghiệp cả nước
tăng lên. Các công trình nghiên cứu đánh giá tài nguyên đất đai của Việt Nam
của Nguyễn Khang và Phạm Dương Ứng (1995) [7], đánh giá hiện trạng sử
dụng đất theo quan điểm sinh thái và phát triển lâu bền [7].
Vùng đồng bằng sông Hồng có tổng diện tích đất nông nghiệp là
903.650 ha, chiếm 44% tổng diện tích tự nhiên. Trong đó, gần 90% đất
nôngnghiệp dùng để trồng trọt. Đây là trung tâm sản xuất lớn thứ 2 cả nước,
là nơi thu hút nhiều công trình khoa học góp phần định hướng cho việc xây
dựng các hệ thống cây trồng và sử dụng đất thích hợp. Trong đó phải kể đến
các công trình như: Phân vùng sinh thái nông nghiệp vùng ĐBSH của các tác
giả Cao Liêm, Đào Châu Thu, Trần Thị Tú Ngà… Nghiên cứu hệ thống nông
22
nghiệp lưu vực sông Hồng (Đào Thế Tuấn và Pascan Bergret, 1998), Đánh
giá kinh tế đất trồng lúa vùng ĐBSH (Quyền Đình Hà, 1993), Phân bón cho
lúa ngắn ngày trên đất phù sa dông Hồng (Nguyễn Như Hà, 2000)…
Để đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hóa cây trồng ĐBSH của
Vũ Năng Dũng cho thấy, ở vùng này đã xuất hiện mô hình luân canh 3 – 4
vụ/năm đạt hiệu quả kinh tế cao. Đặc biệt ở các vùng ven đô, vùng tưới tiêu
chủ động đã có nhiều điển hình về sử dụng đất đai hiệu quả kinh tế cao. Nhiều
loại cây trồng có giá trị kinh tế lớn đã được bố trí trong các phương thức luân
canh như cây ăn quả, hoa, cây thực phẩm…(Đỗ Đình Sâm, Nguyễn Ngọc
Bình, 2000) [10].
Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ đã hình thành nhiều mô hình luân canh 3 -4
vụ/năm, đặc biệt ở các vùng sinh thái ven đô, tưới tiêu chủ động đã có những
điển hình về chuyển đổi hệ thống cây trồng có giá trị kinh tế cao đạt giá trị sản
lượng trung bình từ 30 – 35 triệu đồng/ha/năm (Nguyễn Duy Tính, 1995) [14].
2.5.2 Tình hình đánh giá hiệu quả sử dụng đất ở huyện Thanh Chương,
tỉnh Nghệ An

dụng đất của huyện
- Đánh giá tình hình sử dụng đất nông nghiệp của huyện Thanh Chương
- Đánh giá hiệu quả của các loại hình sử dụng đất về mặt kinh tế, xã hội
và môi trường.
- Đề xuất các loại hình sử dụng đất có hiệu quả và có triển vọng cho địa
bàn huyện
3.3 Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 phương pháp điều tra thu thập số liệu thứ cấp
Thu thập bản đồ hiện trạng sử dụng đất, tình hình sử dụng đất, hiện trạng
sử dụng đất và các tài liệu có liên quan tại các cơ quan trong tỉnh và địa phương
3.3.2 phương pháp điều tra thu thập số liệu sơ cấp
- Phỏng vấn nông dân theo mẫu phiếu điểu tra nông hộ
- Kiểm tra thực địa, hệ thống tưới tiêu, tình hình sản xuất thực tế…
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status