Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Pdf 13



i
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của cá nhân tôi. Các
số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố trong bất cứ
công trình khoa học nào khác Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận án Đỗ Thị Tố Quyênii
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
Danh mục biểu đồ, sơ đồ
MỞ
ĐẦU……………………………………………………………………………………….1
Chương 1-NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ ĐẦU TƯ NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH
TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI…………………………………… … 10
1.1.CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI……………………………………………………………………………10

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Ký hiệu
Giải thích thuật ngữ viết tắt
ACB
Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu.
AGRIBANK
Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam
ANZ
Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên ANZ Việt Nam
ATM
Máy rút tiền tự động – Automatic Teller Machine
BIDV
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
CPH
Cổ phần hóa
HSBC
Ngân hàng trách nhiệm hữu hạn một thành viên HSBC Việt Nam
NH
Ngân hàng
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
POS
Điểm bán hàng hay điểm chấp nhận thẻ - Point Of Sale
ROA
Lợi nhuận ròng sau thuế trên tổng tài sản
ROE
Lợi nhuận ròng sau thuế trên vốn chủ sở hữu

Bảng 2.2: Vốn đầu tư nâng cao trình độ công nghệ tại Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam ……………………………………… ……………74
Bảng 2.3: Các dự án đầu tư công nghệ triển khai trong năm 2009-2011 của Ngân
hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam …………………… ……… 75
Bảng 2.4: Vốn đầu tư phát triển thương hiệu và xúc tiến bán hàng của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ………………………… …….… 82
Bảng 2.5: Vốn đầu tư nâng cao trình độ cán bộ của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam ………………………………………… ………… … 85
Bảng 2.6: Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng của Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam …………………………………………………….…… 86
Bảng 2.7: Số lượng cán bộ được đào tạo tăng thêm hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam ……… … 88
Bảng 2.8: Các chỉ tiêu phán ảnh kết quả gián tiếp của hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh tác động đến năng lực tài chính của ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam……………………………………… …………….89
Bảng 2.9: Một số chỉ tiêu tài chính của các NHTM tại Việt Nam thời điểm cuối năm
2012………………………………………… ……………………………………90
Bảng 2.10: Biến động doanh số các sản phẩm chính hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam…………………………………… 92
Bảng 2.11: Biến động thị phần các sản phẩm chính hàng năm của Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam …………………………………… 93
Bảng 2.12: Cơ cấu thu nhập của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt
Nam hàng năm …………………………………………………… …………… 94
Bảng 2.13: Cơ cấu thu nhập của một số NHTM Việt Nam năm 2012……… … 95 v
Bảng 2.14: Chỉ tiêu Doanh số bán hành tăng thêm so với vốn đầu tư đối với một số
sản phẩm chính của Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam…………… 98
Bảng 2.15: Chỉ tiêu Thị phần tăng thêm so với vốn đầu tư đối với một số sản phẩm

Sơ đồ 3.1: Mô hình Năm lực lượng cạnh tranh của Michael Porter 127

Khác:
Ma trận đối thủ cạnh tranh 65 1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tính hiệu quả và ổn định của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đang
chịu vô vàn sức ép khi vừa trải qua cuộc khủng hoảng kinh tế. Đồng thời, trong điều
kiện mở cửa thị trường tài chính, các ngân hàng thương mại trong nước càng phải
đối mặt với nhiều thách thức hơn. Lúc này, vấn đề năng lực cạnh tranh của các ngân
hàng cần được đánh giá lại một cách nghiêm túc, cả về mặt lý luận và thực tiễn.
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam (VCB) là một trong
những ngân hàng lớn nhất của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam,
chiếm thị phần đáng kể đối với nhiều sản phẩm chủ chốt: tín dụng, huy động, thanh
toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, thẻ… Mặc dù vậy, VCB cũng đang phải đương
đầu với áp lực cạnh tranh gay gắt. Do đó, nâng cao năng lực cạnh tranh là yêu cầu
cấp bách đặt ra đối với VCB.
Nhiều giải pháp thường được đề cập đến để nâng cao năng lực cạnh tranh
cho VCB là xây dựng chiến lược kinh doanh, tăng cường tiềm lực tài chính, hiện
đại hóa công nghệ, đa dạng hoá sản phẩm và nâng cao chất lượng phục vụ khách
hàng, đẩy mạnh hoạt động quảng bá, xây dựng thương hiệu,…Song, để tiến hành
được các giải pháp đó, cần phải có đầu tư. Vì vậy, có thể xem đầu tư nâng cao năng
lực cạnh tranh là giải pháp cơ bản và quan trọng của VCB. Tuy nhiên, để đầu tư
nâng cao năng lực cạnh tranh thực sự tác động tích cực đến năng lực canh tranh,
hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, cần phải trả lời được các câu hỏi: xây dựng
chiến lược đầu tư như thế nào, huy động vốn đầu tư từ đâu, sử dụng và phân bổ vốn
đầu tư vào các tài sản nào, vào các lĩnh vực nào,… để có tác động tốt nhất đến nâng

tranh của ngân hàng thương mại. Kết quả nổi bật nhất trong các nghiên cứu này là:
 Đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của NHTM và đánh giá thực trạng
đối với một hoặc một số ngân hàng thông qua các chỉ tiêu thể hiện năng lực
cạnh tranh của NHTM;
 Phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh, từ đó tìm ra giải
pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM. 3
Đối với nội dung thứ nhất, để đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM,
các tác giả thường sử dụng một hệ thống các chỉ tiêu phổ biến như sau:
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua phương thức cạnh tranh, thể hiện
qua các chỉ tiêu đính tính và định lượng:
o Số lượng sản phẩm;
o Chất lượng sản phẩm;
o Giá cả dịch vụ;
o Quy mô và tính hiệu quả của hệ thống phân phối;
o Hiệu quả của phương thức tiếp cận khách hàng.
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua các yếu tố phản ánh tiềm lực của
ngân hàng:
o Vốn chủ sở hữu, vốn điều lệ, tổng tài sản;
o Khả năng thanh khoản, chi trả;
o Tỷ lệ an toàn vốn;
o Số lao động, cơ cấu lao động theo trình độ;
o Khả năng tiếp cận, sao chép, đổi mới công nghệ theo hướng hiện đại hoá;
o Tác động của hệ thống công nghệ đến sản phẩm, quản trị điều hành;
o Tính hiệu quả của bộ máy quản lý,…
- Đánh giá năng lực cạnh tranh thông qua kết quả, hiệu quả kinh doanh: ,
o Lợi nhuận, tăng trưởng lợi nhuận;
o Khả năng sinh lời trên tổng tài sản (ROA), trên vốn chủ sở hữu (ROE);

tính hợp lý của sự phân bổ chi nhánh; quản lý, giám sát hoạt động chi nhánh; mức
độ đa dạng các dịch vụ cung cấp.
Đối với nội dung thứ hai, các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh và từ đó tìm ra các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM,
các tác giả tập trung vào phân tích các nhân tố nội tại của ngân hàng, đặc biệt là các
nhân tố thuộc về tiềm lực tài chính và kỹ năng quản lý ngân hàng. Ở mức độ rộng
hơn, trong nghiên cứu “Năng lực cạnh tranh của các Ngân hàng thương mại trong
xu thế hội nhập” tác giả Nguyễn Thị Quy cho rằng, trong thời kỳ hợp tác quốc tế 5
phát triển mạnh thì vị thế cạnh tranh của một ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào
nguồn lực nội tại của ngân hàng đó mà còn phụ thuộc rất nhiều vào các yếu tố bên
ngoài (đối thủ cạnh tranh, khả năng thâm nhập của đối thủ, các điều kiện môi
trường vĩ mô,…). Do đó, theo tác giả, những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh
tranh của một ngân hàng, ngoài các nhân tố nội tại còn có nhiều yếu tố bên ngoài:
- Các điều kiện mang tính nhân tố:
+ Lợi thế cạnh tranh về yếu tố nguồn nhân lực trong lĩnh vực ngân hàng thể
hiện qua: quy mô đào tạo hàng năm, trình độ, kỹ năng của đội ngũ sinh viên được
đào tạo trong lĩnh vực ngân hàng khi ra trường có khả năng đáp ứng yêu cầu của
ngân hàng; số lượng các chuyên viên ngân hàng, các nhà quản lý ngân hàng giỏi,
mức lương bình quân, chế độ làm việc,…
+ Nguồn tri thức trong lĩnh vực ngân hàng thể hiện ở số các trường đại học,
các viện đào tạo và nghiên cứu về hoạt động ngân hàng; số lượng, chất lượng các ấn
phẩm khoa học, các công trình nghiên cứu về lĩnh vực ngân hàng;….
+ Trình độ công nghệ chung;
+ Điều kiện vốn: khả năng huy động, tiếp cận, các chính sách vĩ mô liên
quan,…
- Điều kiện về cầu đối với dịch vụ ngân hàng;
- Trình độ phát triển của các ngành cạnh tranh, ngành liên quan và phụ trợ;

nghiên cứu.
(ii) Nghiên cứu của nước ngoài
Hiện nay, nghiên cứu nổi bật nhất về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh là
nghiên cứu của Michael Porter, giáo sư trường đại học Kinh doanh Harvard. Những
nghiên cứu về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh của ông có thể áp dụng trong mọi
cấp độ (doanh nghiệp, ngành, quốc gia) cũng như mọi lĩnh vực (sản xuất, dịch vụ).
Ở các cấp độ và các lĩnh vực, ông đều đưa ra những phân tích, kết luận xác đáng về
các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh.
Đặc biệt, mô hình Năm lực lượng cạnh tranh ra đời năm 1979 của ông đã
chỉ rõ những nhân tố tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của một doanh
nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp tìm ra những giải pháp, cơ hội để đối phó và chiến 7
thắng trong cạnh tranh. Đó là 5 nhân tố: yếu tố đầu vào; nhu cầu của thị trường;
những ngành (doanh nghiệp) hỗ trợ và liên quan; môi trường, thể chế kinh tế và sự
cạnh tranh của các doanh nghiệp khác; chiến lược của doanh nghiệp. Mô hình này
hoàn toàn có thể áp dụng đối với các ngân hàng, là doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
tài chính.
Tuy nhiên, các nghiên cứu của ông mang tầm lý luận, khái quát cao, để áp
dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam hay vào một chủ thể kinh doanh cụ thể thì
cần phải có cách nhìn nhận linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế. Bên cạnh đó,
mô hình Năm lực lượng cạnh tranh chưa chỉ rõ vai trò của hoạt động đầu tư nâng
cao năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp. Để thấy được vai trò của hoạt động
này, cần có sự phân tích cụ thể, chi tiết hơn.
Luận án sẽ tiếp tục vận dụng nghiên cứu của Michael Porter làm cơ sở lý
luận và phát triển thêm mô hình Năm lực lượng cạnh tranh của ông khi nghiên cứu
về VCB.
Chính vì vậy, bên cạnh việc xây dựng những chỉ tiêu phù hợp, khách quan để
đánh giá năng lực cạnh tranh của NHTM, luận án nghiên cứu tập trung vào hoạt

Luận án sử dụng nhiều phương pháp khoa học trong quá trình nghiên cứu:
phân tích, tổng hợp, so sánh, lập bảng, thống kê, toán học, suy luận logic, phỏng
vấn chuyên gia…Luận án tiếp cận vấn đề trên quan điểm của doanh nghiệp, cụ thể
là một NHTM, kết hợp mô tả và phân tích các số liệu thực tế thu thập qua nhiều
năm, sử dụng các phương pháp khoa học để đánh giá một cách định lượng kết hợp
định tính hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh của VCB.
6. Đóng góp của luận án
- Về mặt lý luận: Luận án đã phát triển các vấn đề lý luận về hoạt động đầu
tư nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại: khái niệm, đặc điểm,
vai trò, các yếu tố ảnh hưởng,… Luận án cũng chỉ ra: các nội dung của hoạt động
đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào chiến lược cạnh tranh, công cụ
cạnh tranh mà ngân hàng sử dụng trong từng giai đoạn. Để đánh giá hiệu quả của
hoạt động này, luận án xây dựng hệ thống các chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả
của đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại ngân hàng thương mại, bao gồm những
chỉ tiêu trực tiếp và gián tiếp, chỉ tiêu định tính và định lượng. 9
- Về mặt thực tiễn: Vận dụng lý luận, luận án đã tổng kết và đánh giá thực
trạng hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB qua nhiều góc độ. Với
đặc điểm, vị thế cạnh tranh hiện tại, luận án chỉ ra rằng hoạt động đầu tư nâng cao
năng lực cạnh tranh của VCB cần đặc biệt tập trung vào nâng cao trình độ công
nghệ, nâng cao trình độ nhân lực và đầu tư cho phát triển thương hiệu, xúc tiến bán
hàng. Tuy nhiên, cơ cấu đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB còn bất hợp
lý chính vì chưa đầu tư đúng trọng điểm. Bằng việc tính toán các chỉ tiêu, luận án
chỉ ra đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh tại VCB đã tác động tích cực đến năng
lực cạnh tranh nhưng cũng còn nhiều hạn chế. Trên cơ sở phân tích các hạn chế,
nguyên nhân, luận án đưa ra những giải pháp thiết thực cho VCB nhằm tăng cường
hiệu quả của hoạt động đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh, đồng thời có thể tham
khảo cho các NHTM khác trong điều kiện thích hợp.

“Hoạt động ngân hàng là việc kinh doanh, cung ứng thường xuyên một hoặc
một số các nghiệp vụ sau đây: nhận tiền gửi; cấp tín dụng; cung ứng dịch vụ
thanh toán qua tài khoản” (mục 12 Điều 4) [37]
NHTM chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, số lượng ngân hàng. Hiểu
theo nghĩa chung nhất thì “NHTM là doanh nghiệp kinh doanh các dịch vụ ngân
hàng vì mục tiêu lợi nhuận. NHTM chính là các doanh nghiệp đặc biệt, kinh
doanh tiền tệ và các dịch vụ liên quan đến thanh toán, tiền tệ và cũng hoạt động
vì lợi nhuận như bất cứ một doanh nghiệp nào khác”. [6]
Xét trên phương diện các loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp thì
“NHTM là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa
dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều
chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền
kinh tế”. [6]
Ngân hàng quan trọng đối với nền kinh tế vì Ngân hàng có ba chức năng cơ
bản sau: 11
- Trung gian tài chính: kết nối giữa đối tượng cần vốn và đối tượng có vốn
nhàn rỗi.
- Tạo phương tiện thanh toán: Khi khách hàng có số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán, họ có thể chi trả cho các hàng hóa và dịch vụ. Qua nghiệp vụ cho
vay, ngân hàng làm cho số dư trên tài khoản thanh toán của khách hàng tăng lên,
nghĩa là ngân hàng tạo ra phương tiện thanh toán.
- Trung gian thanh toán: Với sự phát triển của công nghệ, ngân hàng ngày
càng cung cấp nhiều dịch vụ thanh toán đa dạng cho khách hàng, từ cung ứng tiền
mặt, séc, ủy nhiệm chi, nhờ thu,… tới các dịch vụ thanh toán hiện đại trên nền tảng
của công nghệ tin học, điện tử như các loại thẻ tín dụng, thẻ thanh toán,…
1.1.1.2. Hoạt động của Ngân hàng thương mại
NHTM là một doanh nghiệp cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính

hàng ngày càng cung cấp các dịch vụ thanh toán thuận tiện như ủy nhiệm chi, nhờ
thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ, ….
(6) Quản lý ngân quỹ: ngân hàng quản lý việc thu chi cho doanh nghiệp và
tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lời và
tín dụng ngắn hạn nhưng vẫn đảm bảo có tiền mặt khi khách hàng cần thanh toán.
(7) Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Các ngân hàng mua trái phiếu
Chính phủ hoặc cho Chính phủ, doanh nghiệp của Chính phủ vay với các điều kiện
ưu đãi.
(8) Bảo lãnh: ngân hàng sử dụng uy tín và khả năng thanh toán của mình để
bảo lãnh cho khách hàng trong các giao dịch và hưởng phí.
(9) Cho thuê thiết bị trung dài hạn: Ngân hàng mua máy móc thiết bị có giá
trị lớn và ký hợp đồng thuê mua với khách hàng.
(10) Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn: khách hàng ủy thác cho ngân hàng
thực hiện quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Ngân hàng cũng sẵn
sàng cung cấp dịch vụ tư vấn về đầu tư, quản lý tài chính cho khách hàng.
(11) Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, dịch vụ bảo hiểm. 13
(12) Cung cấp các dịch vụ đại lý: làm đại lý cho các ngân hàng khác trong
thanh toán, phát hành chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài
trợ,…
Xem xét dưới khía cạnh một doanh nghiệp, NHTM có những hoạt động cơ
bản như bất kỳ một doanh nghiệp nào khác nhưng có những đặc trưng riêng:
- Để cung cấp được sản phẩm đầu ra – các dịch vụ tài chính – ngân hàng
cũng phải có các yếu tố đầu vào. Đầu vào đối với NHTM, bên cạnh nguồn vốn dồi
dào, phải là các yếu tố cao cấp, phức tạp như đội ngũ lao động có chuyên môn cao,
công nghệ hiện đại, cơ sở hạ tầng tiện nghi, mạng lưới rộng lớn,…
- Ngân hàng cũng phải vận hành một bộ máy quản lý và nhân sự đảm nhiệm
các chức năng nhiệm vụ giống như các doanh nghiệp khác.

và công bằng, có thể sản xuất các hàng hóa và dịch vụ đáp ứng được đòi hỏi của thị
trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng được thu nhập thực tế của người dân
nước đó.
Ở cấp độ doanh nghiệp, theo Từ điển Kinh doanh (xuất bản năm 1992, tại
Anh) thì cạnh tranh trong cơ chế thị trường là sự ganh đua, kình địch giữa các nhà
kinh doanh nhằm dành tài nguyên sản xuất cùng một loại hàng hóa về phía mình.
Hai nhà kinh tế học người Mỹ P.A Samualson và W.D Nordhaus trong nghiên cứu
về kinh tế học cho rằng: Cạnh tranh là sự kình địch giữa các doanh nghiệp để dành
khách hàng hoặc thị trường. Theo từ điển Bách khoa Việt Nam, cạnh tranh (trong
kinh doanh) là hoạt động tranh đua giữa những người sản xuất hàng hóa, giữa các
thương nhân, các nhà kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, chi phối quan hệ
cung cầu, nhằm dành các điều kiện sản xuất, tiêu thụ thị trường có lợi nhất. Theo
các tác giả trong cuốn “Các vấn đề pháp lý về thể chế và chính sách cạnh tranh
kiểm soát độc quyền kinh doanh” thì cho rằng: cạnh tranh có thể được hiểu là sự
ganh đua giữa các doanh nghiệp trong việc dành một số nhân tố sản xuất hoặc
khách hàng nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, để đạt được mục tiêu
kinh doanh cụ thể như lợi nhuận, doanh số hoặc thị phần. [56] 15
Mặc dù đưa ra những khái niệm khác nhau về cạnh tranh nhưng các tác giả
đều thể hiện quan điểm chung về cạnh tranh như sau:
- Phải có nhiều chủ thể cạnh tranh với nhau;
- Các chủ thể cạnh tranh cùng hướng tới một mục tiêu: tài nguyên sản xuất,
thị phần, lợi nhuận, …
- Sự “ganh đua”, “kình địch” bao hàm ý các chủ thể tiến hành nhiều biện
pháp nhằm tạo ra lợi thế hơn so với đối thủ;
- Cạnh tranh phải được diễn ra trong một môi trường cụ thể, là các ràng buộc
chung mà các chủ thể tham gia cạnh tranh phải tuân thủ và chịu tác động như chính
sách pháp luật, thông lệ kinh doanh, nhu cầu của khách hàng,…

đoàn đa quốc gia, sự cạnh tranh không chỉ giới hạn trong hoạt động thương mại mà
còn thông qua các doanh nghiệp FDI. Các học thuyết cổ điển đã không còn lý giải
được đầy đủ về hiện tượng này.
Heckscher và Ohlin lý giải lợi thế cạnh tranh bằng lý thuyết các nhân tố của
quá trình sản xuất. Lý thuyết này được nhà kinh tế học Paul Sammuelson bổ sung
nên còn được gọi là mô hình Heckscher - Ohlin - Sammuelson. Các lý thuyết về lợi
thế theo quy mô, khác biệt hoá nhằm tạo lợi thế cạnh tranh trong thương mại quốc
tế, về cạnh tranh không hoàn hảo của Krugman, Helpman, nghiên cứu của Brian
Hindley và Alasdair Smith về lợi thế cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ (1984), học
thuyết về khoảng cách công nghệ (technology gap), vòng đời sản phẩm (product
cycle) của Raymond Vernon…cũng đưa ra những lý giải về khái niệm năng lực
cạnh tranh.
Theo Heckscher và Ohlin thì lợi thế cạnh tranh của quốc gia được tạo ra trên
cơ sở của những điều kiện tương đương về công nghệ, nhưng khác nhau về các
nguồn lực được gọi là các yếu tố sản xuất như đất đai, lao động, các điều kiện tự
nhiên và vốn. Như vậy, quốc gia đó sẽ xuất khẩu sản phẩm của những ngành có lợi
thế về nhân tố sản xuất và nhập khẩu những sản phẩm mà quốc gia đó bất lợi về
nhân tố sản xuất. Lý thuyết này giả định rằng không tồn tại yếu tố lợi thế nhờ quy
mô và trình độ công nghệ, mà quy mô và trình độ công nghệ là tương đương ở mọi
quốc gia; các sản phẩm không có tính khác biệt và các nhân tố sản xuất ở các quốc 17
gia là cố định. Do đó, lý thuyết này chỉ lý giải được lợi thế cạnh tranh trong thương
mại ở một số ngành phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, những ngành không đòi
hỏi cao về trình độ lao động và công nghệ. Hầu hết các học thuyết này chỉ dựa vào
chi phí để lý giải cho lợi thế cạnh tranh, coi thay đổi công nghệ là nhân tố bên ngoài
và chưa chú trọng đến chất lượng và sự khác biệt hoá sản phẩm.
Ở cấp độ vi mô, có quan điểm cho rằng: “những doanh nghiệp có năng lực
cạnh tranh là những doanh nghiệp đạt được mức tiến bộ cao hơn mức trung bình về

hàm cả việc doanh nghiệp phải liên tục duy trì lợi thế cạnh tranh. Năng lực cạnh
tranh cần phải gắn liền với khả năng phát triển bền vững, sử dụng hiệu quả các
nguồn lực xã hội.
Ông khẳng định rằng học thuyết mới cần phải phản ánh sự phong phú của
khái niệm cạnh tranh bao gồm phân đoạn thị trường, các sản phẩm được khác biệt
hoá, sự khác biệt về công nghệ và lợi thế nhờ quy mô. Ông cho rằng cạnh tranh là
một khái niệm động, liên tục phát triển và cạnh tranh là một mảnh đất luôn thay đổi
mà ở đó, những sản phẩm mới, những cách marketing mới, những quy trình sản
xuất mới và cả một thị trường mới sẽ liên tục xuất hiện. Lợi thế ở một thời điểm sẽ
nhanh chóng bị thay thế bởi những tiến bộ có tốc độ phát triển cao hơn.
Việc đưa ra một định nghĩa về năng lực cạnh tranh đầy đủ, chuẩn xác trong
mọi trường hợp là không hiệu quả. Tuy nhiên, khi nghiên cứu về từng đối tượng,
cần phải đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh và hệ thống các chỉ tiêu đánh giá
năng lực cạnh tranh của đối tượng đó. Các NHTM kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ,
năng lực cạnh tranh không chỉ đáp ứng mục tiêu lợi nhuận, thị phần, mà còn luôn
luôn phải đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh.
Trên cơ sở các nghiên cứu về cạnh tranh và đặc điểm hoạt động của ngân
hàng, tác giả đưa ra khái niệm về năng lực cạnh tranh của ngân hàng: Năng lực
cạnh tranh của một ngân hàng là khả năng ngân hàng đó tạo ra, duy trì và liên
tục tăng cường những lợi thế nhằm đạt được mức cao hơn mức trung bình về
chất lượng sản phẩm, dịch vụ và/ hoặc có khả năng giảm chi phí tương đối cho
phép ngân hàng tăng được lợi nhuận, thị phần, đảm bảo hoạt động an toàn, lành
mạnh. 19
(iii) Đặc trưng trong cạnh tranh của ngân hàng thương mại
Thứ nhất, bên cạnh việc ganh đua nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh, cạnh
tranh trong ngân hàng lại nằm trong sự hợp tác tương đối. Các ngân hàng thương
mại không thể hoạt động tách biệt nhau mà có sự liên quan chặt chẽ trong nhiều


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status