vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở việt nam hiện nay - Pdf 14

"Jus est ars boni et aequi -
Luật pháp là nghệ thuật của điều thiện và sự công bằng".
(Sen-xơ - Luật gia Lamã cổ đại)
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi xã hội loài ngời phân chia thành giai cấp thì công bằng xã
hội (CBXH) luôn là khát vọng và mục tiêu tranh đấu của con ngời. Ngày
nay, giá trị thời đại của vấn đề này càng gia tăng cùng với tốc độ của tăng
trởng kinh tế, với sự phát triển của khoa học - công nghệ, với nhu cầu về
quyền con ngời và thật sự trở thành vấn đề có tính toàn cầu. Không phải
ngẫu nhiên mà trong những thập kỷ gần đây, CBXH trở thành một tiêu chí,
điều kiện khi tiếp cận các khái niệm "phát triển bền vững" và "tiến bộ xã
hội". Với ý nghĩa đó, CBXH đang và sẽ là một thách thức lớn trên con đờng
phát triển của mỗi quốc gia trong thiên niên kỷ thứ ba.
ở Việt Nam hiện nay, đảm bảo CBXH trở thành một nhu cầu bức
thiết, là điều kiện cho sự thành công của công cuộc đổi mới toàn diện của
đất nớc. Sự lựa chọn con đờng đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) của dân tộc
càng khẳng định vai trò to lớn của CBXH không chỉ với t cách là động lực
mà còn là một mục tiêu của nó - xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Quan điểm kết hợp tăng trởng kinh tế với tiến bộ và CBXH đợc Đảng Cộng
sản Việt Nam khẳng định tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996)
và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) chính là cách đặt vấn đề
xuất phát từ nhu cầu cấp bách nói trên.
Đảm bảo CBXH là một chính sách lớn, đòi hỏi phải có chiến lợc và
những bớc đi phù hợp, có sự tham gia của nhiều phơng tiện nh kinh tế,
chính trị, văn hóa, đạo đức, pháp luật với những phơng thức và hiệu quả
đảm bảo khác nhau. Tuy nhiên, pháp luật luôn có vai trò đặc biệt và không
thể thay thế trong việc đảm bảo CBXH. Vai trò đó có đợc không chỉ nhờ
vào những mối liên hệ mật thiết giữa pháp luật với CBXH mà còn thông qua
2
2

công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nớc (KX-07.05, KX-04.02), một số
luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, các chuyên khảo, các bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành và trong một số hội thảo quốc gia và quốc tế. Trong thời
gian gần đây một số tác giả nớc ngoài cũng quan tâm tới các vấn đề đảm
bảo CBXH ở Việt Nam và đề cập một cách gián tiếp trong các công trình
nghiên cứu của họ, ví dụ: "Vấn đề nghèo ở Việt Nam" của công ty ADUKI
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996), "Việt Nam - cải cách kinh
tế theo hớng rồng bay" của Viện phát triển kinh tế ở Harvard (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994), "Phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam -
Chiến lợc cho những năm 90" của Per Ronás và Orjansjoerg (Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996) Rất nhiều kết quả nghiên cứu trong lĩnh
vực này đã đóng góp xứng đáng vào việc hoạch định chiến lợc, chính sách
của Đảng và Nhà nớc trong thời kỳ đổi mới.
b) Trong xu thế đó, giới nghiên cứu luật học ở Việt Nam cũng đã có
những đóng góp không nhỏ trong việc nhận thức và kiến giải một số vấn đề
liên quan tới đảm bảo CBXH bằng pháp luật. Ngoài những kết quả đạt đợc
trong các đề tài nhánh của một số chơng trình nghiên cứu khoa học xã hội
cấp nhà nớc nh: "Hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà nớc nhằm tăng c-
ờng hiệu lực quản lý các vấn đề thuộc chính sách xã hội" (đề tài KX-04.16),
"Luận cứ khoa học cho việc hoàn thiện và xây dựng hệ thống pháp luật và
quản lý nền kinh tế bằng pháp luật" (đề tài KX-03.13) còn phải kể đến
những chơng trình nghiên cứu độc lập có liên quan, chẳng hạn: "Dự án
VIE/94/003 - Tăng cờng năng lực pháp luật tại Việt Nam"; "Nguyên tắc
công bằng trong luật hình sự Việt Nam" (Luận án PTS luật học của Võ
Khánh Vinh), "Hoàn thiện pháp luật u đãi ngời có công ở Việt Nam - lý
luận và thực tiễn" (Luận án PTS luật học của Nguyễn Đình Liêu) Ngoài
4
4
ra, còn có những cuốn sách có giá trị tham khảo về cùng vấn đề nh: "Xã hội
và pháp luật" (Viện nghiên cứu Nhà nớc và pháp luật, Nhà xuất bản Chính

- Trên cơ sở những tiền đề lý luận và việc đánh giá thực trạng vai trò
của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH, nêu ra những quan điểm chỉ đạo
và những giải pháp chủ yếu nhằm tăng cờng vai trò đó của pháp luật trong
thời gian tới.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận án
Là một đề tài thuộc chuyên ngành lý luận về nhà nớc và pháp
quyền, luận án không nghiên cứu vai trò của các ngành luật cụ thể để thông
qua đó, luận chứng cho vai trò của pháp luật nói chung, trong việc đảm bảo
CBXH. Trái lại, những vấn đề, quan điểm đợc nêu ra trong luận án sẽ đợc
khái quát thông qua việc phân tích, đánh giá, tổng hợp từ các ngành luật cụ
thể ở những nội dung đợc xác định. Mặt khác, phạm vi nghiên cứu của luận
án không chỉ dừng lại ở hệ thống pháp luật thực định mà còn với các hoạt
động thực hiện pháp luật, xử lý các vi phạm pháp luật và ý thức pháp luật
với những đánh giá, phân tích và khái quát cần thiết. Ngoài ra, luận án còn
phải xem xét mối quan hệ giữa pháp luật với đạo đức, chính trị, văn hóa
trong việc đảm bảo CBXH. Nh vậy, phạm vi nghiên cứu của luận án khá
rộng, trên nhiều lĩnh vực nhng chỉ dới góc độ lý luận về pháp luật. Thực
chất, đó là việc khẳng định cái chung, cái phổ biến thông qua việc đánh giá,
phân tích, khái quát những cái riêng, cái đặc thù.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Trong bối cảnh nghiên cứu nh vậy, có thể coi luận án là công trình
đầu tiên nghiên cứu một cách trực tiếp có hệ thống và tơng đối toàn diện về
vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo CBXH ở Việt Nam hiện nay. Điều
đó đợc thể hiện thông qua phạm vi, mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu và kết
6
6
cấu của luận án. Đặc biệt, những cơ sở, điều kiện để pháp luật thực hiện vai
trò đảm bảo CBXH và thực trạng của vấn đề này ở Việt Nam đợc làm sáng
tỏ ở một phạm vi, cấp độ rộng và có hệ thống hơn.
Do vậy, luận án có giá trị tham khảo đối với các hoạt động nghiên

coi là không công bằng và phải chịu sự tẩy chay, trừng phạt theo tập quán.
Về điều này, Ph.Ăng-ghen đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị
của nó, chế độ thị tộc đó quả là một tổ chức tốt đẹp biết bao Tất cả đều
bình đẳng và tự do" [69, tr. 147-148]. Tuy nhiên, ai cũng biết rằng đó là
những quan niệm công bằng hết sức tự nhiên và sơ khai trong một xã hội
cha hề biết tới bất công, giai cấp, nhà nớc và pháp luật.
Nhng kể từ khi xã hội loài ngời có sự phân chia thành giai cấp,
CBXH trở thành khái niệm đa diện, phức tạp, bị chi phối bởi lợi ích giai
cấp, phụ thuộc vào các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn lịch
sử, liên quan tới bản chất của nhà nớc và pháp luật.
Dù ở phơng Đông hay phơng Tây, chế độ chiếm hữu nô lệ vẫn là xã
hội bất bình đẳng về giai cấp. Vì thế, sự giàu nghèo, sang hèn cũng nh địa
vị của mỗi ngời trong xã hội đều xuất phát từ một trật tự đẳng cấp nhất
định. Con ngời không còn cách nào khác ngoài việc tin rằng trật tự đẳng
cấp ấy là hợp với lẽ tự nhiên, là CBXH. Đó cũng là dấu ấn sâu đậm trong t
tởng CBXH trong thời kỳ này. Mặt khác, tôn giáo cũng bắt đầu tham gia
tích cực trong việc hình thành các t tởng về CBXH bằng việc lý giải nguồn
gốc của những bất công xã hội trong chế độ chiếm hữu nô lệ nh một sự sắp
8
8
đặt hoặc ý muốn của những lực lợng siêu nhiên. Có thể thấy điều đó qua
kinh bổn của ấn Độ giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo hoặc Hồi giáo Mặc
dù vậy, đối mặt với cuộc sống, con ngời đã bắt đầu nhận thấy sở hữu t nhân
chính là nguồn gốc sâu xa của mọi bất công xã hội mà trớc tiên, là bất công
về địa vị kinh tế. Một số khác lại tin rằng, sự khác biệt về sở hữu và trí tuệ
giữa mọi ngời là biểu hiện của CBXH. Cũng từ đấy, con ngời đã nhận thức
đợc những liên hệ mật thiết giữa CBXH với nhà nớc và vai trò của pháp luật
trong việc đảm bảo CBXH. Pla-ton cho rằng trong bất kỳ một nhà nớc nào
cũng tồn tại hai "nhà nớc" đối lập nhau: một cho ngời giàu và một, cho kẻ
nghèo. Đó là cái nhìn rất tinh tế về tính giai cấp của nhà nớc và cũng là của

có hiệu lực trớc tòa án còn hơn cả pháp luật. Tòa án giáo hội lấn át cả tòa án v-
ơng quyền vì trong một thời gian rất dài, luật học bị đặt dới sự giám hộ của
thần học. ở châu á, Phật giáo và Khổng giáo cũng có vị trí rất lớn trong đời
sống xã hội và chi phối t tởng công bằng của con ngời. Trong bối cảnh đó,
quan niệm CBXH trong thời kỳ phong kiến không có bớc tiến đáng kể so với
xã hội trớc nó. Có thể nói, đó là một thời kỳ đầy máu và nớc mắt của nhân
loại trên hành trình tìm kiếm CBXH. Khát vọng CBXH của nhân dân nếu
không thể hiện bằng những cuộc khởi nghĩa đơn lẻ, sớm bị dập tắt thì cũng
chỉ còn biết trông đợi vào ân huệ "ma móc" của nhà cầm quyền.
Trong thời kỳ Phục hng, t tởng CBXH của con ngời không chỉ đơn
thuần là sự phục hồi những giá trị công bằng và nhân văn của thời kỳ Hy -
La cổ đại mà còn mở ra một trang mới cho sự phát triển của nó. Cốt lõi của
thời đại phục hng là xu hớng phát triển xã hội dựa vào những giá trị nhân
văn nên CBXH trở thành vấn đề đợc quan tâm nhất. Nó đợc thể hiện trớc
hết, bằng việc khẳng định các quyền tự nhiên của con ngời nh quyền đợc
sống; quyền đợc sở hữu tài sản; quyền đợc chống lại những áp bức, bất
công nh một lẽ tự nhiên; quyền đợc hởng thụ những phúc lợi xã hội một
cách công bằng Mặt khác, t tởng CBXH trong thời kỳ này còn thể hiện
1
1
qua xu hớng phủ nhận thần quyền, phủ nhận chế độ phong kiến suy tàn và
ủng hộ sự vơn tới của một xã hội dân chủ hơn, phù hợp với nhu cầu phát
triển của lực lợng sản xuất mới. Tiêu biểu cho t tởng CBXH trong thời kỳ
này là Mi-chia-ven-li, Xéc-van-tét - những chàng Đông-ki-sốt của thời đại.
Sự xuất hiện của chủ nghĩa t bản đồng thời mở ra một trang mới
trong lịch sử t tởng CBXH của nhân loại. Cùng với các khẩu hiệu "tự do,
bình đẳng, bác ái", CBXH trở thành một ngọn cờ trong tay giai cấp t sản
nhằm tập hợp lực lợng để thủ tiêu chế độ phong kiến. Khẳng định các
quyền và tự do cá nhân, quyền đợc sống trong một xã hội dân chủ với một
mô hình nhà nớc theo nguyên tắc "tam quyền phân lập" và một nền pháp

pháp về CBXH trong CNTB suy cho cùng, là phơng tiện chứ không phải
mục đích của nó. Trong giai đoạn hiện nay, CNTB đang phải đối mặt với
nhiều thách thức về CBXH ngày càng gay gắt, nhất là khi vấn đề này đợc
xem xét trong điều kiện tốc độ tăng trởng kinh tế cao. Nhà kinh tế học ngời
Pháp, Olivier de Solages, đã có lý khi cho rằng: "Đông đảo quần chúng
không thể hiểu đợc rằng một sự tăng trởng kinh tế ngày càng gia tốc lại đợc
thể hiện bằng một sự phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và
bằng những bất bình đẳng ngày càng trầm trọng" [85, tr. 92].
Trong bối cảnh đó, đã xuất hiện nhiều trào lu t tởng và lý thuyết về
CBXH. Trào lu cổ điển và tân cổ điển nhấn mạnh một chiều tự do cá nhân
trong mối quan hệ với CBXH. Họ cho rằng, chính tự do cá nhân mới là
động lực thúc đẩy tăng trởng kinh tế và tiến bộ xã hội. Vì thế muốn phát
triển, phải bớt CBXH đi vì không thể cùng một lúc, vừa có tăng trởng kinh
tế lại vừa có CBXH, rằng chỉ khi nào kinh tế phát triển đến một mức nhất
định mới có điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính thực
tế của xã hội t sản bác bỏ vì nó phủ nhận vai trò của CBXH trong việc thúc
1
1
đẩy tăng trởng kinh tế. Ngợc lại, thực tế đó còn chỉ ra bất công xã hội có
khả năng kìm hãm tăng trởng kinh tế và làm rối loạn xã hội nh thế nào.
Max Weber, nhà xã hội học và triết học ngời Đức, lại giải thích
nguyên nhân của bất công xã hội trong CNTB bằng khả năng không ngang
nhau trong việc chiếm lĩnh thị trờng của các doanh nghiệp hoặc ngời lao
động. Ông còn cho rằng, cơ may và vận hội trong cuộc đời không thể chia
đều cho mọi ngời và đó cũng là một lý do để tồn tại những vị thế khác nhau
trong xã hội. Những điều nh thế là nguyên nhân của hiện tợng bất công
trong xã hội t sản. Học thuyết của Max Weber tuy có đóng góp rất lớn cho
khái niệm phân tầng xã hội song nó cha có khả năng lý giải trọn vẹn bản
chất của bất công xã hội trong CNTB.
Những ngời theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính

có một quan niệm chung về CBXH cho mọi thời đại, dân tộc và giai cấp nh
một "chân lý vĩnh cửu" (chữ của Ăng-ghen). Mặt khác, chủ nghĩa Mác -
Lênin cũng chỉ ra tính "không tởng" trong các quan niệm CBXH thoát ly
khỏi bản chất nhà nớc, pháp luật và với thể chế chính trị nói chung. Theo
các ông, trong các nhà nớc bóc lột không thể tồn tại CBXH theo đúng
"nghĩa cao cả nhất của từ này". Trái lại, chúng càng đẩy bất công xã hội lên
tới đỉnh điểm và dọn đờng cho những cuộc cách mạng xã hội tất yếu. Vì
vậy, chỉ có chủ nghĩa cộng sản, với t cách là hình thái kinh tế - xã hội phát
triển nhất của nhân loại - nơi mà " Sự phát triển tự do của mỗi ngời là điều
kiện cho sự phát triển tự do của mọi ngời" [64, tr. 628], nơi có khả năng thực
hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu - mới có khả năng tạo ra CBXH đích
thực. Chính vì thế, các ông đã lu ý rằng trong CNXH - giai đoạn đầu của
CNCS - cha thể có CBXH nh ngời ta mong muốn. Bởi lẽ, ở đó vẫn tồn tại
những tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng nh chế độ t hữu và những
yếu tố của pháp quyền t sản trong phân phối. Đó là lý do để "phân phối theo
1
1
lao động" vẫn phải là nguyên tắc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét
đặc trng trong quan niệm CBXH của thời kỳ này. Và đó cũng là "những
thiếu sót không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của CNCS, lúc nó mới
lọt lòng từ xã hội TBCN ra sau những cơn đau đẻ dài" [68, tr. 35-36].
Một luận điểm khác hết sức quan trọng của chủ nghĩa Mác - Lênin
là phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày càng cao cho việc thực hiện
CBXH. Theo các ông, không thể có công bằng đích thực trong một xã hội
nghèo khổ, kém phát triển. Song, các ông cũng đã cảnh báo những nguy cơ
của một xã hội có của cải d thừa nhng không đợc phân phối công bằng.
Tăng trởng kinh tế là tiền đề quan trọng nhng không phải duy nhất để xác
lập CBXH. Luận điểm này không những chỉ ra sự khác biệt về chất giữa
chủ nghĩa Mác - Lênin với các học thuyết phi mác-xít về CBXH mà còn lu
ý những ngời vô sản về nguyên tắc kết hợp hài hòa giữa tăng trởng kinh tế

vừa nhọ vừa thâm" (tục ngữ). Không chỉ nh vậy, quan niệm CBXH của ngời
Việt trong lịch sử còn đợc thể hiện qua cách nhân dân ghi nhớ, tôn vinh các
anh hùng và những ngời có công với nớc (qua truyền thuyết, đền thờ, lễ
hội ); qua qui chế tuyển dụng nhân tài (thi cử và tiến cử); qua chế độ đãi
ngộ quan lại; qua chế độ thởng, phạt nghiêm minh và trong những qui định
khác của pháp luật. Lẽ đơng nhiên, bên cạnh những nội dung tích cực, quan
niệm CBXH trong truyền thống của ngời Việt cũng có không ít những yếu
tố không tích cực (cách nhìn bi quan, chủ nghĩa bình quân, đề cao lệ làng
hơn phép nớc ) mà trong quá trình tiếp thu, cần có sự "gạn đục, khơi
trong".
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là một cuộc đổi đời vĩ đại của dân
tộc Việt Nam sau gần 80 năm dới ách đô hộ của thực dân Pháp và phát xít
Nhật. Khát vọng CBXH lớn nhất của nhân dân là đất nớc độc lập, tự do đã
1
1
đợc thực hiện. Cơng lĩnh chính trị năm 1930 của Đảng cộng sản Việt Nam
đã vạch ra con đờng đúng đắn nhất cho cuộc đấu tranh vì CBXH của dân
tộc là làm cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và đi lên CNXH. Trong các
Đại hội của Đảng (I, II, III, IV, V), mặc dù đợc tiến hành trong những bối
cảnh khác nhau song vấn đề CBXH bao giờ cũng trở thành một mục tiêu và
nội dung lớn, xuyên suốt chính sách đối nội và đối ngoại của Đảng. Điều
đó đợc thể hiện trong cải cách ruộng đất; cải tạo XHCN và thiết lập chế độ
công hữu về t liệu sản xuất; tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm; chống
tham ô, lãng phí; đặc quyền đặc lợi; trong chính sách thuế, bảo hiểm và trợ
cấp xã hội; trong vấn đề giải quyết việc làm cho ngời lao động; phát triển
miền núi và vùng căn cứ cách mạng Các Hiến pháp năm 1946, 1959,
1980 cùng với một khối lợng văn bản pháp luật đồ sộ của nhà nớc đã có
nhiều thành tựu trong việc thể chế hóa chính sách CBXH của Đảng. Tuy
nhiên, trong một thời gian khá dài, CBXH đợc chúng ta quan niệm gần nh
đồng nhất với chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Lại có những giai đoạn, quan

phát triển quan trọng trong quan niệm CBXH của Đảng ta trong giai đoạn
mới. Dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội IX (2001) của Đảng Cộng sản
Việt Nam vẫn tiếp tục khẳng định CBXH là một mục tiêu lớn của con đờng
đi lên CNXH; CBXH gắn liền với độc lập dân tộc, CNXH, với dân chủ và
văn minh [21, tr. 3]. Vì thế, quan điểm tăng trởng kinh tế gắn liền với đảm
bảo tiến bộ và CBXH vẫn là một chính sách quan trọng của đờng lối kinh
tế, của chiến lợc phát triển ở Việt Nam trong những thập kỷ tới. Nhìn tổng
thể, sự hình thành và phát triển các quan điểm về thực hiện CBXH của
Đảng cộng sản Việt Nam tuy có những đặc điểm riêng trong mỗi giai đoạn
lịch sử nhng về cơ bản là nhất quán và là một mục tiêu lớn, xuyên suốt quá
trình cách mạng Việt Nam.
1
1
Tóm lại, tiến trình hình thành và phát triển những t tởng CBXH trên
thế giới và ở Việt Nam ngày càng đa dạng, phức tạp về tính chất. Từ những
quan niệm hết sức sơ khai, đơn giản dần dần, t tởng CBXH của nhân loại
gắn liền với lợi ích các giai cấp, với bản chất nhà nớc và pháp luật, bị qui
định bởi các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ lịch sử nhất định
và có sự giao thoa giữa tính thời đại với bản sắc văn hóa dân tộc. Cho đến
nay, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin mới thật sự có khả năng nhận thức và
xác lập một quan niệm đúng đắn nhất về CBXH cũng nh phơng thức để
hiện thực hóa nó trong đời sống xã hội.
1.1.2 Khái niệm công bằng xã hội và vai trò của nó trong sự
nghiệp đổi mới ở Việt Nam

1.1.2.1 Khái niệm CBXH và những đặc trng cơ bản của nó
Hiện nay, CBXH là khái niệm có nhiều cách hiểu không hoàn toàn giống
nhau. "Từ điển bách khoa Việt Nam" trong mục từ "công bằng", định nghĩa:
1- Khái niệm về ý thức đạo đức, ý thức pháp quyền, chỉ
điều chính đáng, tơng ứng với bản chất và quyền con ngời. Khác

Phạm trù đạo đức học và pháp luật, đánh giá những quan
hệ và hành động xã hội với quan niệm là mỗi ngời đều bình đẳng.
Công bằng có một vai trò quan trọng trong ý thức quần chúng.
Nội dung của công bằng không có tính chất chung chung, bất di
bất dịch, phi thời gian- nó thay đổi theo lịch sử, phản ánh hoàn
cảnh kinh tế - xã hội nhất định và sự đánh giá về mặt đạo đức của
từng giai cấp theo quyền lợi của mình Trên cơ sở quan hệ kinh
tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái niệm công bằng mang một
2
2
nội dung mới: tất cả mọi ngời đều có thể trong thực tế, phát triển
nh nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt
động vì lợi ích tập thể, xã hội. Nguyên tắc "mỗi ngời làm theo
năng lực, hởng theo lao động" đợc thực hiện chỉ khi nào tới
CSCN thì mới thực hiện đợc nguyên tắc" mỗi ngời làm theo khả
năng, hởng theo nhu cầu" [76, tr. 97-98].
ở Việt Nam, trong những năm gần đây, xuất hiện một số công trình
khoa học nghiên cứu về CBXH dới nhiều góc độ nh triết học, kinh tế học,
xã hội học, luật học Theo đó, có tác giả coi CBXH không phải là sự ngang
bằng nhau giữa ngời với ngời về mọi phơng diện mà chỉ ở một phơng diện
nhất định: đó là quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi của con ngời theo
nguyên tắc thực hiện nghĩa vụ (cống hiến) ngang nhau thì sẽ đợc hởng
quyền lợi (hởng thụ) ngang nhau [88, tr. 33].
Có tác giả xem xét bản chất của CBXH chính là sự phù hợp giữa
một loạt các khía cạnh trong mối quan hệ giữa cá nhân (hay nhóm xã hội)
làm với cái mà họ đợc hởng từ xã hội (cái làm và cái đợc hởng có thể tốt
lành hoặc ngợc lại) [30, tr. 15]. Có ngời khẳng định CBXH là phạm trù lịch
sử cụ thể, mang tính giai cấp, có thể đợc xem xét ở nhiều góc độ (chính trị,
kinh tế, triết học, đạo đức, pháp luật). Nó chính là "sự đánh giá tơng xứng"
giữa giá trị thực tế của những cá nhân, giai cấp hoặc nhóm xã hội với địa vị

nghiên cứu cụ thể. Tuy vậy, tính đa diện và phức hợp của CBXH không thể
là lý do để phủ định sự tồn tại của một khái niệm CBXH đợc nhiều ngời
chấp nhận và ủng hộ. Nhng cũng sai lầm nếu chỉ nhấn mạnh một hớng hay
một phạm vi tiếp cận khái niệm CBXH mà không nhận thấy tính phức tạp,
đan xen với các góc độ tiếp cận khác của nó. Chẳng hạn, luận án này tiếp
cận khái niệm CBXH dới góc độ luật học nhng vẫn không thể bỏ qua các
khía cạnh chính trị, kinh tế, đạo đức và văn hóa của nó ở những mức độ có
liên quan. Điều đó càng khẳng định rằng mặc dù có vai trò đặc biệt và
2
2
không thể thay thế nhng pháp luật không thể là phơng tiện duy nhất để thực
hiện CBXH. Vai trò đó của pháp luật chỉ có thể đạt hiệu quả cao khi nó đợc
hỗ trợ đắc lực của nhiều phơng tiện khác.
b) Trong xã hội có giai cấp, CBXH là khái niệm vừa có tính giai cấp
lại vừa có tính xã hội. Thật vậy, công bằng là khái niệm luôn bị "nhiễm" ý chí
và lợi ích của từng giai cấp, nhóm xã hội. Điều đó giải thích vì sao mỗi giai
cấp, nhóm xã hội lại có quan niệm không giống nhau về các chuẩn mực công
bằng và cách thức thực hiện nó. Bởi lẽ, suy cho cùng, địa vị của từng giai cấp,
nhóm xã hội trong sản xuất, trao đổi và phân phối sẽ là nhân tố quyết định
nhu cầu và lợi ích của họ và từ đó, chi phối quan niệm công bằng của chính
họ. Nói khác đi, nhu cầu và lợi ích trong một giai đoạn lịch sử nhất định sẽ
là cơ sở, tiêu chí để hình thành và đánh giá quan niệm công bằng của mỗi
giai cấp, nhóm xã hội. Tuy nhiên, quan niệm công bằng của giai cấp thống
trị sẽ chi phối quan niệm công bằng chung của toàn xã hội. Theo Lênin, với
giai cấp vô sản thì "công bằng phải phục tùng lợi ích của công cuộc lật đổ t
bản" [50, tr. 437] và đó là một nội dung cơ bản của CBXH trong CNXH.
Mặt khác, cũng không thể có một khái niệm CBXH chỉ có lợi cho
một giai cấp duy nhất mà lại đợc xã hội chấp nhận. Vì rằng, tính giai cấp
của CBXH chỉ có thể tồn tại trong tổng thể và dung hòa với ý chí, lợi ích
chung của toàn xã hội. Công bằng của từng cá nhân, giai cấp và nhóm ngời

khái niệm về công lý vĩnh cửu biến đổi, chẳng những cùng với
thời gian và không gian, mà cả cùng với bản thân con ngời nữa
[67, tr. 379].
Nh vậy, CBXH là quan niệm, chuẩn mực công bằng phổ biến của
một xã hội trong một giai đoạn lịch sử với những điều kiện chính trị - kinh tế -
xã hội đã qui định nó. Vì thế, dùng một thớc đo công bằng chung cho mọi
thời đại, mọi dân tộc, mọi xã hội cũng sai lầm không kém việc áp đặt những
chuẩn mực công bằng khi những điều kiện vật chất cha phù hợp với nó.
2
2
e) Về bản chất, CBXH đợc hiểu là "sự tơng xứng" (chứ không phải
là ngang bằng nhau) giữa vai trò và vị thế, giữa cái mà thành viên xã hội tạo
ra cho xã hội với cái họ đợc xã hội phúc đáp. Không có sự tơng xứng nói
trên là bất công xã hội (mặt đối lập của CBXH) và sự mất tơng xứng đó
càng lớn thì bất công xã hội càng nghiêm trọng. Cơ sở để đánh giá sự tơng
xứng đó chính là những tiêu chí nhất định mà xã hội lựa chọn và chấp nhận.
Nếu tiêu chí thay đổi thì quan niệm về "sự tơng xứng" cũng thay đổi theo.
Nh vậy, CBXH là khái niệm không chỉ đợc định tính mà còn phải đợc định
lợng khá cụ thể. Vấn đề là ở chỗ việc định lợng "sự tơng xứng" nói trên
trong thực tế, không phải bao giờ cũng chứng minh rõ ràng đợc (chẳng hạn
sự đền đáp công lao, xơng máu ). Tuy nhiên, cần lu ý rằng: nếu chỉ định
tính thôi thì CBXH có nguy cơ trở thành khẩu hiệu trong thực tế. Nhng
tuyệt đối hóa mặt định lợng của nó là "tự trói tay" mình trong việc thực hiện
CBXH, nhất là trong điều kiện kinh tế xã hội còn thấp nh ở Việt Nam hiện
nay. Vì thế, quan điểm thực hiện CBXH trong từng bớc và trong suốt quá
trình phát triển; không chờ kinh tế tăng trởng thật cao mới thực hiện CBXH
của Đảng cộng sản Việt Nam, chính là xuất phát từ lý do nói trên.
g) CBXH luôn có mối liên hệ mật thiết với dân chủ, chân lý và pháp
chế. Thật vậy, không thể hình dung về một xã hội dân chủ mà lại thiếu công
bằng. Chỉ trong một xã hội dân chủ chân chính mới có những tiền đề, khả


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status