MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẦY MẠNH XUẤT KHẨU CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ - Pdf 12

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cây chè có lịch sử phát triển lâu đời trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Nhiều
năm qua, cây chè luôn được xác định là cây kinh tế mũi nhọn đối với các
huyện trong vùng sản xuất chè nói riêng và tỉnh Phú Thọ nói chung. Chính vì
vậy phát triển cây chè là một trong những chương trình kinh tế trọng điểm của
tỉnh Phú Thọ. Ngành sản xuất và xuất khẩu chè đang ngày càng đóng vai trò
quan trọng và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh, với
80% sản lượng chè của tỉnh được dành cho xuất khẩu. Lợi nhuận từ xuất khẩu
chè đã góp phần không nhỏ trong việc phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Không những thế, xuất khẩu chè và tạo thói quen uống chè cho người nước
ngoài là một trong những biện pháp hữu hiệu trong việc xây dựng và quảng
bá hình ảnh về đất nước và con người Việt Nam nói chung và quê hương Đất
tổ nói riêng.
Tuy nhiên một thực tế cho thấy chè xuất khẩu của tỉnh chưa thực sự có
uy tín, chưa có chất lượng cao so với các nước trong khu vực và thế giới,
thậm chí ngay cả trong nước. Nguyên nhân cơ bản của vấn đề này nằm ngay
trong những khâu đầu của quy trình sản xuất, từ xây dựng vùng nguyên liệu,
chọn giống, công nghệ chế biến,… Hầu hết các doanh nghiệp chế biến và
xuất khẩu chè đều gặp khó khăn về nguồn nguyên liệu đầu vào, giá cả biến
động, sản xuất manh mún, thậm chí phải đối mặt với nguy cơ mất thị trường.
Mặc dù phần lớn sản lượng chè của tỉnh sản xuất ra dành cho xuất khẩu song
chủ yếu dưới dạng nguyên liệu, chưa định vị được thương hiệu, giá thành
thấp, dẫn đến thu nhập của người trồng và sản xuất chè còn chưa cao. Ngành
sản xuất và xuất khẩu chè chưa phát huy được tiềm năng thế mạnh, khẳng
định là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
1
Trong tiến trình hôi nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay,
với tư cách là ngành sản xuất và xuất khẩu mũi nhọn của tỉnh Phú Thọ, ngành
chè cũng không thể đứng ngoài cuộc. Tham gia vào thị trường chè thế giới

Về mặt lý luận: Đề tài làm rõ các vấn đề về xuất khẩu, hoạt động xuất
khẩu sản phẩm. Phân tích một cách tổng quát tình hình hoạt động sản xuất,
chế biến và xuất khẩu chè của Phú Thọ hiện nay và những cam kết và yêu cầu
của các thị trường chính đối với sản phẩm chè trong bối cảnh hội nhập kinh tế
quốc tế hiện nay.
Về mặt thực tiễn: Đề tài đi phân tích, đánh giá thực trạng xuất khẩu sản
phẩm chè của tỉnh Phú Thọ
Về mặt giải pháp: Từ đó đưa ra một số giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu
chè của tỉnh Phú Thọ.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
3
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG
XUẨT KHẨU HÀNG HOÁ
1.1. LÝ THUYẾT CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
1.1.1. Khái niệm về xuất khẩu và xuất khẩu hàng hoá
Xuất khẩu được hiểu là hoạt động bán hàng hoá, dịch vụ sản xuất trong
nước cho người nước ngoài. Nếu hiểu theo nghĩa rộng nhất, xuất khẩu bao
gồm việc bán hàng hoá, dịch vụ cho người nước ngoài (một mặt là thương
mại hàng hoá) và xuất khẩu các yếu tố sản xuất.
Xuất khẩu hàng hoá là hoạt động đưa hàng hoá ra khỏi một nước ( từ
nước này sang nước khác) để bán, trên cơ sở dùng tiền làm phương tiện thanh
toán ( tiền có thể là ngoại tệ đối với một quốc gia hoặc đối với cả hai quốc
gia) hoặc trao đổi láy một hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Theo điều 2, Nghị định số 57/1998 NĐ-CP của Chính phủ nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Hoạt động xuất khẩu hàng hoá là hoạt động
bán hàng hoá của thương nhân Việt Nam với thương nhân nước ngoài theo
các hợp đồng mua bán hàng hoá, bao gồm cả hoạt động tạm nhập tái xuất và
chuyển khẩu hàng hoá.
Theo khoản 1 điều 28 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005: Xuất khẩu
hàng hoá là việc hàng hoá được đưa ra ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa

được thoả thuận. Hình thức này có ưu điểm là mức độ rủi ro thấp, không cần
vốn mua hàng nhưng lợi nhuận bị phân chia, mất sự liên hệ trực tiếp với thị
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
5
trường đồng thời đòi hỏi doanh nghiệp phải có cán bộ kinh doanh có kinh
nghiệm về nghiệp vụ xuất nhập khẩu.
Bốn là, buôn bán đối lưu. Đây là phương thức giao dịch trao đổi hàng
hoá trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời
là người mua, lượng hàng giao dịch đi có giá trị tương ứng với lượng hàng
nhận về. Thực chất của hình thức này là sự mở rộng của phương thức giao
dịch hàng đổi hàng.
Năm là, xuất khẩu theo nghị định thư. Hình thức xuất khẩu này nhằm
mục đích thực hiện những thoả thuận đã được ký kết giữa chính phủ của các
quốc gia với nhau. Hình thức xuất khẩu nầy đảm bảo được khả năng thanh
toán là rất cao nhưng đi kèm với nó là liên quan đến uy tín, lợi ích của quốc
gia trên thị trường quốc tế mà không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp
ứng được.
Sáu là, xuất khẩu tại chỗ. Đây là hình thức mà hàng hoá và dịch vụ có
thể chưa vượt ra khỏi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó cũng
giống như hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho
các đoàn ngoại giao, khách du lịch quốc tế,…Hoạt động xuất khẩu này đang
được phổ biến có nhiều ưu điểm như giảm được chi phí vận chuyển, độ rủi ro
thấp.
Bảy là, gia công xuất khẩu. Đây là một hình thức kinh doanh theo đó
một bên nhập nguyên vật liệu hoặc bán thành phẩm từ bên đặt gia công sau đó
chế biến thành thành phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công.Hình thức này
giúp bên nhận gia công tạo công ăn việc làm cho người lao động, nhận được
các thiết bị công nghệ tiên tiến để phát triển sản xuất. tuy nhiên doanh nghiệp
sẽ bị động, chất lượng sản phẩm không đều.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A

sản xuất, thu mua, vận chuyển, chế biến, kho bãi, cầu cảng… Bên cạnh đó,
chi phí sản xuất chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để nâng cao sức cạnh tranh
cho hàng hóa xuất khẩu, vì nông sản xuất khẩu muốn cạnh tranh với các đối
thủ khác còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chiến lược kinh doanh,
marketing, quản trị xuất khẩu, khả năng dự báo và đối phó với những thay đổi
bất thường của thị trường quốc tế…
Giá cả của bất kỳ loại hàng hóa xuất khẩu nào cũng phục thuộc vào các
yếu tố như: chi phí, nhu cầu, mức độ cạnh tranh, các quy định về luật và thuế
xuất – nhập khẩu, khả năng thống trị thị trường của mặt hàng… Thông
thường, cùng một mặt hàng với cùng chất lượng, kiểu dáng bao bì… người
tiêu dùng sẽ chọn lựa dựa trên tiêu chuẩn về giá. Giá hàng hóa của hãng càng
rẻ càng có lượng tiêu thụ lớn. Tuy nhiên, giá cao cũng có tác dụng kích thích
người mua, vì nó hàm ý giá trị của hàng hóa cao hơn. Giá cả của nông sản đặc
biệt phụ thuộc vào công đoạn chế biến. Càng gia tăng công đoạn chế biến với
kỹ thuật hiện đại, giá trị nông sản càng cao dẫn đến giá bán cũng sẽ gia tăng.
c. Cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu
Chủng loại nông sản trên thế giới rất đa dạng, với nhiều kiểu, tên gọi và
chất lượng khác nhau. Hơn thế, nông sản mà mỗi vùng miền với đặc điểm khí
hậu, đất đai, nguồn nước, chế độ canh tác và giống lâu đời đã tạo nên rất
nhiều loại đặc sản của từng địa phương.
Việc xác định loại nông sản xuất khẩu chính phải dựa trên lợi thế so sánh
của mỗi quốc gia (lợi thế về điều kiện tự nhiên, nguồn lực, về kinh nghiệm…)
cũng như yêu cầu của các thị trường tiềm năng.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
8
d. Thị trường và thương hiệu nông sản xuất khẩu trong điều kiện
hội nhập kinh tế quốc tế
Việc xác định chỉ tiêu cho từng thị trường xuất khẩu nằm trong định
hướng xuất khẩu của các quốc gia dưới áp lực cạnh tranh toàn cầu. Định
hướng thị trường xuất khẩu không những giúp các quốc gia xác định lợi thế

Thuế quan được hiểu là loại thuế đánh vào mỗi đơn vị hàng hoá xuất
khẩu, nhập khẩu hoặc quá cảnh.
Thuế xuất khẩu sẽ tác động đến giá cả của hàng hoá bán ra nước ngoài.
Nếu Nhà nước đánh thuế vào hàng xuất khẩu sẽ làm cho giá cả của mỗi đơn
vị hàng hoá xuất khẩu cao hơn so với khi không có thuế và sẽ làm giảm khả
năng cạnh tranh của hàng hoá trên trường quốc tế. Do vậy, để khuyến khích
hoạt động xuất khẩu, Nhà nước cần có những chính sách linh hoạt, miễn giảm
thuế xuất khẩu cho các loại hàng hoá để mở rộng thị trường, tăng GDP cho
nền kinh tế.
d. Hạn ngạch xuất khẩu
Hạn ngạch là quy định của Nhà nước về số lượng và giá trị của một loại
hàng hoá hoặc một nhóm hàng hoá được phép xuất khẩu. Đây là công cụ quan
trọng thứ hai sau thuế tác động trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu hàng hoá.
Trên thực tế thì để khuyến khích xuất khẩu, cách tốt nhất là Nhà nước không
nên áp dụng hạn ngạch xuất khẩu trừ những trường hợp các mặt hàng có liên
quan đến an ninh quốc gia như lúa gạo hoặc các hàng hoá xuất khẩu sang
những thị trường mà tại đó có quy định hạn ngạch nhập khẩu.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
10
e. Tỷ giá hối đoái
Tỷ giá hối đoái là một công cụ tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu
một cách gián tiếp, Các nước theo đuổi chính sách hướng về xuất khẩu
thường sử dụng chính sách hạ giá đồng nội tệ, Khi ấy hàng hoá xuất khẩu sẽ
rẻ hơn tương đói so với hàng hoá của các quốc gia khác. Điều này khuyến
khích các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hoá nhiều hơn, làm tăng thêm GDP
cho nền kinh tế.
f. Quy định hải quan
Hàng hoá xuất khẩu phải được thông qua nhanh chóng. Nếu hoạt động
hải quan phức tạp gây nhiều phiền hà cho người xuất khẩu thì sẽ làm mất cơ
hội kinh doanh cho các doanh nghiệp. Do đó cần phải hoàn thiện quy trình

ứng dụng thành quả cách mạng khoa học công nghệ vào sản xuất.
• Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu công nghệ, máy móc
và những nguyên vật liệu cần thiết phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá
Xuất khẩu là động lực kích thích các ngành sản xuất phát triển, tăng thu
nhập cho nền kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân.
Mặc dù không phải là nguồn thu ngoại tệ duy nhất nhưng có thể khẳng
định rằng đây là nguồn thu ngoại tệ chủ yếu nhất và bền vững nhất. Nguồn
thu quan trọng nhất để nhập khẩu máy móc, công nghệ để phục vụ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là từ xuất khẩu. Xuất khẩu vừa là tiền đề, là
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
12
động lực của nhập khẩu. Thúc đẩy xuất khẩu để tăng khả năng nhập khẩu mở
rộng sản xuất và tăng trưởng kinh tế. Đây chính là sự kết hợp giữa nội lực và
ngoại lực trong tăng trưởng kinh tế. Ngoại tệ thu được từ xuất khẩu còn là
nguồn tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia để ổn định và điều tiết nền kinh tế.
• Xuất khẩu đóng góp vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất
sản phẩm
Xuất khẩu cho phép mở rộng quy mô sản xuất, tạo ra khả năng mở rộng
thị trường tiêu thụ nhờ vậy mà sản xuất có thể phát triển và ổn định.
Sự phát triển của hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu tạo điều kiện cho
các ngành sản xuất phụ trợ phát triển theo. Nếu quốc gia phát huy được thế
mạnh nhờ hàng xuất khẩu sẽ là động lực để chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
Do phải cạnh tranh với hàng hoá của các quốc gia khác nhau trên thị
trường thế giới nên nhà sản xuất hàng xuất khẩu sẽ phải chú ý nhiều hơn đến
chất lượng, mẫu mã sản phẩm xuất khẩu cho phù hợp với nhu cầu thị trường.
Sự cạnh tranh này đòi hỏi doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất, hoàn thiện
công việc quản trị sản xuất và kinh doanh, hình thành cơ cấu sản xuất luôn
thích ứng được với những thay đổi của thị trường. Do đó xuất khẩu tạo tiền đề
kinh tế, kỹ thuật nhằm cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất.

phong phú hơn. Vì trên thực tế không một quốc gia nào có đủ điều kiện nguồn
lực để tự sản xuất ra tất cả các loại hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu tiêu
dùng trong nước. Nếu có thì chi phí sản xuất rất cao. Nhờ có thương mại quốc
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
14
tế và hoạt động xuất nhập khẩu mà các quốc gia có thể giảm được chi phí sản
xuất đồng thời có được nhiều loại hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước.
- Tiếp nhận xuất khẩu từ quốc gia khác tạo điều kiện cho quốc gia đó tập
trung nguồn lực vào việc sản xuất các hàng hoá thế mạnh. Do chuyên môn
hoá sản xuất mà vai trò của quốc gia sẽ được nâng cao trên trường quốc tế.
1.2. TỔNG QUAN NGÀNH CHÈ VÀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU
CHÈ CỦA TỈNH PHÚ THỌ
1.2.1. Lịch sử hình thành ngành chè của tỉnh Phú Thọ
Nói đến chè Phú Thọ là người ta liên tưởng tới một sản phẩm có truyền
thống lịch sử lâu đời, gắn liền với truyền thuyết Vua Hùng và lịch sử ngành
chè Việt Nam. Phú Thọ được xem như cái nôi của ngành chè Việt Nam. Năm
1885 Pháp đã tiến hành khảo sát về cây chè trên đất Phú Thọ và về sản xuất
chè ở Việt Nam. Đến giai đoạn 1890 - 1891 tại vùng giữa sông Đà và sông
Hồng một đồn điền kinh doanh chè đầu tiên đã được xây dựng tại xã Tình
Cương (Cẩm Khê) với diện tích 60ha. Sau khi nghiên cứu về nông học, để
khai thác hết các tài nguyên thế mạnh của vùng trung du miền núi, năm 1918
toàn quyền Đông Dương đã ký quyết định thành lập Trại nghiên cứu nông
lâm nghiệp Phú Thọ, tiền thân của Viện nghiên cứu chè ngày nay…
Với ưu thế về đất đai, khí hậu tập quán và truyền thống lâu đời của
người dân làm chè Phú Thọ có một lợi thế lớn về sản xuất và chế biến chè, lại
có hệ thống đường xá giao thông cả ba tuyến rất thuận lợi: chính vì những thế
mạnh đó mà ngay từ sau năm 1956 khu công nghiệp chế biến chè đầu tiên của
cả nước do Liên Xô giúp đỡ xây dựng tại Đào Giã (Thanh Ba) và Hương Xạ
(Hạ Hòa) tiếp theo đó đến những năm 1970 các nhà máy Đoan Hùng, Thanh
Sơn....

ngọt, tính mát, có tác dụng an thần, nhuận tràng, bổ thần kinh, tăng cường thể
lực, sức khoẻ đối với người mới ốm dậy, người già, trẻ nhỏ.
Ngoài chè tươi, long chè (cùi chè xấy khô gồm long xoáy,…), mật ong
chè, phấn hoa cũng là những sản phẩm quí, vừa là món ăn bổ dưỡng, vừa là vị
thuốc bồi bổ sức khoẻ; hạt chè được sử dụng trong các bài thuốc đông y.
- Về giá trị văn hoá - xã hội:
Cây chè, không biết tự bao giờ đã gắn bó với người dân Phú Thọ, nhiều
gia đình đã hết đói nghèo, khấm khá lên từ trồng chè và chế biến chè thành
nhiều loại sản phẩm đa dạng, phong phú hơn như Long chè, nước chè đóng
hộp, mật ong chè, phấn hoa chè, chè sen long chè…
Do giá trị của cây chè, thời phong kiến, nhiều gia đình lấy vườn chè làm
của hồi môn cho con cái đi ở riêng. Đặc biệt, thời phong kiến, các quan lại địa
phương đã đem những sản vật quí cống nạp; trong đó có Chè được đem
đi“Tiến Vua”. Hiện nay vẫn còn di tích cây “Chè Tiến”, hay còn gọi là cây
chè Tổ ở trước cửa Đình Hiến, phường Hồng Châu, Thị xã Phú Thọ.
Vì vậy, Chè trở thành biểu tượng văn hoá của mảnh đất Phú Thọ, gắn bó
chặt chẽ với đời sống của người dân Phú Thọ. Nói đến Phú Thọ, người ta nghĩ
ngay đến “Chè bổ ngập dao phay”. Trong dân gian, nhiều thứ được gắn với
Chè như: Con gái xứ Chè, Mắt đen hạt Chè, Mùi thơm hương Chè, Giọng nói
ngọt như vị Chè…
- Về tính kinh tế nhờ quy mô lớn:
Phú Thọ với địa hình chủ yếu là hệ thống đồi bát úp, đất có độ phì nhiêu
cao độ PH rất thích hợp cho cây chè sinh trưởng và phát triển. Đặc biệt người
dân ở Phú Thọ đã có truyền thống trồng chè và chế biến chè từ rất lâu đời, cơ
sở chế biến chè xanh, chè đen (Orthordox, CTC) đã được xây dựng ở đây từ
những năm đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20. Tỉnh Phú Thọ có 13 huyện, thành,
thị thì có tới 10 huyện, thị có diện tích chè. Cũng vì những lý do đó mà nhiều
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
17
công ty nước ngoài vào tìm hiểu và đầu tư để sản xuất chè. Hiện tại có 2 công

18
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu chè của tỉnh Phú Thọ
a. Quan hệ chính trị ngoại giao
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh mẽ tới xuất khẩu chè
của Việt Nam nói chung và chè của Phú Thọ nói riêng. Việc hội nhập quốc tế
thông qua các hiệp định thương mại song phương và đa phương, tham gia vào
các định chế kinh tế khu vực và quốc tế sẽ tạo ra những cơ hội thuận lợi để
đưa sản phẩm chè của chúng ta thâm nhập thị trường quốc tế.
b. Chính sách của Đảng, Nhà nước và của tỉnh Phú Thọ
Cũng như nhiều nước đang phát triển khác, ở Việt Nam đang hình thành
nền kinh tế hướng ra xuất khẩu. Chính phủ Việt nam chủ trương đẩy mạnh
xuất khẩu và hoan nghênh các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt nam để khai
thác những tiềm năng to lớn của Việt Nam như tài nguyên, sức lao động dồi
dào để tổ chức sản xuất hàng xuất khẩu. Các công cụ chính sách thương mại
được điều chỉnh, bổ sung, xây dựng mới cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường và các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Chủ trương đổi mới trong kinh tế của Đảng, cụ thể là các chính sách, cơ
chế và giải pháp của các cấp, các ngành đã tạo môi trường đầu tư, sản xuất
kinh doanh thông thoáng, kích thích các thành phần kinh tế tham gia sản xuất
xuất khẩu( trong những năm qua, giá trị sản xuất các doanh nghiệp nhà nước
đạt trung bình 29,5% kim ngạch, doanh nghiệp ngoài quốc doanh 6,25% kim
ngạch, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 64,22% kim ngạch). Cùng
với chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, tỉnh đã
có nhiều chính sách, cơ chế nhằm phát huy tối đa các tiềm năng lợi thế của
tỉnh trong công tác chỉ đạo đẩy mạnh xuất khẩu. Đó là các chính sách ưu đãi
và kêu gọi đầu tư, chính sách hỗ trợ vốn, mặt bằng, nhân lực,… tạo điều kiện
thuận lợi để các doanh nghiệp tham gia sản xuất xuất khẩu.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
19
c. Thuế quan

nhắc tới, đó là tỷ giá của đồng tiền các nước này so với đô la. Nếu đồng nội tệ
mà giảm so với đồng đô la sẽ thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại, và tính trên
bình diện chung, nước nào giảm giá đồng nội tệ càng nhiều thì càng có ưu thế
hơn trong thúc đẩy xuất khẩu. Tất nhiên, việc điều chỉnh tỷ giá còn phụ thuộc
vào các cán cân vĩ mô khác chứ không thể tùy ý phá giá chỉ để thúc đẩy xuất
khẩu được.
Số liệu cho thấy các nước xuất khẩu nông sản lớn trên thị trường thế giới
cạnh tranh trực tiếp với Việt Nam ở các mặt hàng nông sản mũi nhọn như
gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, điều như Thái Lan, Malaysia, Ấn Độ, Brazil,
Colombia…đều đã giảm giá mạnh đồng tiền so với đồng đô la từ mức 13-
33%, trong khi đó con số này với Việt Nam chỉ ở mức 5%. Như vậy, sự giảm
giá đồng tiền đã vô hình trung làm cho các nước này hạn chế thiệt hại gây ra
bởi suy giảm giá của thị trường thế giới khiến hàng xuất khẩu nông sản của
Việt Nam ở vào thế khó cạnh tranh hơn.
e. Hỗ trợ xúc tiến thương mại
Hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về thương mại, đặc biệt là cấp
tỉnh, công tác nghiên cứu qui hoạch phát triển, xử lý và cung cấp thông tin,
triển khai các hoạt động xúc tiến thương mại là hết sức quan trọng. Vai trò
của việc thiết lập và kết nối các kênh thông tin về thị trường quốc tế và thị
trường nội địa của các cơ quan quản lý nhà nước, các Hiệp hội chè Việt Nam,
các tổng công ty chè Việt Nam nhằm tạo lập mạng thông tin rộng nhưng có sự
tập trung đủ mạnh, hình thành nên trung tâm có khả năng phân tích, xử lý và
cung cấp thông tin thị trường đến các doanh nghiệp và người sản xuất kinh
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
21
doanh một cách nhanh chóng, hiệu quả. Đặc biệt thông tin phản ánh diễn biến
thị trường - giá cả từ các địa phương, các hiệp hội, doanh nghiệp và các bộ,
ngành có ảnh hưởng lớn tới giá trị sản xuất và xuất khẩu.
1.2.4. Các yếu tố tự nhiên ảnh hưởng đến diện tích, năng suất, sản
lượng chè

Chè thuộc nhóm cây sinh trưởng mạnh, sinh khối lớn nên cần một lượng
nước khá lớn, đặc biệt là vào thời kỳ sinh trưởng mạnh và phát triển búp.
Lượng nước mưa hàng năm cần thiết 1.300 - 1.600 mm/năm (PT:1700mm).
Chè là cây ưa nước, đồng thời là cây chịu hạn nhờ có rễ nấm nên có thể trồng
ở vùng gò đồi.
Với lượng mưa như đã đề cập ở trên, cây chè Phú Thọ sẽ được cung cấp
một lượng nước dồi dào để có thể phát triển đạt năng suất cao.
c. Ánh sáng
Cũng như nhiều loại cây trồng khác, để sinh trưởng phát triển tốt, chè
cần đầy đủ ánh sáng và độ thoáng để đảm bảo quá trình quang hợp, hình
thành các hợp chất hữu cơ nuôi thân, cành, lá, chồi và hoa quả; chè không
chịu được nơi quá khô và ánh sáng gay gắt. Cây chè cũng thích hợp nhất với
ánh sáng ôn hoà, lúc đó cây cho hiệu suất quang hợp lá cao nhất. Điều kiện
ánh sáng tại các đồi chè ở Phú Thọ cũng rất phù hợp cho sự phát triển của loại
cây này.
d. Thiên tai
Đây cũng là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới chè, nhất là vào thời gian
chè chổ búp đến khi thu hoạch. Phú Thọ thường chịu ảnh hưởng bởi mưa đá
và lũ ống, lũ quét, làm cản trở quá trình sinh trưởng và gây thiệt hại đến năng
suất và chất lượng của chè, đặc biệt có thể dẫn đến mất mùa chè do thiên tai.
e. Đất đai, thổ nhưỡng
Theo các kết quả khảo sát nghiên cứu, phân tích của các nhà khoa học,
nhằm giải thích về nguyên nhân cũng như các nhân tố tạo nên sự “đặc sắc về
chất lượng” và sự quyến rũ của “hương vị chè đất Tổ Vua Hùng”, thì với đặc
thù là tỉnh miền núi nên đất tỉnh Phú Thọ chủ yếu thuộc nhóm feralit phát
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
23
triển trên đá trầm tích, một phần trên đá macma và phù sa cổ, tầng đất dày
trên 70cm do đó rất phù hợp với việc trồng và phát triển cây chè. Với điều
kiện thổ nhưỡng như vậy đã hình thành các yếu tố vi lượng, đa lượng quan

cân đối giữa quá trình sinh trưởng sinh dưỡng và sinh trưởng sinh thực để điều
khiển việc ra búp, tạo được nguyên liệu tốt cho chế biến chè.
- Về giống và chè vụ
+ Giống: Tập đoàn giống có năng suất chất lượng cao như LDP1, LDP2,
chè shan do viên nghiên cứu chè Phú Hộ cung cấp đã từng bước cải tạo và
thay thế giống chè trung du năng suất chất lượng thấp. Trên cơ sở tập đoàn
giống mới, chọn giống thích hợp phục vụ chế biến chè đen, chè xanh xuất
khẩu.
+ Chè vụ: Vụ đông xuân trồng từ tháng 12 đến tháng 2 năm sau. Vụ thu
từ tháng 8-9 khi cây cao 1m thì cắt tỉa phủ vào tục cây sẽ phát triển nhanh
1.2.5. Các đối thủ cạnh tranh của chè Phú Thọ
Một số tỉnh như Thái Nguyên, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Sơn
La,…phát triển mạnh việc trồng và tiêu thụ chè, trở thành các đối thủ trực
tiếp, chia sẻ thị trường và cạnh tranh với chè Phú Thọ. Tuy nhiên, chè Phú
Thọ vẫn chiếm thị phần lớn nhất, giá bán tương đương một số loại chè trong
cả nước, chỉ thấp hơn so với chè Thái Nguyên; thực tế vẫn đóng vai trò dẫn
đầu thị trường chè trong nước.
Sản phẩm chè của tỉnh Phú Thọ đã khá nổi tiếng, được người tiêu dùng
biết đến từ lâu và vùng nguyên liệu dồi dào có chất lượng cao trong khi sản
phẩm chè của các đối thủ cạnh tranh (Tuyên Quang, Yên Bái, Hà Giang…)
chưa nổi tiếng và ít được biết đến.
PHAN DIỆU LINH Kế hoạch 47A
25

Trích đoạn Nhóm giải pháp về đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng khoa học Nhóm giải pháp về tăng cường công tác hợp tác quốc tế, xúc tiến
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status