Bệnh giun tóc ở lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện phú lương tỉnh thái nguyên và biện pháp phòng trị - Pdf 13

1
DANH MỤC BẢNG BIỂU1
2
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
2
3
DANH MỤC ẢNH
Ảnh 1: Mẫu phân lợn thu thập ở các xã Phủ Lý, huyện Phú Lương, tỉnh
Thái Nguyên
Ảnh 2: Ảnh trứng giun tóc ở lợn mới theo phân ra ngoài
Ảnh 3: Phương pháp Fulleborn tìm trứng giun tóc lợn
Ảnh 4: Lợn nuôi trong tình trạng VSTY kém tại hộ Liêu Ngọc Hiền – xóm
Bản Eng – xã Phủ Lý – huyện phú Lương
Ảnh 5: Lợn bị bệnh giun tóc có biểu hiện triệu chứng lâm sàng tại gia đình
ông Đoàn Văn Thư - xóm Na Dau - xã Phủ Lý - huyện Phú Lương
Ảnh 6: Thí nghiệm theo dõi sự phát triển và khả năng sống của trứng
giun tóc trong phân lợn ở ngoại cảnh
Ảnh 7: Thuốc tẩy giun tóc cho lợn
Ảnh 8: Tiêm thuốc điều trị bệnh giun tóc cho lợn tại nhà ông Hoàng Văn
Long - xóm Na Dau - xã Phủ Lý - huyện Phú Lương
3
4
DANH MỤC CỤM TỪ VIẾT TẮT

WTO : Tổ chức thương mại thế giới

nước và quốc tế. Đặc biệt, khi Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra cho nền
kinh tế Việt Nam nói chung và ngành chăn nuôi Việt Nam nói riêng những
mặt thuận lợi đồng thời cũng gặp không ít những khó khăn.
Trong ngành chăn nuôi thì chăn nuôi lợn có một vị trí rất quan trọng.
Nghề nuôi lợn luôn được chú ý phát triển, ngày càng chiếm ưu thế và có tầm
quan trọng đặc biệt trong đời sống nhân dân. Con lợn đã cung cấp 70 - 80%
nhu cầu về thịt cho thị trường trong nước và xuất khẩu, đồng thời cung cấp
nguyên liệu cho ngành công nghiệp chế biến và phân bón cho ngành trồng
trọt. Để đáp ứng nhu cầu thị trường, trong những năm gần đây chăn nuôi lợn
đã có những bước phát triển vượt bậc, tăng nhanh cả về số lượng và chất
lượng với nhiều phương thức nuôi khác nhau góp phần tăng thu nhập cho
người dân. Tuy nhiên, ngoài những điều kiện thuận lợi, còn có nhiều khó
khăn trong việc phát triển chăn nuôi lợn, nhất là những tổn thất do dịch bệnh
gây ra. Vì vậy, ngành chăn nuôi lợn muốn phát triển bền vững được thì công
tác thú y cần được quan tâm đặc biệt hơn nữa. Ngoài những bệnh truyền
nhiễm thường gặp như: Dịch tả, tụ huyết trùng, phó thương hàn…còn phải kể
đến các bệnh do ký sinh trùng. Trong đó có bệnh giun tóc gây ra ở lợn
(Trichocephalus suis) gây ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng, đặc biệt là
làm tiêu tốn thức ăn, giảm tăng trọng từ 15 – 20% so với lợn không bị bệnh.
Huyện Phú Lương, tỉnh Thái Nguyên là một huyện miền núi, phần lớn
nhân dân có thu nhập từ nông nghiệp là chủ yếu. Trong đó, chăn nuôi lợn
chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên, công tác phòng chống bệnh giun tóc ở
6
7
lợn vẫn chưa được chú ý. Vì vậy, để góp phần hạn chế tác hại của bệnh giun
tóc gây ra cho đàn lợn, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “ Bệnh giun
tóc ở lợn nuôi tại một số xã thuộc huyện Phú Lương tỉnh Thái Nguyên và
biện pháp phòng trị”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Nghiên cứu tình hình nhiễm giun tóc ở lợn tại một số xã của huyện

[31], vị trí của tóc trong hệ thống phân loại động vật như sau:
Lớp Nematoda Rudolphi, 1808
Phân lớp Enoplia Chitwood, 1933
Bộ Trichocephalida Skrjabin et Schulz. 1928
Phân bộ Trichocephalata Skrjabin et Schulz. 1928
Họ Trichocephalidae Baird, 1953
Phân họ Trichocephaliae Ranson, 1911
Giống Trichocephalus Schrank, 1788
Loài Trichocephalus suis Schrank, 1788
2.1.1.2. Đặc điểm hình thái, kích thước, cấu tạo của giun tóc ký sinh ở lợn
* Đặc điểm hình thái, kích thước và cấu tạo giun tóc ở lợn
Nguyễn Thị Lê và cs (1996) [19] cho biết: Giun đực: Dài 37,52 – 40,63
mm, rộng nhất 0,634 – 0,713 mm. Phần trước cơ thể dài 23,48 – 25,75 mm;
phần sau dài 14,00 – 15,00 mm; có dạng xoắn lò xo. Gai sinh dục dài 1,70 –
2,55 mm; rộng 0,07 – 0,10 mm; mút cuối gai nhọn. Bao gai phủ đầy gai nhỏ.
Con cái: Cơ thể dài 37,89 – 50,60 mm; rộng 0.734 – 1,012 mm; phần
trước cơ thể dài 23 – 33 mm. Ống sinh dục đơn. Âm đạo có thành cơ dày,
chứa đầy trứng. Kích thước trứng 0,024 – 0.027 x 0,056 – 0,061mm.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17]: Giun có màu trắng đục; thân
chia ra làm hai phần rõ rệt: phần đầu nhỏ, trông giống như sợi tóc; phần sau
ngắn và to, bên trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực đuôi hơi tù, cuộn
tròn lại, có một gai giao hợp dài 1,70 – 2 mm, lỗ huyệt thông ra ngoài ở phần
cuối của giun. Giun cái đuôi thẳng, hậu môn ở vào đoạn cuối thân.
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15] cho biết: Hình thể giun giống một sợi
tóc màu trắng. Cơ thể chia thành hai phần rõ rệt. Phần trước nhỏ như sợi tóc,
dưới lớp biểu bì là thực quản, thực quản do các tế bào xếp nối tiếp như chuỗi
8
9
hạt, phần này chiếm 2/3 chiều dài cơ thể cơ thể. Phần sau ngắn và to, bên
trong là ruột và cơ quan sinh sản. Giun đực dài 20 – 52 mm đuôi hơi tù, phần

10
trước và phần sau là 2,04:1. Trên ranh giới chỗ chuyển tiếp của phần thân
trước và phần thân sau, hơi dịch về phía sau cách đầu cuối của thực quản có
âm hộ. Âm hộ này nhô ra ngoài, dạng hình trụ hơi cong về phía sau (0,037 -
0,061 mm) và hơi rộng ở chỗ cạnh tự do (0,050 - 0,075 mm). Chỗ này được
phủ rất nhiều gai nhỏ hình lưới (3 - 4 μm). Ngay trước âm hộ, tử cung có hình
ống thẳng hay hơi cong, dài 0,92 - 1,28 mm; trong tử cung có trứng xếp thành
một hàng. Đuôi con cái tù.
Hình 1.1. Ảnh giun tóc Trichocephalus suis
a: Trứng giun; b: Giun cái; c: Giun đực
(Nguồn: Phan Địch Lân và cs 2005 [18])
* Đặc điểm hình thái, cấu tạo trứng giun tóc ở lợn
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], trứng giun giống hình hạt
chanh, màu vàng nhạt, kích thước 0,052 – 0,061 x 0,027 – 0,03 mm. Hai cực
có hai nút trong, vỏ dày có 2 lớp.
Trịnh Văn Thịnh (1966) [26]cho biết: Trứng giun tóc có màu vàng
thẫm, vỏ dày, có nút ở mỗi cực, kích thước 50 - 56 x 21 - 25 μm. Tuy nhiên,
những trứng tác giả đo được thấy tương đối to hơn (66 x 30 - 37 μm). Trứng
không phân chia khi đẻ.
10
11
Theo Đỗ Dương Thái và cs (1975) [23], màu sắc trứng giun tóc là một
màu ổn định, thay đổi ít từ màu vàng nhạt đến màu vàng sẫm. Trứng giun tóc
có chu kỳ phát triển chậm, vì vậy hình dạng nhân bên trong ít có những thay đổi.
2.1.1.3. Vòng đời của giun tóc
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (2012) [15] cho biết, vòng đời phát triển
của giun tóc diễn ra như sau:
Trichocephalus suis
(manh tràng) Trứng Ấu trùng
(có sức lây nhiễm)

phân
Thọc sâu vào niêm mạc ruột
11
12
Skrjabin K.I. (1979) [34] cho rằng, giun tóc ở lợn phát triển vòng đời
không cần vật chủ trung gian. Trứng được bài tiết cùng với phân lợn ra môi
trường ngoại cảnh. Ở môi trường thuận lợi, thời gian để trứng phát triển thành
dạng cảm nhiễm từ 3 – 4 tuần. Trong thời gian này, có thể thấy ấu trùng đã
hình thành hoàn toàn và chuyển động bên trong trứng.
Bonner Stewart. T và cs (2000) [32] cho biết: Những ấu trùng giun tóc
nằm sâu trong niêm mạc 2 tuần, nhô ra khỏi niêm mạc ở tuần thứ 3 và phát
triển thành giun trưởng thành trong khi bám vào niêm mạc ruột già.
2.1.1.4. Sức đề kháng của trứng giun tóc ở lợn
Theo nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15], trứng giun tóc có vỏ dày nên có
sức đề kháng cao với điều kiện ngoại cảnh. Sự phát triển của trứng phụ thuộc
vào nhiệt độ: Ở 30
0
C cần 17 ngày, ở nhiệt độ thấp hơn thời gian này kéo dài
hơn. Ở 10
0
C trứng ngừng phát triển nhưng vẫn duy trì khả năng sống. Từ
45
0
C trở nên trứng giun tóc bị tiêu diệt.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], ở môi trường ngoại cảnh, trứng
giun tóc phát triển thuận lợi nhất ở nhiệt độ từ 18 – 30
0
C, ẩm độ 80 - 85% .
Đỗ Dương Thái và cs (1975) [23] cho rằng, trứng giun tóc ở lợn và
trứng giun Trichuris trichiura (giun tóc người) bị hủy hoại nếu ẩm độ dưới

Theo Nguyễn Thị Lê và cs (1996 ) [19], trứng giun tóc ở lợn bị diệt
dưới tác dụng của ủ phân nhiệt sinh học. Sau 3 – 4 tuần, nhiệt độ hố ủ tăng lên
tới 45
0
C sẽ làm hủy trứng giun tóc. Tuy nhiên, trứng non có khả năng chịu
đựng các điều kiện nhiệt độ cao hơn trứng ở giai đoạn ấu trùng.
2.1.2. Bệnh do giun tóc gây ra ở lợn
2.1.2.1. Những thiệt hại kinh tế do bệnh giun tóc lợn gây ra
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], giun tóc ký sinh là một trong
những nguyên nhân làm giảm năng suất chăn nuôi và tạo điều kiện cho các
bệnh khác xâm nhập. Lợn bị nhiễm giun tóc giảm tăng trọng từ 15 – 20% so
với lợn khỏe.
Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [38], cho biết: Khi gây nhiễm
100.000 trứng giun tóc cho 9 con lợn khỏe thì sau 14 ngày những con lợn này
sinh trưởng đều giảm và sau 20 ngày gây nhiễm thì những con lợn được gây
nhiễm không tăng trọng nữa và giảm dần trọng lượng cho đến khi chết.
2.1.2.2. Dịch tễ học bệnh giun tóc ở lợn
* Phân bố bệnh giun tóc lợn ở lợn
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], Phạm Sỹ Lăng và cs (2006)
[16], bệnh giun tóc ở lợn phân bố trên toàn thế giới. Tại Việt Nam, bệnh cũng
đã được phát hiện ở tất cả các tỉnh miền Bắc, miền Trung và miền Nam.
Lương Văn Huấn và cs (1990) [6] cho biết: Lợn ở Quảng Bình, Quảng
Trị, Thừa Thiên Huế nhiễm giun tóc 14%, Quảng Nam – Đà Nẵng 8,75%,
Quảng Ngãi – Bình Định 27,5%, Phú Yên – Khánh Hòa 8,3%, Lâm Đồng
10%, TP.Hồ Chí Minh 39%.
* Động vật mắc bệnh
Theo Phan Thế Việt và cs (1977) [31], lợn nhà và lợn rừng đều có khả
năng nhiễm bệnh.
13
14

cao nhất ở giai đoạn 2 - 6 tháng tuổi 51,7 – 75 % (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh
và cs 1978 [27]).
Phạm Văn Khuê (1982) [10] nghiên cứu biến động nhiễm giun sán theo
tuổi lợn tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, qua kiểm tra 289 lợn ở 4 lứa
14
15
tuổi (dưới 2 tháng, 3 – 4 tháng, 5 – 7 tháng và trên 8 tháng), kết quả cho thấy:
Lợn con dưới 2 tháng tuổi đã nhiễm tới 12 loài trong số 13 loài giun sán,
trong đó tỷ lệ nhiễm giun tóc là 30,7% và nhiễm với tỷ lệ cao ở lứa tuổi từ 2 –
5 tháng tuổi sau đó giảm dần.
Lương Văn Huấn và cs (1990) [6], cho biết, tỷ lệ nhiễm giun tóc theo
tuổi lợn như sau:
Dưới 3 tháng tuổi nhiễm 20,4%
Từ 3 – 4 tháng tuổi nhiễm 21,2%
Từ 5 – 6 tháng tuổi nhiễm 8,5%
Trên 6 tháng tuổi nhiễm 6,4%
Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996 ) [4], lợn ở giai đoạn 2 – 6 tháng tuổi
nhạy cảm nhất với giun tóc. Kết quả tại hợp tác xã Tiền Phong (Hà Nội) nuôi
lợn Ỉ lai Yorkshire, Berkshire tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn dưới 2 tháng tuổi là
16%, trong khi lợn 5 tháng tuổi nhiễm 13,5% và lợn 7 tháng tuổi nhiễm 6,2
%. Tại hợp tác xã Đông Mỹ (Hà Nội ) tỷ lệ lợn dưới 2 tháng tuổi nhiễm giun
tóc là 20,8 %. Ngày tuổi bình quân phát hiện trứng giun tóc trong phân lợn
nội là 74 ngày (từ 58 – 89 ngày), lợn lai Landrace 56 ngày (43 – 64 ngày), lợn
lai Berkshire 61 ngày (56 – 75 ngày) và lợn ngoại 62 ngày (38 – 81 ngày).
Nguyễn Đăng Khải (1996) [9] cho biết, tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn cao nhất
ở giai đoạn 2 – 6 tháng tuổi, sau đó giảm, ít gây tác hại đối với lợn lớn.
* Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc lợn
Theo Trịnh Văn Thịnh và cs (1978) [27], kết quả điều tra ở 37 nông
trường quốc doanh (1965 – 1968) trên 372 lợn mổ khám thấy tỷ lệ nhiễm giun
tóc cao nhất 100% (từ 155 đến vô số giun trên một con lợn).

+ Lây nhiễm gián tiếp: Dụng cụ chăn nuôi, người chăm sóc cũng là tác
nhân mang mầm bệnh. Đây là những yếu tố trung gian góp phần lây nhiễm giun
tóc từ lợn bệnh sang lợn khỏe, từ ô chuồng này sang ô chuồng khác.
Ngoài ra ruồi, chuột cũng có thể phân tán trứng giun tóc, gió cuốn
trứng giun theo bụi, mang trứng giun từ chuồng này sang chuồng khác gây
phát tán mầm bệnh.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm giun tóc ở lợn
+ Mùa vụ
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], bệnh giun tóc lây nhiễm quanh
năm nhưng tập trung từ mùa xuân tới mùa thu. Mùa đông, thời tiết lạnh, ẩm
độ thấp, không thích hợp cho trứng phát triển thành dạng trứng cảm nhiễm
nên tỷ lệ nghiễm giun trong đàn lợn giảm đi.
16
17
Nguyễn Đăng Khải, Nguyễn Đăng Nhượng (1975) mổ khám 89 con lợn
ở vùng đồng bằng và miền núi thuộc các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình
Định cho biết: Tỷ lệ và cường độ nhiễm giun tóc lợn có sự khác nhau giữa các
vùng, trong đó sự khác nhau này có liên quan đến khí hậu giữa các vùng.
Vùng đồng bằng, do mùa khô hạn kéo dài, nhiều ánh sáng (tổng số giờ nắng
2000 – 2300 giờ/ năm) nhiệt độ những tháng nóng có thể lên tới 38 – 40
0
C
nên tỷ lệ nhiễm các loài giun sán nói chung đều thấp, đặc biệt là các loài giun
sán nhiễm trực tiếp như T. suis (dẫn theo Trịnh Văn Thịnh và cs 1978 [27]).
+ Phương thức chăn nuôi
Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17] cho rằng các cơ sở chăn nuôi mà điều
kiện vệ sinh kém, lợn bị nhiễm bệnh với tỷ lệ cao, gây thiệt hại đáng kể cho
đàn lợn con.
Phạm Văn Khuê (1967) đã mổ khám 141 lợn và xét nghiệm 619 mẫu
phân ở tỉnh Hà Bắc, thấy 13 loài giun sán. Trong đó, những loài phổ biến là:

* Đường bài xuất mầm bệnh
Lợn mắc bệnh sau một thời gian thì bài xuất trứng theo phân ra ngoại
cảnh. Vì vậy, trứng được phát tán rộng rãi ở ngoài tự nhiên và quá trình phát
triển bắt đầu để tạo thành các trứng có sức gây bệnh (trứng có chứa ấu trùng
bên trong).
* Đường xâm nhập vào cơ thể
Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13] cho biết: Bệnh lây nhiễm trực
tiếp không qua vật chủ trung gian. Trứng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ
thể vật chủ qua đường tiêu hóa do lợn ăn phải thức ăn, nước uống có chứa
trứng giun.
* Vị trí gây bệnh
Giun tóc ký sinh và gây bệnh ở ruột già lợn, đặc biệt ở manh tràng và
kết tràng.
* Quá trình sinh bệnh
Ngoài tác động chiếm đoạt dinh dưỡng của lợn, giun tóc còn gây tác
hại nặng nề cho lợn.
- Tác hại cơ giới: Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [13], Phạm
Sỹ Lăng và cs (2006) [16], phần đầu của giun nhỏ dài cắm sâu vào thành ruột
gây tổn thương, làm niêm mạc ruột già bị viêm và xuất huyết, gây rối loạn
tiêu hóa, làm cho lợn có hội chứng hồng lỵ .
- Tác hại mang trùng: Theo Đào Trọng Đạt và cs (1996) [4], Nguyễn
Thị Kim Lan (2012) [15], giun tóc ký sinh gây tổn thương, tạo điều kiện cho các
nhân tố khác xâm nhập. Nhân tố gây bệnh kế phát là xoắn khuẩn và phẩy khuẩn.
18
19
- Tác hại tiết độc tố: Theo Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15], trong quá
trình sống, giun tóc tiết độc tố và thải cặn bã làm con vật trúng độc.
2.1.1.4. Triệu chứng lâm sàng và bệnh tích của lợn bị bệnh giun tóc
* Triệu chứng lâm sàng
Theo Phan Địch Lân và cs (2005) [18], Nguyễn Thị Kim Lan (2012)

* Bệnh tích:
Nguyễn Thị Kim Lan (2012) [15] cho biết: Xác lợn chết gầy, có nhiều
giun ở ruột già (nhất là ở manh tràng). Một số giun vẫn cắm sâu vào niêm
mạc ruột, phải kéo mạnh mới lấy ra được. Trên niêm mạc ruột có nốt loét to
bằng hạt đậu xanh. Khi bị nhiễm nặng, toàn bộ ruột già có giun tóc ký sinh
dày đặc, niêm mạc ruột sần sùi, xuất huyết, lớp chất nhầy trên niêm mạc có
màu hồng sẫm. Niêm mạc ruột có thể bị bong tróc từng mảng.
Đào Trọng Đạt và cs (1996) [4] cho biết: Về mặt tổ chức học, giun tóc
ở lợn ký sinh gây viêm niêm mạc, thâm nhiễm tế bào, hình thành nhiều vết
loét và tạo ra nhiều niêm dịch.
Theo Rutter. J. M và Beer. R. J. S (1974) [38], khi mổ khám những con
con lợn bị bệnh giun tóc thấy: Viêm ruột tăng lên trong hầu hết các trường
hợp, thành ruột già dày lên và phù thũng, trong ruột chứa chất nhày, máu và
các tế bào hoại tử bong ra từ lớp niêm mạc.
2.1.2.5. Chẩn đoán
Việc chẩn đoán bệnh giun tóc ở lợn có thể dựa vào đặc điểm dịch tễ,
triệu chứng lâm sàng của bệnh, xét nghiệm phân lợn và kiểm tra bệnh tích.
* Với lợn còn sống:
Theo Nguyễn Thị Kim Lan và cs (1999) [12], để chẩn đoán bệnh có thể
áp dụng hai phương pháp là chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ
và chẩn đoán trong phòng thí nghiệm.
Phương pháp chẩn đoán lâm sàng kết hợp với đặc điểm dịch tễ: Những
biểu hiện lâm sàng cần chú ý là lợn ăn kém, gầy yếu, da khô, lông xù, ỉa
chảy Về đặc điểm dịch tễ học, cần căn cứ vào lứa tuổi mắc bệnh, mùa vụ,
tình trạng vệ sinh thú y Tuy nhiên, nếu căn cứ vào các đặc điểm nói trên để
chẩn đoán thì sẽ không chính xác. Bởi vì các bệnh ký sinh trùng thường có
những triệu chứng lâm sàng tương tự nhau (rối loạn tiêu hóa, thể trạng gầy, da
khô, lông xù ). Vì vậy, để chẩn đoán chính xác bệnh phải tiến hành xét
nghiệm phân tìm trứng giun tóc.
Phương Pháp chẩn đoán trong phòng thí nghiệm: Theo Phan Lục

lần thể tích khối lượng phân, dùng đũa thủy tinh khuấy tan phân và lọc qua
lưới lọc. Phần cặn bã bỏ đi, dung dịch lọc được cho vào các ống ly tâm và ly
tâm với tốc độ 3000 vòng/ phút trong thời gian 3 – 5 phút. Sau đó, đổ bỏ lớp
nước phía trên và giữ lại cặn trong các ống ly tâm. Tiếp theo cho nước muối
bão hòa vào các ống ly tâm, đậy nắp miệng ống và lắc đều cho cặn hòa đều
21
22
trong dung dịch, tiến hành ly tâm lần 2 với tốc độ và thời gian như trên. Dùng
vòng sắt vớt lớp váng nổi trên bề mặt, đặt lên phiến kính sạch và soi dưới
kính hiển vi tìm trứng giun tóc.
- Phương pháp Cherbovich: Phương pháp này hoàn toàn giống
phương pháp Darling, chỉ khác dung dịch bão hòa sử dụng ở đây là MgSO
4
.
Để xác định cường độ nhiễm, có thể dùng phương pháp đếm số trứng
giun tóc trong buồng đếm Mc. Master nhằm xác định số trứng / g phân.
Phương pháp đếm trứng trên buồng đếm Mc. Master gồm các bước sau:
- Bước 1: Cân 4 g phân vào cốc thủy tinh, thêm nước lã sạch (khoảng
100 – 150 ml), khuấy tan phân, lọc bỏ cặn bã thô. Nước lọc để lắng trong 1 –
2 giờ, gạt bỏ nước, giữ lại cặn.
- Bước 2: Cho 56 ml dung dịch nước muối bão hòa vào, khuấy đều cho
tan cặn. Trong khhi đang khuấy, lấy công tơ hút hút 1 ml dung dịch phân nhỏ
đầy hai buồng đếm Mc. Master. Để yên 5 phút rồi kiểm tra dưới kính hiển vi
(độ phóng đại 10 x 10).
Đếm toàn bộ số trứng trong những ô của hai buồng đếm, rồi tính theo
công thức sau:
Số trứng/ 1 gam phân =
Tổng số trứng ở hai buồng đếm x 60
4
(Tổng số trứng ở hai buồng đếm là số trứng có trong 1ml dung dịch phân)

b/ Các Imidazothiazol
Các thuốc nhóm này tan trong nước, phổ chống giun tròn rộng .
* Tetramisol, Levamisol (Chế phẩm là Biverm, Ripercol)
Tetramisol có hai đồng phân:
S ( - ) tetramisol ( tức là L – tetramisol = Levamisol)
S ( + ) tetramisol ( tức là D – tetramisol = Dexamisol).
Theo Phạm Khắc Hiếu (2009) [5], chế phẩm chống ký sinh trùng có thể
là hỗn hợp hai đồng phân trên. Tuy nhiên hoạt tính chống ký sinh trùng chỉ ở
dạng S ( - ) tức là Levamisol.
- Liều lượng: Tetramisol 12 mg/ kg TT
Levamisol 5 mg/ kg TT
c/ Các Macrolid
Là những thuốc có vòng Lacton lớn. Đáng chú ý là các Avermectin và
các Milbemycin. Thuốc có tác dụng tẩy giun tóc và các giun tròn đường
tiêu hóa khác ở lợn.
23
24
Trong nhóm Milbemycin có Moxydectin được dùng nhiều trong thú y.
Các thuốc của 2 nhóm trên đều tan tốt trong Lipoid.
Dùng Ivermectin để tẩy giun tóc cho lợn đạt hiệu quả cao và an toàn.
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2009) [17], có thể dùng một trong các hóa
dược sau để tẩy giun tóc cho lợn:
Mebenvet : Dùng liều 50 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn một lần.
Fenbendazol : Liều 30 mg/kg TT, trộn thức ăn cho lợn ăn từ 6 - 15 ngày.
Levamisol : Liều 7,5 mg/kg TT, trộn thức ăn hoặc tiêm cho lợn.
Febentel : Liều 20 mg/kg TT thuốc dùng dạng uống.
Ivermectin : Liều 0,2 - 0,3 mg/kg TT, thuốc dùng tiêm cho lợn 2 lần,
cách nhau 1 - 2 ngày.
Theo Nguyễn Xuân Bình và cs (1996) [1], hiện nay trên thị trường có
nhiều thuốc điều trị bệnh giun tóc ở lợn. Tuy nhiên, tác giả khuyên nên dùng

có thời gian phát triển thành phôi thai) hoặc ủ phân theo phương pháp nhiệt
sinh học.
+ Chống giai đoạn thứ ba (ký sinh trùng là trứng và ấu trùng gây bệnh
ở ngoại cảnh), có hai cách:
- Diệt toàn bộ trứng và ấu trùng gây bệnh ngoài ngoại cảnh
Ủ phân để diệt trứng giun: Ủ phân theo phương pháp nhiệt sinh học là
cách tốt nhất để tiêu diệt trứng giun tóc. Nhiệt độ môi trường xung quanh có
ảnh hưởng trực tiếp đến nhiệt độ trong hố ủ. Trong cùng một hố ủ, về mùa hè
có thể duy trì ở nhiệt độ 50
0
C. Nhưng vào mùa đông, nhiệt độ chỉ là 37
0
C.
Tuy nhiên, nếu ủ phân kín với lá xanh, rắc vôi, lân thì nhiệt độ trong hố ủ có
thể lên tới 50
0
C, khi đó trứng giun tóc sẽ bị diệt bởi nhiệt độ cao.
- Không cho trứng hay ấu trùng có sức gây bệnh xâm nhập vào cơ thể
ký chủ (cách ly súc vật ốm, tiêu độc dụng cụ và chuồng nuôi, vệ sinh thức ăn
nước uống…).
Theo Phạm Sỹ Lăng và cs (2006) [16], ở các cơ sở bị ô nhiễm, có thể
sử dụng một trong những hóa độc dược đặc hiệu tẩy dự phòng cho lợn nái
trước khi sinh và cho lợn từ 2 – 4 tháng tuổỉ. Thực hiện vệ sinh chuồng trại và
khu vực xung quanh chuồng nuôi để hạn chế sự phát tán trứng giun; đồng thời
sử dụng hoá chất phun vào chuồng trại theo định kỳ như: Dung dịch NaOH -
2%, Cresyl 3%, nước vôi 10% để diệt trứng giun.
25


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status