câu hỏi và đáp án môn chính sách tiền tệ - Pdf 13

Contents
Câu 1: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi DN tăng vốn bằng hình thức TD thương mại so với tăng vốn bằng
hình thức tín dụng thuê tài chính? 2
Câu 2: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi DN tăng vốn bằng cách liên doanh với DN khác so với tăng vốn bằng
hình thức tính dụng thương mai,? 2
Câu 3: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi DN tăng vốn bằng hình thức TD nặng lãi so với tăng vốn bằng vay dài
hạn từ NHTM? 3
Câu 4 : Trình bày mối quan hệ giữa tài chính TM và tài chính NH: 3
Câu 5: Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa thuế gián thu và thuế trực thu 4
Câu 6: Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa thuế trực thu so với lệ phí 4
- Phân biệt thuế - phí, lệ phí 4
Câu 7 : Những đặc trưng khác nhau giữa phí và lệ phí 5
Câu 9: Đặc trưng khác nhau giữa chi tường xuyên so với chi đầu tư phát triển 6
Câu 10 : Mối quan hệ giữa chi đầu tư và chi thường xuyên trong chính sách phân bổ nguồn lực tài chính của nhà nước
7
Câu 12: Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa việc tăng NSNN bằng việc thu thuế so với khoản đóng góp tự
nguyện của cá nhân, tổ chức NN 8
Câu 13 : Cho biết những đặc trưng khác nhau khi NSNN huy động vốn từ thuế so với huy động vốn từ vay ngắn hạn
NHTW 8
Câu 14: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi NSNN huy động vốn từ việc vay ngắn hạn so với huy động vốn từ
việc vay dài hạn 8
Câu 15: Cho biết đặc trưng khác nhau giữa tài sản cố định và tài sản lưu động 9
Câu 16: Liệt kê 10 loại lệ phí khác nhau, cho biết lệ phí là gì? 9
Câu 18 : Cho biết đặc trưng khác nhau khi DN tăng vốn bằng cách liên doanh với 1 DN khác so với sử dụng lợi nhuận
sau thuê bổ sung 10
Câu 19 : Cho biết vôn điều lệ, vốn chủ sở hữu, vốn pháp lệnh là gì? 10
Câu 20 : Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa NHNN và NHTM 10
Câu 21: Trình bày biểu hiện về sự phụ thuộc của NHNN VN vào chính phủ 12
Câu 22: Cho biết đặc trưng khác nhau khi NHTW sử dụng công cụ dự trữ bắt buộc so với công cụ lãi suất tái chiết
khấu 12
Câu 23: Tính thanh khoản của thị trường chứng khoán là gì? Ảnh hưởng như thế nào đến thị trường chứng khoán? 13

+ Cho vay ngắn hạn
+ Dựa trên sự tin tưởng, tín nhiệm
+ Người đi vay chỉ được sử dụng mà không được sở hữu.
+ Đối tượng đi vay là hàng hóa
+ Doanh nghiệp vay và cho vay là doanh nghiệp phi tài chính.
+ Không có tín mở rộng
+ Thường xuyên có tình trạng mua, bán chịu
+ Mang tính bị động
+ Lãi suất thấp
+ Trả vốn lẫn lãi 1 lần
 Tính dụng thuê tài chính:
+ Cho vay trung và dài hạn.
+ Ai cũng được đi vay
+ Người đi vay được sử dụng và sở hữu ( tùy theo ý nguyện của người đi vay)
+ Đối tượng đi vay là bất động sản và tài sản.
+ Doanh nghiệp cho thuê là doanh nghiệp tài chính
+ Mở rộng quy mô thuê tài tính không thường xuyên
+ Có mục tiêu lâu dài
+ Mang tính chủ động
+ Lãi suất cao do đầu tư lâu dài
+ Trả nợ theo kỳ hạn
Câu 2: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi DN tăng vốn bằng cách liên doanh với DN khác so với tăng vốn bằng
hình thức tính dụng thương mai,?
 Về thương hiệu:
+ Tăng vốn bằng TDTM thì tên và thương hiệu của doanh nghiệp vẫn được giữ như cũ. Chẳng hạn DN A tự tăng
vốn bằng TDTM thì doanh nghiệp vẫn được giữ nguyên tên và thương hiệu của mình là A.
+ Tăng vốn bằng cách liên doanh với 1 doanh nghiệp khác thì lúc này chủ sở hữu sẽ tăng lên và thương thì thương
hiệu sẽ thay đổi. Ví dụ doanh nghiệp A liên doanh hùng hạp cùng doanh nghiệp B thì sẽ doanh ra doanh nghiệp
mang tên AB chẳng hạn.
 Về khả năng tăng vốn:

+ Ngắn hạn
+ Không có tài sản thế chấp
+ Không tín chấp
+ Trả lãi trước
+ Rủi ro cao
+ Khong có chứng từ vay
+ Qui mô nhỏ
+ Chỉ phục vụ mục đích tiêu dùng
+ Đối tượng: bao gồm tất cả các đối tượng

Câu 4 : Trình bày mối quan hệ giữa tài chính TM và tài chính NH:

Khái niệm tín dụng thương mại.
Là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp với nhau, biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá.
Khái niệm tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ chuyển nhượng vốn giữa ngân hàng và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Trong
đó ngân hàng vưà đóng vai trò người đi vay ( nhận tiền gửi của các chủ thể khác trong nền kinh tế hoặc phát hành
các chứng chỉ tiền gửi : kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng để huy động vốn), vừa đóng vai trò người cho vay ( cấp tín
dụng cho các chủ thể khác trong nền kinh tế bằng việc thiếp lập các hợp đồng tín dụng, khế ước nhận nợ…).
Mối quan hệ giữa tín dụng thương mại và tín dụng ngân hàng
Tín dụng thương mại là cơ sở cho tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển vì thương phiếu chính là một loại bảo
đảm để ngân hàng cấp tín dụng cho người vay. Hơn nữa khi ngân hàng cấp tín dụng từ số dư tiền gửi của khách
hàng thì phải đảm bảo rằng khoản tín dụng đó đã có hàng hoá đối ứng. Chính tín dụng thương mại đảm bảo cho
khoản hàng hoá đối ứng đó vì khi tín dụng thương mại phát sinh có nghĩa là việc sản xuất, tiêu thụ đã được thực
hiện.
Ngược lại, tín dụng ngân hàng ra đời và phát triển đã tác động trở lại, tạo điều kiện thúc đẩy tín dụng thương mại
ngày càng phát triển vì ngân hàng có thể thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp để tạo điểu kiện cho các doanh
nghiệp có thể mua bán chịu với nhau khi họ chưa quen biết. Ngoài ra với việc thực hiện chiết khấu, tái chiết khấu
thương phiếu, ngân hàng đã tạo tính thanh khoản cho thương phiếu, tạo điều kiện thúc đẩy các doanh nghiệp mua
bán chịu nhiều hơn. Nhờ có tín dụng ngân hàng đã giúp cho các doanh nghiệp có vốn sản xuất kinh doanh, mở rộng

Có thời hạn ngắn là
chủ yếu
Rất linh hoạt: ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn
Ngắn, trung, dài hạn
Công cụ

Thương phiếu

Rất linh hoạt: kỳ phiếu,
trái phiếu ngân hàng,
Trái phiếu nhà nước

Tính chất
Trực tiếp
Gián tiếp
Trực tiếp
Mục đích
Phục vụ nhu cầu sản
xuất và lưu thông hàng
hoá vì mục tiêu lợi
nhuận
Phục vụ sản xuất kinh
doanh hoặc tiêu dùng qua
đó thu được lợi nhuận.
Phục vụ cho nhu cầu của ngân
sách nhà nước. Tất cả các hình thức tín dụng trên đều có thể đồng thời tồn tại và phát triển vì mỗi hình thức tín dụng đều có đặc

- Biết được cụ thể dịch vụ gì.
- Phân biệt thuế - phí, lệ phí
Tiêu chí
Thuế
Phí , lệ phí

Tính pháp lý
Cao hơn thể hiện cơ quan ban hành là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất dưới hình
thức là đạo luật hoặc pháp lệnh
Thấp hơn, có nhiều cơ quan có thẩm quyền
ban hành như Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Bộ tài chính, Hội đồng nhân tỉnh

Tính đối giá
tính hoàn trả
Không có tính đối giá tính hoàn trả trực tiếp.
Người nộp thuế không trên cơ sở được
hưởng những lợi ích vật chất tương ứng. Dù
Có tính đối giá tính hoàn trả trực tiếp. Người
nộp phí,lệ phí trên cơ sở được hưởng những
lợi ích nhất định, có hưởng lợi mới phải nộp
trực tiếp
có hưởng lợi hay không hưởng lợi nếu thảo
mãn điều kiện luật định đều phải nộp thuế.
phí, lệ phí,không hưởng lợi thì không phải
nộp.
Mục tiêu
Tạo lập nguồn thu chủ yếu cho NSNN, điều
tiết hoạt động đầu tư, sản xuất tiêu dùng xã


4. Phí thuộc lãnh vực lưu thông vận tải: phí sử dụng đường bộ…

5. Phí thuộc lãnh vực thông tin, liên lạc: phí sử dụng và bảo vệ tần số vô tuyến điện…

6. Phí thuộc lãnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội: phí trông giữ xe…

7. Phí thuộc lãnh vực văn hóa xã hội: phí tham quan…

8. Phí thuộc lãnh vực giáo dục và đào tạo: học phí…

9. Phí thuộc lãnh vực y tế: viện phí…

10. Phí thuộc lãnh vực khoa học, công nghệ và môi trường: phí vệ sinh…

11. Phí thuộc lãnh vực tài chính, ngân hàng, hải quan: phí hoạt động chứng khoán…

12. Phí thuộc lãnh vực tư pháp: án phí…

Ngoài ra cũng cần phân biệt:

- Phí thu từ các dịch vụ do Nhà nước đầu tư là khoản thu thuộc Ngân sách nhà nước, được Nhà nước quản lý và sử
dụng.

- Phí thu được từ các dịch vụ không do Nhà nước đầu tư hoặc do Nhà nước đầu tư nhưng đã chuyển giao cho tổ chức,
cá nhân thực hiện theo nguyên tắc hạch toán là khoản thu không thuộc Ngân sách nhà nước, tổ chức cá nhân thu phí
có quyền quản lý, sử dụng số tiền được qui định của pháp luật.
Một điểm nữa cũng cần phân biệt: các loại phí bảo hiểm xã hội, phí bảo hiểm y tế và các loại phí bảo hiểm khác không
thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh phí và Lệ phí.


Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí phải niêm yết hoặc thông báo công khai tại địa điểm thu về về tên phí, lệ phí, mức thu,
phương thức thu và cơ quan quy định thu.

Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí phải thực hiện chế độ kế toán, qui định kỳ báo cáo quyết toán thu, nộp, sử dụng phí, lệ
phí, thực hiện chế độ công khai tài chính theo quy định của pháp luật.

Tổ chức, cá nhân thu các loại phí, lệ phí khác nhau phải hạch toán riêng từng loại phí, lệ phí.

Phí, lệ phí thuộc Ngân sách Nhà nước không phải chịu thuế

Phí thuộc ngân sách Nhà nước do các tổ chức, cá nhân phải chịu thuế theo quy định pháp luật.

Tổ chức, cá nhân không nộp hoặc nộp không đủ số tiền phí, lệ phí thì không được phục vụ công việc, dịch vụ hoặc bị
xử lý theo quy định pháp luật.

1. Người nào không thực hiện đúng những quy định về việc ban hành, tổ chức thực hiện, quản lý và sử dụng phí, lệ
phí theo tính chất, mức độ vi phạm thì phải bồi thường theo quy định pháp luật.

2. Tổ chức, cá nhân thu phí, lệ phí không đúng quy định của pháp luật về phí và lệ phí thì bị xử lý theo quy định của
pháp luật, số tiền đã thu sai phải được trả lại cho đối tượng nộp phí, lệ phí, trường hợp không xác định được đối tượng
nộp phí thì số tiền đã thu sai phải nộp vào ngân sách Nhà nước. Câu 8: Cho biết những đặc trưng khác nhau khi Ngân sách NN đi vay trung và dài hạn so với nguồn thu của NN
từ sự đóng góp tự nguyện của nhân dân

Câu 9: Đặc trưng khác nhau giữa chi tường xuyên so với chi đầu tư phát triển

Tiêu chí
Chi đầu tư phát triển

Là khoản chi có tính chất tiêu dùng hiện tại bảo đảm
duy trì hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước,
bảo đảm sự ổn định xã hội, là khoản chi có tính phí tổn.
Không có khả năng hoàn trả hay thu hồi.
Hình thức
chi
Cấp phát không hoàn lại; Chi cho vay. Có
thể chi theo dự toán kinh phí hoặc cấp
phát theo lệnh chi tiền.
Cấp phát không hoàn lại, chủ yếu chi theo dự toán.
Nguồn
vốn chi
Bao gồm nguồn thu ngân sách từ thuế, phí
lệ phí (thu trong cân đối NS) và cả từ
nguồn vốn vay của Nhà nước.
Chỉ chi từ thu ngân sách từ thuế, phí lệ phí (thu trong
cân đối NS)
Dự toán
chi
Bao gồm tổng dự toán và dự toán bố trí
hàng năm. chi thường vào thời điểm cụ
thể nên có kế hoạch chi để bảo đảm
nguồn
Chỉ gồm dự toán chi ngân sách trong dự toán chi hàng
năm. Chi thường xuyên được thực hiện tương đối đều
trong các tháng, quý của năm
Mức độ ưu
tiên
Mức độ ưu tiên thấp hơn
Cao hơn

nước

Nhóm chi thường xuyên bao gồm các khoản chi nhằm duy trì hoạt động thường xuyên của nhà nước;
Nhóm chi đầu tư phát triển nhằm làm tăng cơ sở vật chất của đất nước và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế;

Chi thường xuyên là khoản chi không có trong khu vực đầu tư và có tính chất thường xuyên để tài trợ cho hoạt động
của cơ quan nhà nước nhằm duy trì " đời sống quốc gia " . Khoản chi này phải được tài trợ bằng các khoản thu không
mang tính hoàn trả của ngân sách nhà nước ( lĩnh vực quốc phòng , an ninh , ngoại giao , thông tin đại chúng chi phí
duy trì hoạt động của các cơ quan nhà nước chi phí cho hoạt động cải thiện xã hội , văn hóa
Chi thường xuyên phát sinh đều đặn , ổn định ( số chi và thời gian chi) phù hợp với nhịp độ phát triển của nền kinh tế
Chi đầu tư là tất cả khoản chi phí làm tăng tài sản quốc gia . Bao gồm
+ chi mua sắm máy móc , thiết bị , dụng cụ
+ chi xây dựng mới , tu bổ công sở , đường xá
+ chi phí chuyển nhượng đầu tư
+ chi cho việc thành lập các doanh nghiệp mới nhà nước

Như vậy; chi thường xuyên là những khoản chi cần thiết cho những vấn đề thiết yếu của đất nước còn chi đầu tư là chi
thứ cho việc phát triển đất nước

Ngân sách nhà nước là công cụ định hướng hình thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và
chống độc quyền.

Chính phủ sẽ hướng hoạt động của các chủ thể trong nền kinh tế đi vào quỹ đạo mà chính phủ đã hoạch định để hình
thành cơ cấu kinh tế tối ưu, tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển ổn định và bền vững.
Câu 11: CM chi đầu tư phát triển của NN có vay trò kích thích DN mở rộng thị trường, giảm chi phí và nâng cao năng
lực cạnh tranh
Câu 12: Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa việc tăng NSNN bằng việc thu thuế so với khoản đóng góp tự
nguyện của cá nhân, tổ chức NN
 Tăng NSNN bằng việc thu thuế:
- Mang tính pháp lệnh ( bắt buộc).

 Nợ trong nước (các khoản vay từ người cho vay trong nước) và nợ nước ngoài (các khoản vay từ người cho
vay ngoài nước).
 Nợ ngắn hạn (từ 1 năm trở xuống), nợ trung hạn (từ trên 1 năm đến 10 năm) và nợ dài hạn (trên 10 năm).
 Tín dụng trung dài hạn
- Có thời hạn cho vay >1 năm đến vài chục năm
- Được sủ dụng để phát triển quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu tăng mức sản xuất và của
cải xã hội
- mức độ rủi ro cao (bao gồm rủi ro cá biệt và rủi ro hệ thống) vì hiệu quả đầu tư thường là dự tính
- LS cao, tăng lên cùng thời hạn vay.
 Tín dụng ngắn hạn
- Có thời hạn cho vay <12 tháng
- Nhằm đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn như bổ sung ngân quỹ, đảm bảo yêu cầu thanh toán đến hạn, bổ
sung nhu cầu vốn lưu động hoặc tiêu dùng cá nhân
- Có mức độ rủi ro thấp vì thời hạn hoàn vốn nhanh, tránh được các rủi ro về LS
- LS thấp
 Vì sao nói lãi suất của TD trung dài hạn thường cao hơn TD ngắn hạn
- Vì TD trung dài hạn mang lại lợi nhuận cao hơn TD ngắn hạn
- Độ rủi ro cao hơn phần bù rủi ro là phần LS phải lớn hơn LS cao và tăng lên cùng thời hạn vay.
- Chi phí giám sát, quản lý khoản vay của TD trung dài hạn lớn hơn.
Câu 15: Cho biết đặc trưng khác nhau giữa tài sản cố định và tài sản lưu động

Vốn cố định
Vốn lưu động
k/n
Là biểu hiện bằng tiền toàn bộ tài sản cố định
của doanh nghiệp
Chia thành 2 loại:
+ Tài sản hữu hình: là những tài sản có hình
thái, vậ chất cụ thể như nhà xưởng, máy móc
trang thiết bị…

 Tài sản lưu động:
- Không khấu hao
- Chỉ dùng được trong 1 chu kỳ sản xuất
- Đầu tư ngắn
- Nợ phải trả
- Có tính thanh khoảng cao
- Có giá trị nhỏ hơn
 Tài sản cố định:
- Có khấu hao
- Chu kỳ sử dụng trong dài hạn
- Đầu tư dài hạn
- Mua bằng vốn của mình, vốn vay hoặc do biếu tặng tài sản
- Có tính thanh khoản thấp
- Có giá trị lớn hơn
-
Câu 16: Liệt kê 10 loại lệ phí khác nhau, cho biết lệ phí là gì?
Là khoản tiền mà tổ chức, cá nhân phải nộp khi được cơ quan nhà nước hoặc tổ chức được ủy quyền phục vụ công
việc quản lý Nhà nước được qui định trong danh mục Lệ phí ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí.

Theo danh mục Phí và Lệ phí, được áp dụng ban hành kèm theo Pháp lệnh Phí và Lệ phí, các loại phí chia ra:

1. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền và nghĩa vụ của công dân: lệ phí tòa án

2. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản: lệ phí trước bạ…

3. Lệ phí quản lý Nhà nước liên quan đến sản xuất kinh doanh, cung cấp thơng tin về Lệ phí Đăng ký kinh doanh.

4. Lệ phí quản lý Nhà nước đặc biệt về chủ quyền quốc gia: lệ phí ra vào cảng…

5. Lệ phí quản lý Nhà nước trong các lãnh vực khác: lệ phí hải quan, lệ phí chứng thực, lệ phí cơng chứng.

viên với KH, đối tác, cũng như đối với doanh nghiệp, là vốn đầu tư cho hoạt độgn của doanh nghiệp, là cơ sở để phân
chia lợi nhuận cũng như sủi ro trong kinh doanh đối với các thành viên góp vốn.
Vốn pháp định: là mức vốn tối thiểu phải có để có thể thành lập một doanh nghiệp. Vốn pháp định do cơ quan thẩm
quyền ấn định, mà nó được xem là có thể thực hiện được dự án khi thành lập doanh nghiệp. Vốn pháp định sẽ khác
nhau tùy theo lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh. Vốn pháp định ở VN chỉ quy định cho 1 số ngành nghề có liện quan
đến tài tính như: Chứng khốn, bảo hiểm, kinh doanh vàng và kinh doanh tiền tiệ.
Lưu ý: Vốn điều lệ chỉ ghi con só có tính chất đăng ký. Trong khi đó, doanh nghiệp vân hành qua các năm, lãi lỗ làm
thay đổi phần lãi giữ lại khiến cho vốn chủ sở hữu trên thực tế thay đổi. Đó là từ nguồn vận hành sx-kd. Hơn thế nữa,
ngày nay với việc phát hành cổ phần mới, với mức thặng dư tạo thành vốn chủ sở hữu, và việc chuyển đổi các trái
phiếu chuyển đổi thành cổ phần, tức là biến tài sản nợ thành tài sản vốn, vốn chủ sở hữu tiếp tục còn tăng lên. Ngược
lại, lại có trường hợp vốn điều lệ lơn hơn vốn chủ sở hữu, 1 trong những lý do là: chưa góp đủ vốn, vốn chủ sở hữu teo
đi do phần lỗ trong hoạt động kinh doanh.
Câu 20 : Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa NHNN và NHTM
Phân biệt sự khác nhau giữa NHTM và NHTW. Mối quan hệ giữa NHTM và NHTW.
1. Sự khác nhau giữa NHTM và NHTW
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương
- Là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền
gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn
trả lại và sử dụng số tiền đó để cho vay,
thực hiện nghiệp vụ chứng khoán, làm phương
tiện thanh toán.
- Là cơ quan độc quyền phát hành tiền, thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền và
hoạt động ngân hàng nhằm ổn đònh giá trò đồng
tiền góp phần bảo đảm an toàn hoạt động ngân
hàng và các tổ chức tín dụng khác thúc đẩy
phát triển kinh tế xã hội.


tiền cung ứng, quản lý vó mô nền kinh tế.

- Thực thi, xây dựng chính sách tiền tệ

- Phát hành giấy bạc
- Là ngân hàng của các ngân hàng, trung tâm
thanh toán giữa các ngân hàng, mở tài khoản
và quản lý tiền gửi cho các ngân hàng

- Đóng vai trò chủ nợ và người cho vay cuối
cùng với các NHTM

- Chỉ có một NHTW duy nhất quản lý hoạt
động các ngân hàng
1. Sự khác nhau giữa hoạt động tín dụng của NHTM với NHTW
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng trung ương
- Huy động tiền gửi và đi vay để cho
vay

- Đóng vai trò là trung gian tín dụng
nhận tiền gửi và cho vay

- Cấp tín dụng theo yêu cầu, chỉ đònh
của chính phủ và các chủ thể kinh
tế khác


- NHTW xây dựng các chính sách tiền tệ tác động vào nền kinh tế thông qua hệ thống các
NHTM
- NHTW điều tiết lượng tiền cung ứng cho lưu thông qua việc sử dụng một các đồng bộ các
công cụ chính sách tiền tệ để tác động vào khả năng tạo tiền của hệ thống NHTM như: cấp tín
dụng, lãi suất chiết khấu, tỷ giá, ấn đònh mức dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng cung cấp ra, …

Câu 21: Trình bày biểu hiện về sự phụ thuộc của NHNN VN vào chính phủ
Ngân hàng nhà nước VN vẫn phụ thuộc vào chính phủ do là thành viên của chính phủ. Ngân hàng nhà nước do thống
đốc điều hành dưới hội đồng do các chức sắc nhà nước nắm giữ do đó quyền hành ngân hàng bị lấn át quyền hành của
nhà nước.
Về mặt tài chính vẫn phải chịu khoản thu chi của nhà nước: thiếu thì xin nhà nước, thừ thì nộp lại cho nhà nước. Sự
chủ động của điều tiết tỉ giá, cán cân thương mại quốc tế khơng có. Cho nhà nước vay khi có tình trạng khẩn cấp. Khi
ngân hàng nha nước tạm ứng, ngân hàng trung ương cho vay mà khơng có gì đảm bảo.
Câu 22: Cho biết đặc trưng khác nhau khi NHTW sử dụng cơng cụ dự trữ bắt buộc so với cơng cụ lãi suất tái chiết
khấu Dự trữ bắt buộc
Tái chiết khấu
Nghiệp vụ thị trường mở
Tính linh hoạt: Thiếu linh
hoạt vì chỉ cần thay đổi 1%
tỷ lệ dự trữ bắt buộc thỉ mức
dự trữ thay đổi đáng kể và
dẫn đến sự thay đổi theo cấp
số nhân của khối lượng tiền
cung ứng. Nếu thay đổi

Kém chủ động do mức độ phát
huy hiệu quả của cơng cụ này căn cứ
vào mức độ phụ thuộc về vốn của
NHTM vào NHTW.
Rất chủ động, ngân
hàng trung ương có thể
thực hiện yêu cầu của
mình bằng cách điều
chỉnh giá chứng khoán
để hấp dẫn các đối tác.
Khả năng đảo ngược tình
thế: khó thể đảo ngược
tình thế.
Khó đảo ngược tình thế do
hiệu ứng thông báo chỉ phát
huy tác dụng khi lãi suất tái
chiết khấu phù hớp với mức
lãi suất trên thò trường.
Dễ đảo ngược tình
huống khi phát hiện tiền
lưu thông thừa hoặc thiếu
bằng cách mua hoặc bán
ra các phiếu nợ.
Tốc độ thực hiện: không
nhanh lắm
Nhanh.
Nhanh chóng, đơn giản,
không cần các thủ tục
rườm rà.


luôn dùng được trực tiếp để thanh toán, lưu thông, tích trữ; còn hàng tồn kho có tính thanh khoản thấp nhất vì phải trải
qua giai đoạn phân phối và tiêu thụ chuyển thành khoản phải thu, rồi từ khoản phải thu sau một thời gian mới chuyển
thành tiền mặt.

Chứng khoán có tính thanh khoản là những chứng khoán có sẵn thị trường cho việc bán lại dễ dàng, giá cả tương đối
ổn định theo thời gian và khả năng cao để phục hồi nguồn vốn đã đầu tư nguyên thủy của ngân hàng. Khi lựa chọn
chứng khoán để đầu tư, ngân hàng dứt khoát phải xem xét đến khả năng bán lại trước khi chúng đáo hạn để tái tạo
nguồn vốn đầu tư ban đầu. Nếu khả năng tái tạo kém, nghĩa là khó tìm được người mua hoặc phải bán mất giá, ngân
hàng sẽ gánh chịu những tổn thất tài chính lớn. Và điều này gọi là rủi ro thanh khoản trong đầu tư chứng khoán.

Nhờ có thị trường chứng khoán các nhà đầu tư có thể chuyển đổi chứng khoán họ sở hữu thành tiền mặt khi họ muốn
và khả năng thanh khoản chính là một trong những đặc tính hấp dẫn của chứng khoán với các nhà đầu tư. Tính lỏng
cho thấy sự linh hoạt và an toàn của vốn đầu tư, thị trường hoạt động càng năng động và có hiệu quả thì tính lỏng của
chứng khoán giao dịch càng cao. Có mối quan hệ chặt chẽ giữa chỉ số P/E và tính lỏng chứng khoán, nhìn vào bảng
thống kê tính thanh khoản của cổ phiếu, nhà đầu tư dễ dàng nhận ra những cổ phiếu giao dịch sôi động nhất cũng là
những cổ phiếu có P/E cao hơn mức trung bình của thị trường (được đánh giá cao hơn các cổ phiếu có cùng lợi tức).
Đây là những chứng khoán có tốc độ tăng giá cao và mang lại giá trị thặng dư cao cho cổ đông thông qua việc chia
tách cổ phiếu hay phát hành cổ phiếu mới.

Câu 24: Các đặc trưng khác nhau của quỹ đầu tư dạng đóng và ngân hàng thương mại
Quỹ đầu tư dạng đóng (closed-end fund): Không mua lại các chứng chỉ mà Quỹ đã phát hành, Quỹ đóng huy động vốn
thông qua phát hành chứng chỉ từng lần một. Nhà đầu tư không mua được chứng chỉ Quỹ ở các lần phát hành tập
trung thì chỉ có thể mua lại ở thị trường chứng khoán thứ cấp từ những cổ đông hiện tại giống như giao dịch các cổ
phiếu. Quỹ không có liên quan gì tới những giao dịch này. Vì vậy, Quỹ đóng còn có tên là Quỹ giao dịch công cộng
(publicly-traded fund). Chứng chỉ Quỹ đóng có thể được niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc chỉ được giao
dịch trên thị trường chứng khoán phi tập trung OTC (Over The Counter ) và được giao dịch giống như cổ phiếu
thường.

Quỹ đóng có cơ cấu vốn ổn định nên có lợi thế trong việc đầu tư vào các dự án dài hạn và các chứng khoán có tính
thanh khoản thấp. Tuy vậy, chứng chỉ Qũy đóng không có tính thanh khoản cao nên thị giá thường thấp và thời gian

thực hiện việc mua lại cổ phiếu/chứng chỉ đầu tư khi nhà đầu tư có nhu cầu bán lại. Nhằm tạo tính thanh khoản cho
loại quỹ này, sau khi kết thúc việc huy động vốn (hay đóng quỹ), các chứng chỉ quỹ sẽ được niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Các nhà đầu tư có thể mua hoặc bán để thu hồi vốn cổ phiếu hoặc chứng chỉ đầu tư của mình thông qua
thị trường thứ cấp. Tổng vốn huy động của quỹ cố định và không biến đổi trong suốt thời gian quỹ hoạt động. Câu 25: Cho biết những đặc trưng khác nhau giữa việc tăng NSNN bằng việc thu thuế, bằng vay ngắn hạn từ NHTW,
bằng vay ODA, bằng vay thương mại
1. so sánh các hình thức TÍN DỤNG
 Giống:
- Đều là nghiệp vụ cho vay
- Đều có chữ tín trong vấn đề thanh toán và trả nợ
- Đều có thời hạn trả nợ hay thời hạn thanh toán
- Đều có thể tại trợ TM
 Khác

Tín dụng
thương mại
Tín dụng
thuê mua
Tín dụng
nhà nước
Tín dụng
quốc tế
Khái
niệm
Là quan hệ tín
dụng nảy sinh giữa
các DN SXKD
được thực hiện

hàng hóa dịch vụ
(ko phải tiền)
máy móc, tài sản,
nhà xưởng, oto, tàu
biển…

trái phiếu, tín phiếu
kho bạc, công trái
nhà nc

vốn, tiền tệ, máy
móc trang thiết
bị…

Chủ thể
các doanh nghiệp
SXKD

công ty tài chính
với các DN và ng
SXKD

+ Nhà nước là ng
đi vay bằng cách
phát hành các trái
phiếu và tín phiếu
tùy theo sự thiếu
hụt của ngân sách
NN +
Các hộ gd, NHTW,

thuê chịu t/nhiệm
sửa chữa, bảo
dưỡng TS)-> chi
phí thấp +
Bán và tái thuê
(bên có tài sản sẽ
bán lại tài sản đó
và chỉ thuê lại
trong một thời gian
nhất định).

+ đi vay:
- trong nước: phát
hành các giấy tờ có
giá (trái phiếu, tín
phiếu kho bạc,
công trái…)
- nước ngoài:
_vay qua ODA
_Vay từ các tổ
chức t.chính tiền tệ
quốc tế: IMS, WB,
ADB…
_Ko ổn định, chi
phí cao, vốn cao,
nhiều rủi ro
+ cho vay:
- Qua ODA
-Cho vay ưu đãi
với các ngành, các

mua và bán
+ thúc đẩy TD NH
phát triển
+ là TD ngắn hạn,
thủ tục đơn giản,
thuận tiện

+ Các DN có thể
hiện đại hoá sản
xuất theo kịp tốc
độ phát triển của
công nghệ mới
trong khi nguồn
vốn tự có còn có
hạn.
+ Điều kiện của
hình thức này:
không cần tài sản
thế chấp nên các
DN rất dễ tiếp cận.

+ Các công cụ do
NN phát hành có
độ an toàn cao
+ Nguồn vốn từ
TD NN giúp NN
t.hiện được chức
năng trong quản lý
KTXH


thức tín dụng khác.

các công cụ do NN
phát hành thường
có độ sinh lời thấp
và kém hấp dẫn
+ Rủi ro do những
biến cố về KT,
C.trị, Xã hội các
nước. + rủi
ro về tỷ giá Tác
dụng
Sử dụng phổ biến
để đáp ứng nhu cầu
vốn ngắn hạn và
góp phần thúc đẩy
tốc độ tiêu thụ sản
phẩm của DN. Đáp
ứng được nhu cầu
TD trực tiếp
thường xuyên nảy
sinh giữa các DN
và góp phần thúc
đẩy tốc độ lưu

Hình
thức
Cơ sở pháp lý để xác định nợ trong
TDTM là thương phiếu (là 1 chứng chỉ
có giá ghi nhân lệnh yêu cầu thanh toán
hoặc cam kết thanh toán

+ TD thương mại: mua bán, trao đổi hàng hóa,
cung ứng dịch vụ giữa các nước với nhau. Bao
gồm: TDTM cấp cho nhà XK; TDTM cấp cho
nhà NK, TD mở TK, TD chấp nhận hối phiếu,
TD của nhà môi giới cấp cho nhà XNK.
+ TD Ngân hàng: là quan hệ TD các NH cấp
cho các nhà XNK, đa số là TD ngắn hạn.
+ TD Nhà nước: là quan hệ TD giữa giữa CP
của 1 quốc gia với các chủ thể của quốc gia
khác.

Ưu
điểm
+ Thỏa mãn nhu cầu của cả 2 bên mua
và bán
+ thúc đẩy TD NH phát triển
+ là TD ngắn hạn, thủ tục đơn giản,
thuận tiện Nhươc
điểm
+ Bị giới hạn bởi khối lượng vốn, thời


- Xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của
người sở hữu trái phiếu, đồng thời xác nhận
khoản nợ mà công ty cam kết phải trả - Hưởng lãi suất cố đònh, không phụ thuộc
vào tình hình sản xuất kinh doanh của công ty - Người sở hữu trái phiếu trở thành trái chủ
của công ty (chủ nợ)

- Có thể có nhiều mệnh giá khác nhau
- Do công ty cổ phần phát hành để huy
độngvốn thành lập hoặc mở rộng sản xuất - Xác nhận sự góp vốn và quyền sở hữu
hợp pháp của một chủ thể đối với một hoặc
một số cổ phần của công ty - Lãi thu được phụ thuộc vào tình hình sản
xuất kinh doanh của công ty và theo tỷ lệ góp
vốn - Người sở hữu cổ phiếu gọi là cô đông
của công ty (chủ sở hữu)

ng sở hữu trái phiếu
- Gồm 3 loại: TP chính phủ, TP doanh nghiệp,
TP cơ quan địa phương
- Ng sở hữu TP k có tiếng nói trong quản lý DN

- Ng sở hữu TP đc chia TS của DN trước các cổ
đơng trong TH DN chấm dứt hoạt động

Câu 28: Phân biệt cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi

Cổ phiếu thường
Cổ phiếu ưu đãi
K/n
Là loại cổ phiếu thơng thường nhất trong các
cty cổ phần
Là một loại chứng khốn vừa có đặc điểm
giống CP thường, vừa có đặc điểm giống trái
phiếu
Quyền biểu
quyết
Có quyền biểu quyết đối với các quyết định lớn
tại đại hội cổ đơng
Chỉ có quyền biểu quyết nhất định đối với các
quyết định lớn của cơng ty
Cổ tức
hưởng cổ tức theo giá trị cổ phiếu mà người sở
hữu nắm giữ, tuy nhiên có thể thay đổi theo tỷ
lệ sở hữu (cổ tức k cố định)
được hưởng một mức cổ tức cố định hàng năm
cho dù cơng ty kd thua lỗ hay có lợi nhuận cao.

-Tínphiếu:
+ Là một giấy chứng nhận nợ của cá nhân, của công ty, trong đó các điều kiện hai bên tự thõa thuận với nhau (ghi rõ
thời gian trã lại vốn và tỹ lệ lời trên vốn).
+ Là giấy tờ có giá do chính phủ , ngân hàng nhà nước hay doanh nghiệp phát hành, mục đích là huy động vốn trong
ngắn hạn (dưới 1 năm)
+ Ngành ngân hàng dùng chữ chứng nhận tiền gởi định kỳ của khách hàng

Câu 30: Trình bày những đặc trưng khác nhau khi ngân sách nhà nước tạo nguồn thu từ việc tăng thuế trực thu, so với
tạo nguồn thu từ phát hành tín phiếu kho bạn để vay ngân sách nhà nước
Thuế trực thu là thuế mà người, hoạt động, đồ vật chịu thuế và nộp thuế là một. Ví Dụ như một người nhập hàng hóa
từ nước ngoài về và tiêu dùng luôn,hay như thuế thu nhập doanh nghiệp hay thuế thu nhập cá nhân, tài sản Thuế
đánh lên thu nhập hoặc tài sản với kỳ vọng rằng người bị thu thuế sẽ thực sự là người bị mất sức mua.
Khái niệm thu ngân sách nhà nước
Để có kinh phí chi cho mọi hoạt động của mình, nhà nước đã đặt ra các khoản thu (các khoản thuế khóa) do mọi công
dân đóng góp để hình thành nên quỹ tiền tệ của mình. Thực chất, thu ngân sách nhà nước là việc nhà nước dùng quyền
lực của mình để tập trung một phần nguồn tài chính quốc gia hình thành quỹ ngân sách nhà nước nhằm thỏa mãn các
nhu cầu của nhà nước.
Ở Việt Nam, Đứng về phương diện pháp lý, thu NSNN bao gồm những khoản tiền Nhà nước huy động vào ngân sách
để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Về mặt bản chất, thu NSNN là hệ thống những quan hệ kinh tế giữa Nhà
nước và xã hội phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động các nguồn tài chính để hình thành nên quỹ tiền tệ tập
trung của Nhà nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu chi tiêu của mình. Thu NSNN chỉ bao gồm những khoản tiền Nhà
nước huy động vào ngân sách mà không bị ràng buộc bởi trách nhiệm hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp. Theo Luật
NSNN hiện hành, nội dung các khoản thu NSNN bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do các tổ chức và cá nhân nộp theo quy định của pháp luật;
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước;
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân;
- Các khoản viện trợ;
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.

Vai trò của ngân sách:-ngân sách có vai trò huy động các nguồn tài chính để bảo đảm các nhu cầu chi tiêu của nhà

Về bản chất, tín phiếu NHNN là một trong những công cụ điều tiết lượng cung tiền của NHNN với cơ chế tương tự
như công cụ trái phiếu chính phủ (TPCP) song lại có thời hạn dưới 1 năm tương tự như tín phiếu Kho bạc Nhà nước
(KBNN).
NHNN có thể phát hành tín phiếu để thu hút tiền về, giảm lượng tiền trên thị trường để thực hiện chính sách tiền tệ
thắt chặt nhằm chống lạm phát hay ngược lại, NHNN mua vào tín phiếu để tăng lượng cung tiền, nới lỏng chính sách
tiền tệ nhằm kích thích tăng trưởng khi nguy cơ lạm phát cao không còn hoặc ít nhất là đã giảm.
Người nắm giữ tín phiếu NHNN thường là các định chế tài chính khó có thể sử dụng tín phiếu NHNN trên thị trường
mở (OMO) mà thường buộc phải giữ lại đến khi đáo hạn để hưởng một mức lãi suất nhất định.
Tuy nhiên, công cụ tín phiếu NHNN không thường xuyên được sử dụng do theo cơ chế thị trường thì TPCP đã đảm
nhận được vai trò hàng hóa chủ đạo trên thị trường mở với những ưu thế hấp dẫn tuyệt đối cả về lãi suất, qui mô, thời
hạn, tính thanh khoản và mức độ rủi ro. Hơn nữa, sức mạnh can thiệp vào thị trường tài chính tiền tệ của công cụ tín
phiếu NHNN không hiệu lực bằng các công cụ truyền thống như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu và tỷ lệ dự
trữ bắt buộc.
Chính vì vậy, tín phiếu NHNN chỉ được sử dụng trong trường hợp cấp bách nhằm vào mục tiêu ngắn hạn và đặc biệt
có hiệu quả khi đi kèm với biện pháp mang tính hành chính là bắt buộc, cả bắt buộc mua cũng như bắt buộc chấp nhận
mức lãi suất nhất định thường là thấp hơn nhiều so với lãi suất TPCP và mặt bằng lãi suất cho vay trên thị trường.
Vì sao phải phát hành tín phiếu?
Dường như lý do thuyết phục duy nhất cho việc phát hành tín phiếu NHNN năm 2012 là nhằm thu hút bớt lượng VND
mà NHNN đã bơm ra để mua ngoại tệ, cụ thể là mua USD để tăng dự trữ ngoại hối.
Câu 31: Trình bày nhân định cá nhân về hiện tượng doanh nghiệp chi trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu mới phát
hành so với doanh nghiệp chi trả cổ tức bằng cổ phiếu quỹ
Cổ tức là một phần lợi nhuận sau thuế được chia cho các cổ đông của một công ty cổ phần. Cổ tức có thể được trả
bằng tiền hoặc bằng cổ phiếu.
Mục đích cơ bản của bất kỳ công việc kinh doanh nào là tạo ra lợi nhuận cho những chủ sở hữu của nó, và cổ tức là
cách thức quan trọng nhất để việc kinh doanh thực hiện được nhiệm vụ này. Khi công việc kinh doanh của công ty tạo
ra lợi nhuận, một phần lợi nhuận được tái đầu tư vào việc kinh doanh và lập các quỹ dự phòng, gọi là lợi nhuận giữ
lại, phần lợi nhuận còn lại được chi trả cho các cổ đông, gọi là cổ tức. Việc thanh toán cổ tức làm giảm lượng tiền lưu
thông đối với công việc kinh doanh, nhưng việc chia lời cho các chủ sở hữu, sau tất cả mọi điều, là mục đích chính
của kinh doanh.
Một số công ty trả cổ tức cho cổ đông bằng cổ phiếu thay vì tiền mặt, trong trường hợp này các cổ đông nhận được

hưởng đến giá cổ phiếu. Bên cạnh đó, theo nguồn tin của một vị lãnh đạo DN chia sẻ, rất có thể HOSE sẽ không điều
chỉnh giá cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền nhận cổ tức bằng CPQ. Vì vậy nếu lựa chọn cách này sẽ
tránh được cho cổ đông bị điều chỉnh giá cổ phiếu trong ngày giao dịch không hưởng quyền.
Tuy nhiên, theo ý kiến của một chuyên gia kinh tế thì việc trả cổ tức bằng CPQ của DN sẽ không giúp cổ đông được
lợi. Mục đích mua CPQ của DN là tránh CP trôi nổi, tăng giá và tạo sự ổn định, nhưng khối lượng CP tăng thêm, giá
CP có thể giảm xuống.
Trong bối cảnh TTCK trầm lắng, việc các DN quyết định trả cổ tức bằng cổ phiếu, do phát hành thêm hay từ CPQ,
đều được nhìn nhận dưới góc độ tiêu cực. Tuy nhiên, cần phải nhìn vào khía cạnh tích cực của phương án này. Bởi sẽ
ra sao nếu phương án trả cổ tức này không được thực hiện, mà thay vào đó DN phải trả cổ tức bằng tiền. Khi ấy, DN
sẽ phải bán CPQ, làm tăng nguồn cung cổ phiếu trên thị trường, khiến đến giá cổ phiếu đi xuống và còn có thể rơi vào
trạng thái không thanh khoản, gây thiệt hại lớn cho NĐT.
Xét trên mọi khía cạnh, việc trả cổ tức hay thưởng cho cổ đông từ nguồn CPQ là nghiệp vụ được pháp luật thừa nhận
và cần phải mở đường cho DN thực hiện, tạo sự ổn định cho DN trong điều kiện thị trường trầm lắng lâu nay
Có ý kiến đặt vấn đề, khi DN mua cổ phiếu quỹ, giá cổ phiếu không bị điều chỉnh, thì khi DN thực hiện phân phối lại
cho cổ đông, không có cớ gì phải điều chỉnh lại giá cổ phiếu tại ngày chốt danh sách để hưởng quyền? Lập luận này
hoàn toàn không phù hợp vì chúng ta phải hiểu là hoạt động của TTCK còn có cơ chế tự điều chỉnh thông qua mối
quan hệ cung - cầu và mối quan hệ tương quan với P/E.
Khi DN mua CPQ, về nguyên tắc, cầu cổ phiếu của DN sẽ tăng lên và giá cổ phiếu có xu hướng tăng. Điều này đồng
nghĩa với việc, số lượng cổ phiếu lưu hành giảm, thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS) sẽ tăng. Trường hợp nếu DN bán
CPQ ra thị trường thì ngược lại, nguồn cung cổ phiếu tăng và giá cổ phiếu sẽ có xu hướng giảm và không cần thiết
phải thực hiện điều chỉnh kỹ thuật. Còn đối với các trường hợp thực hiện trả cổ tức bằng cổ phiếu (từ CPQ hoặc do
phát hành cổ phiếu thưởng), số lượng cổ phiếu sẽ tăng lên cho các cổ đông hiện hữu và đây là tăng cơ học, chứ không
phải tăng do tác động cung - cầu, thì việc điều chỉnh kỹ thuật giá cổ phiếu là phù hợp.
Vấn đề có điều chỉnh giá cổ phiếu tại ngày giao dịch không hưởng quyền sẽ trở nên rõ ràng nếu xem xét lợi ích của cổ
đông trước và sau ngày giao dịch không hưởng quyền. Tại ngày giao dịch không hưởng quyền, người mua sẽ không
được hưởng lợi ích này và vì vậy, nếu không thực hiện điều chỉnh kỹ thuật thì sẽ không đảm bảo công bằng về mặt lợi
ích cho cổ đông trước và sau ngày giao dịch chốt quyền. Nếu chỉ đặt câu hỏi về lợi ích của người bán thì làm sao giải
quyết được lợi ích của người mua?
Xét về bản chất, hoạt động mua CPQ là việc sử dụng quỹ thặng dư vốn cổ phần và/hoặc lợi nhuận để lại, mua lại cổ
phiếu của chính mình. Nói cách khác, đây là việc DN dùng nguồn vốn (thặng dư vốn) hoặc lợi nhuận để làm giảm số

Có một số lý do khiến doanh nghiệp mua lại cổ phiếu của chính mình. Đó có thể là do doanh nghiệp dư tiền và tạm
thời chưa có nhu cầu sử dụng hiệu quả, nên chọn cách dùng tiền đó để rút bớt số cổ phần đang lưu hành nhằm tăng giá
trị thu nhập trên mỗi cổ phần (EPS). Hoặc doanh nghiệp có tiền và tin rằng, cổ phiếu của mình đang bị thị trường định
giá thấp hơn giá tính toán.
Cho nên, việc mua lại sẽ vừa làm lợi cho cổ đông (giá trị cổ phần tăng), vừa có lợi cho doanh nghiệp nếu sau này bán
lại với giá cao hơn giá vốn đã mua (nhưng lợi đó không phải là lợi nhuận). Nếu doanh nghiệp tính toán sai dẫn đến
việc mua với giá cao, sau đó giá xuống thấp, thì sẽ “thiệt đơn, hại kép”. Mức thiệt hại này có thể là khoản lỗ thực
“cắn” vào lợi nhuận. Việc mua lại cũng có thể là để tái cấu trúc nguồn vốn của doanh nghiệp và đây là cách làm không
xa lạ với doanh nghiệp tại các nước phát triển.
Theo đó, với một thị trường vốn vay rẻ, doanh nghiệp có thể vay nợ và dùng nợ này để mua lại cổ phần của mình.
Mục đích của việc này là thay thế (để giảm bớt) nguồn vốn chủ sở hữu. Trường hợp này, lượng cổ phiếu được mua lại
sẽ bị hủy ngay lập tức và như vậy, không phát sinh cổ phiếu quỹ.
Cổ phiếu quỹ là loại bị công ty thoái vốn, nhưng được giữ lại để có điều kiện huy động về sau. Việc giữ lại này nôm
na gọi là lưu kho, được xếp chung với các cổ phiếu được phép phát hành khác nhưng chưa phát hành (nếu có). Gọi lưu
kho (treasury) chỉ là để phân biệt với việc hủy ngay, chứ thực tế cổ phiếu quỹ chính là loại được phép phát hành
nhưng chưa phát hành. Vả lại, cũng không loại trừ nó sẽ bị loại bỏ để giảm vốn vĩnh viễn nếu có một quyết định như
vậy của đại hội đồng cổ đông. Vậy thì làm sao ta có thể lấy cái không có để mà chia cổ tức được?
Về tài chính, theo cách hiểu và cách làm của thế giới, việc mua lại cổ phiếu quỹ sẽ làm giảm một khoản tiền mặt
(cash) bằng với giá vốn đã bỏ ra, đồng thời vốn chủ sở hữu sẽ bị giảm một khoản tương ứng.
Để các nhà đầu tư hiểu đúng khoản giảm này là do mua lại cổ phiếu, chứ không phải là khoản nợ hay lỗ, doanh nghiệp
cần ghi nhận thật rõ trên bảng cân đối kế toán bút tích cổ phiếu quỹ một khoản âm (-) ở dưới mục vốn chủ sở hữu.
Do bản chất của hoạt động mua lại cổ phiếu nói chung (stock repurchase) và mua cổ phiếu quỹ nói riêng chỉ có thể là
việc giảm vốn (hay tái cơ cấu nguồn vốn). Thế giới , họ không phân biệt nguồn tiền dùng để mua cổ phiếu quỹ là gì
như quy định ở Việt Nam (là vốn thặng dư hay lợi nhuận giữ lại). Thay vào đó, cứ hễ mua lại cổ phiếu là ghi giảm tiền
mặt (tiền nào không cần biết) đồng thời với giảm nguồn vốn chủ sở hữu.
Mua cổ phiếu quỹ cũng không thể là cách làm tùy tiện. Luật lệ nhiều nước (và nhiều tiểu bang của Mỹ) đặt ra giới hạn
lượng cổ phiếu một công ty được phép mua lại cùng với thời gian được nắm giữ. Vì ngoài ý nghĩa tích cực, người ta
phòng ngừa việc tuồn nguồn lực (cụ thể là tiền) ra khỏi doanh nghiệp với ý đồ tiêu cực, gây nguy hại cho quyền lợi cổ
đông nhỏ và các chủ nợ. Đây là những đối tượng được luật pháp quan tâm bảo vệ. Ở Anh, hoạt động mua và giữ cổ
phiếu quỹ bị cấm dài cho đến năm 1993 mới được phép.

buộc. Khi tỷ lệ dự trữ tiền mặt thực tế của ngân hàng thương mại giảm xuống đến gần tỷ lệ an toàn tối thiểu thì họ sẽ
phải cân nhắc việc có tiếp tục cho vay hay không vì buộc phải tính toán giữa số tiền thu được từ việc cho vay với các
chi phí liên quan trong trường hợp khách hàng có nhu cầu tiền mặt cao bất thường:
Nếu lãi suất chiết khấu bằng hoặc thấp hơnlãi suất thị trường thì ngân hàng thương mại sẽ tiếp tục cho vay đến khi tỷ
lệ dự trữ tiền mặt giảm đến mức tối thiểu cho phép vì nếu thiếu tiền mặt họ có thể vay từ NHNN mà không phải chịu
bất kỳ thiệt hại nào.
Nếu lãi suất chiết khấu cao hơn lãi suất thị trường, các ngân hàng thương mại không thể để cho tỷ lệ dự trữ tiền mặt
giảm xuống đến mức tối thiểu cho phép, thậm chí phải dự trữ thêm tiền mặt để tránh phải vay tiền từ NHNN với lãi
suất cao hơn lãi suất thị trường khi phát sinh nhu cầu tiền mặt bất thường từ phía khách hàng.
Công cụ thứ hai: Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là hoạt động NHNN mua vào hoặc bán ra những giấy tờ có giá của chính phủ trên thị trường.
Thông qua hoạt động mua bán giấy tờ có giá, ngân hàng trung ương tác động trực tiếp đến nguồn vốn khả dụng của
các tổ chức tín dụng, từ đó điều tiết lượng cung tiền và tác động gián tiếp đến lãi suất thị trường.
Tại Việt Nam, theo nghiệp vụ thị trường mở chỉ là việc mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn như tín phiếu kho bạc chứng
chỉ tiền gửi, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác.
Công cụ thứ ba: Tỷ lệ dự trữ bắt buộc
Dự trữ bắt buộc, hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một quy định của NHNNvề về tỷ lệ giữa tiền mặt và tiền gửi mà các ngân
hàng thương mại bắt buộc phải tuân thủ để đảm bảo tính thanh khoản. Các ngân hàng có thể giữ tiền mặt cao hơn hoặc
bằng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc nhưng không được phép giữ tiền mặt ít hơn tỷ lệ này. Nếu thiếu hụt tiền mặt các ngân hàng
thương mại phải vay thêm tiền mặt, thường là từ NHNN để đảm bảo tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Công cụ thứ tư: Lãi suất cơ bản
Lãi suất cơ bản là một công cụ để thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN trong ngắn hạn. Theo Luật Ngân hàng Nhà
nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho VND, do Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn
định lãi suất kinh doanh. Lãi suất cơ bản được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất
nghiệp vụ thị trường mở của Ngân hàng Nhà nước, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến
động cung cầu vốn. Theo Luật Dân sự, các tổ chức tín dụng không được cho vay với lãi suất cao gấp rưỡi lãi suất cơ
bản. Như vậy lãi suất cơ bản là công cụ rất mạnh tác động trực tiếp đến lãi suất huy động và cho vay của các NHTM.
- Năm 2009, một năm mà chính sách tiền tệ đã phải đối mặt với nhiều thách thức khó lường phát sinh từ những bất
cập của nền kinh tế và tác động bất lợi của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế.
- Lạm phát cao năm 2008, cùng với sự đảo chiều của vốn đầu tư nước ngoài và thâm hụt mạnh cán cân thương mại

- NHNN công bố tăng lãi suất cơ bản thêm 1%, từ 7% lên 8%.

- Điều chỉnh tỷ giá và biên độ tỷ giá.

- Dừng hỗ trợ lãi suất ngắn hạn vào 31/12/2009.
III/Một số lưu ý khi sử dụng chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ cũng có những tác động trái chiếu của nó và để giảm bớt nhữg tác động ấy ta cần lưu ý một số diểm
sau:

Thận trọng khi đồng thời sử dung nhiều công cụ điều hành chính sách tiền tệ: Việc sử dụng đồng thời nhiều công cụ
điều hành chính sách tiền tệ là việc làm bình thường, trên lý thuyết và cả thực tiễn, cũng không có nguyên tắc nào quy
định về vấn đề này. Tuy nhiên, thị trường là nơi rất nhạy cảm và nó chính là nơi phản ánh sức sống của nền kinh tế.Vì
thế, cần phải hết sức thận trọng đối với mỗi quyết định liên quan đến sự vận động của tiền tệ, trước khi vận hành phải
quan sát kỹ diễn biến, dự kiến được những phản ứng có thể của thị trường để cân nhắc về loại công cụ sử dụng, về
mức độ cần thiết, về liều lượng cũng như cách thức vận hành mỗi công cụ và luôn tránh những giải pháp có thể dồn
các ngân hàng vào những tình huống nguy hiểm.

Lãi suất là công cụ linh hoạt, đáng được cân nhắc để sử dụng nhất. Mặc dù mỗi công cụ có những đặc tính, khả năng
tác động đến thị trường theo những cách khác nhau, với mức độ cũng không giống nhau, song cho dù công cụ nào thì
tín hiệu cuối cùng của nó sau khi phát ra cũng dẫn đến sự thay đổi về giá - lãi suất, dù đó là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
hay mua tín phiếu bắt buộc… Vì vậy, hãy sử dụng hữu hiệu công cụ lãi suất để điều tiết.
Thay đổi quan điểm về chi phí phải trả cho việc điều hành chính sách tiền tệ. Để đạt được mục tiêu đặt ra kể cả mục
tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ đều có những cái giá phải trả - đó là những chi phí, những tốn kém cần
thiết. Không thể đơn giản cho rằng dự trữ bắt buộc thì không phải trả lãi suất hay mua bán giấy tờ có giá trên thị
trường mở thì nhất thiết phải có chênh lệch (lợi nhuận) Việc điều chỉnh tăng lãi suất trả cho dự trữ bắt buộc thời gian
gần đây cũng là sự thay đổi đáng kể về quan điểm. Còn đối với công cụ thị trường mở, khi thực hiện việc mua bán
giấy tờ có giá trên thị trường này cũng chính là lúc NHNN thực hiện việc sử dụng công cụ thị trường mở để đạt mục
tiêu của chính sách tiền tệ chứ không phải để kinh doanh, vì thế, trong nhiều tình thế bắt buộc, NHNN phải sử dụng cơ
chế giá để điều tiết bằng cách đặt giá cao lên để mua cho được - nếu muốn phát hành tiền vào lưu thông và ngược lại,
định giá thấp xuống để bán cho được - nếu muốn hút tiền từ lưu thông về. Như vậy, mặc dù là người định giá nhưng


Ở Việt Nam, lãi suất cơ bản là “lãi suất do Ngân hàng Nhà nước công bố làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định
lãi suất kinh doanh”. Nói nôm na, đây là lãi suất tốt nhất do ngân hàng tốt nhất cho khách hàng vay. Bỗng nhiên, sau
lần tranh cãi xem có nên sửa đổi Bộ Luật dân sự (“Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá
150% của lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương ứng”), lãi suất này tự dưng trở
thành mốc để suy ra lãi suất trần. Ví dụ, lãi suất cơ bản vừa được cắt giảm còn 12%, người ta suy ra lãi suất cho vay
tối đa sẽ ở mức 18%! Tức là một điều luật nhằm ngăn chặn hiện tượng cho vay nặng lãi ngoài xã hội bỗng trở thành
yếu tố điều tiết lãi suất của hệ thống ngân hàng chính thống
Vì vậy trong bối cảnh hiện tại nhiều chuyên gia kinh tế tham kiến về chính sách điều hành LSCB của NHNN. Có ý
kiến cho rằng nên bỏ quy định về LS cho vay tối đa để thị trường tự điều tiết. Nhưng có ý kiến lại cho rằng vẫn giữ
nguyên mức LSCB như hiện nay để tạo sự ổn định cho thị trường. Bởi trên thực tế LS không phải là nguyên nhân
chính khiến doanh nghiệp không phát triển được sản xuất, kinh doanh.

Vì rằng hiện nay khi Chính phủ đang đồng loạt triển khai các nhóm kích cầu trong sản xuất, kinh doanh theo quyết
định 131 của Chính phủ và cơ chế bảo lãnh tín dụng đã tạo ra một thị trường vốn dồi dào cho doanh nghiệp. Nhưng
vấn đề cốt lõi là tự thân doanh nghiệp có mặn mà với đồng vốn đó hay không còn tùy thuộc vào việc tìm kiếm đầu ra
cho sản phẩm của mình. Vì vậy, việc điều tiết LSCB chỉ góp phần bình ổn thị trường tài chính, còn việc hỗ trợ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp chỉ là thứ yếu.

Tóm lại, LS là một vấn đề nhạy cảm chịu tác động của rất nhiều yếu tố. Nó không chỉ tác động trực tiếp lợi nhuận của
ngân hàng mà còn là công cụ quan trọng để điều tiết kinh tế vĩ mô. Mặt khác LS còn tác động trực tiếp đến lợi ích của
các tổ chức kinh tế, các tầng lớp dân cư và người lao động. Vì vậy để LSCB khẳng định được vai trò điều tiết thị
trường, ổn định kinh tế vĩ mô thì NHNN phải trực tiếp điều hành LS một cách linh hoạt, kịp thời, duy trì mặt bằng LS
ổn định trên cơ sở dung hòa được lợi ích của các bên.
Lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương là một công cụ quan trọng, nếu không nói là chủ yếu, của chính sách tiền tệ
quốc gia, nhắm đến những mục tiêu kinh tế vĩ mô như thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá cả, duy trì một tình
trạng thăng bằng toàn dụng.
Ngân hàng Anh Quốc, một trong những ngân hàng trung ương lâu đời nhất của thế giới, vừa công bố vào cuối tháng
11/2009 việc giảm thêm 50 điểm trong lãi suất cơ bản (base rate), đưa mức lãi suất cơ bản của ngân hàng này xuống
mức thấp nhất (1,5%/năm) trong lịch sử hoạt động 315 năm của nó.

suất cơ bản của ngân hàng trung ương.
Như vậy, việc ấn định lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương về bản chất là một quyết định tài định, phản ánh nhận
định của nó về tình hình kinh tế vĩ mô của quốc gia, không phải là một tính toán dựa trên chi phí và lợi nhuận. Vì là
một công cụ tiền tệ vĩ mô, mức lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương được các ngân hàng thương mại xem như
một tín hiệu rõ ràng nhất của một chính sách tiền tệ mở rộng (nhằm chống suy thoái) hay thắt chặt (nhằm kiểm soát
lạm phát).
Trên cơ sở đó, các ngân hàng thương mại sẽ xây dựng cho mình một hệ thống lãi suất riêng, phù hợp với điều kiện
huy động tiền gửi tiết kiệm và cho vay của mỗi ngân hàng, với những mức lãi suất khác nhau tùy thuộc vào thời hạn,
mức độ rủi ro cao hay thấp của các khoản huy động và cho vay, mức độ tín nhiệm của mỗi ngân hàng đối với khách
hàng của mình. Thị trường huy động tiền gửi và cho vay của các ngân hàng thương mại là một thị trường có cạnh
tranh, nhưng trong khuôn khổ do ngân hàng trung ương điều tiết bằng công cụ lãi suất cơ bản, nhằm đảm bảo rằng sự
cạnh tranh không trở nên quá khốc liệt, đe dọa đến sự an toàn của hệ thống và đồng tiền tiết kiệm của người dân.
Tuy nhiên, các ngân hàng thương mại không chỉ huy động vốn trong dân mà còn có thể vay mượn lẫn nhau trên thị
trường tiền tệ liên ngân hàng, thường là với một thời hạn ngắn (có khi chỉ qua đêm) theo một mức lãi suất liên ngân
hàng (interbank rate) thay đổi liên tục mỗi ngày tùy thuộc vào nguồn cung cầu vốn ngắn hạn trên thị trường. Ngân
hàng trung ương thường xuyên can thiệp trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng nhằm hỗ trợ thanh khoản cho hệ thống
ngân hàng đồng thời duy trì một mức lãi suất liên ngân hàng phù hợp với mục tiêu của chính sách tiền tệ. Mức lãi suất
này thường được các ngân hàng thương mại xem là lãi suất chuẩn (prime rate) để tính lãi suất cho vay bằng cách cộng
thêm vào đó một phụ phí (margin) áp dụng cho riêng mỗi khách hàng theo một cách tính phức tạp dựa trên sự đánh
giá chủ quan của mỗi ngân hàng về các loại rủi ro liên quan đến khách hàng và tính chất khoản vay của họ.
Như vậy, lãi suất cơ bản của ngân hàng trung ương là một công cụ không thể thiếu trong việc thực thi chính sách tiền
tệ nhằm vào các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Điều 9 của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có quy định nội dung này.
Tuy nhiên, một vấn đề đang gây tranh luận là điều 476 Luật Dân sự có quy định một mức trần lãi suất trong mối quan
hệ vay mượn giữa dân cư là không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản, và lãi suất cơ bản ở đây được hiểu là lãi suất
cơ bản của Ngân hàng Nhà nước.
Một vấn đề cho đến nay vẫn khó hiểu là vì sao lãi suất cơ bản, một công cụ điều hành chính sách tiền tệ vĩ mô, lại
được sử dụng để tính toán và điều chỉnh các quan hệ vay mượn dân sự trong điều 476 và vì sao đối tượng điều chỉnh
của điều luật dân sự này lại bao gồm cả các tổ chức tín dụng, đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật về các tổ chức tín
dụng? Giả thiết nền kinh tế đất nước lâm vào suy thoái nghiêm trọng, khi Ngân hàng Nhà nước phải đưa lãi suất cơ
bản xuống 0%, như nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới đã làm, thì làm sao có thể áp dụng mức lãi suất này để


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status