LUẬN VĂN: Phép biện chứng triết học Mac-lênin vào quá trình xây dựng nền kinh tế tri thức giữa thời cơ và thách thức của nước ta hiện nay - Pdf 12


LUẬN VĂN:

Phép biện chứng triết học Mac-lênin vào quá
trình xây dựng nền kinh tế tri thức giữa thời
cơ và thách thức của nước ta hiện nay phần i : lời nói đầu

Thế giới đã bước sang năm 2002 , loài người đang đi những bước đi vững
chắc của mình trong công cuộc làm chủ thế giới .Những cuộc cách mạng khoa học
kĩ thuật , những phát minh , những thành tựu trong mọi lĩnh vực không ngừng gia
tăng và ngày càng được áp dụng nhiều trong thục tiễn. Đất cước chúng ta cùng tồn
tại trong một thế giới không ngừng biến đổi vận động ấy.Chúng ta đang sống
trong thời đại mà sự biến đổi diễn ra sâu sắc mạnh mẽ chưa từng có trong lịch sử

Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của giới tự nhiên, xã hội, tư duy
đều nằm trong mối liên hệ biện chứng với nhau, tác động qua lại lẫn nhau ràng
buộc nương tựa, qui định lẫn nhau làm tiền đề điều kiện cho sự tồn tại và phát
triển của nhau. Mối liên hệ này chẳng những diễn ra ở mọi sự vật hiện tượng trong
tự nhiên, trong xã hội, trong tư duy mà còn diễn ra giữa các yếu tố, các mặt khác
của qú trình của mỗi sự vật hiện tượng. Mối liên hệ trước đây là khách quan, nó
bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất của thế giới biểu hiện trong quá trình tự
nhiên, xã hội và tư duy.
Mối quan hệ của sự vật hiện tượng trong thế giới là đa dạng và nhiều vẻ: có
mối liên hệ bên trong và bên ngoài, trực tiếp và gián tiếp, cơ bản và không cơ bản,
chủ yếu và thứ yếu.
a) Nguyên lý về sự phát triển của phép biện chứng.
Nội dung nguyên lý: Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều không ngừng
biến đổi và chuyển hoá lẫn nhau, cái mới kế tiếp cái cũ, giai đoạn sau kế thừa giai
đoạn trước tạo thành quá trình tiến lên mãi mãi. Phát triển là khuynh hướng thống
trị thế giới. Nguồn gốc nguyên nhân của sự phát triển là sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Cách thức hình thái của sự phát triển là sự thay đổi về lượng
dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Khuynh hướng của sự phát triển là đi từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự phát
triển chỉ hoàn thiện khi ta so sánh các hình thức tồn tại của sự vật ở các thời điểm
khacs nhau trên trục thời gian quá khứ-hiện tại-tương lai.
b) Cơ sở khách quan của quan điển lịch sử cụ thể.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình
thành quan điểm lịch sử cụ thể như mọi sự vật hiện tượng của thế giới vật chất đều
tồn tại vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể
xác định. Điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất,
đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện

Nền kinh tế tri thức đã và đang hoàn thành ở nhiều nước phát triển hiện nay
sẽ trở thành một xu thế quốc tế trong một hoặc hai thập kỷ tới. Xu thế này là thời
cơ và thách thức đối với chúng ta chớp lấy thời cơ và chấp nhận thách thức để phát
triển là quyết tâm của Đảng nhà nước và nhân dân ta. Đó là những vấn đề có lẽ
chúng ta đều chấp nhận. Trên thực tế kinh tế dựa trên tri thức để tự lãnh đạo mình
ở trên những khía cạnh rất cơ bản. Về mặt biểu hiện, đã xuất hiện các yếu tố kinh
tế mới như ngành kinh tế dựa trên tri thức, doanh nghiệp tri thức, công nhân tri
thức Về mặt lợi ích, hoạt động dựa trên kinh tế tri thức mang lại khoản lợi nhuận
to lớn
Trước tiên, chúng ta cần tìm hiểu về nền kinh tế tri thức. Kinh tế tri thức là
nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết
định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống. Trong nền kinh tế tri thức vẫn còn nông nghiệp và công nghiệp nhưng hai
nghành này chiếm tỷ lệ thấp. Cũng như trong nền kinh tế công nghiệp vẫn còn
nông nghiệp nhưng nông nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ. Trong nền kinh tế tri
thức chiếm đa số là các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới
nhất của khoa học và công nghệ. Đó là những ngành mới như công nghệ thông tin
( công nghiệp phần cứng, công nghiệp phần mềm), các ngành công nghiệp, các
dịch vụ mới dựa vào công nghệ cao. Ví dụ: sản xuất ôtô là một ngành công nghiệp
truyền thống, nhưng nếu sản xuất ra những loại ôtô có độ an toàn cao, những ôtô
thông minh không cần người lái thì ngành sản xuất ôtô có thể coi là ngành kinh tế
tri thức. Như vậy các nhà máy may tự động hoá toàn bộ,những trang trại sản xuất
nông nghiệp dựa vào công nghệ sinh học, tự động điều khiển là những ngành
kinh tế tri thức.
Kinh tế tri thức xuất hiện trong mọi lĩnh vực, trong toàn bộ cơ cấu nền kinh
tế quốc dân, trong các nước thuộc Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD)
kinh tế tri thức đã chiếm hơn 50% GDP, công nhân tri thức chiếm trên 60% lực

yếu vào máy móc, tài nguyên thiên nhiên sang nền sản xuất tri thức dựa chủ yếu
vào trí lực và thông tin.
Như vậy có thể nói hiện nay thế giới đang bắt đầu quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế tri thức. Các chuyên gia Liên hợp quốc cho rằng công nghệ cao sẽ tác
động mạnh mẽ, sâu rộng đến toàn bộ nền kinh tế của các nước phát triển. Còn
khoảng cách của các nước đang phát triển đến nền kinh tế tri thức thì còn rất xa, vì
khó mà khắc phục được khoảng cách về tri thức đang rất lớn và ngày càng giãn ra
so với các nước phát triển: nếu không thực hiện một chiến lược phát triển nguồn
nhân lực có thể làm chủ được tri thức mới cuả thời đại thì đến nửa sau của thế kỷ
XXI cũng khó mà xây dựng được nền kinh tế tri thức.
Công nghệ thông tin và tri thức, một mặt đã làm cho sự chênh lệch giàu
nghèo gia tăng, nhưng mặt khác công nghệ thông tin và tri thức lại tạo cơ hội
thuận lợi nhât giúp cho sự rút ngắn khoảng cách đó, vị thông tin và tri thức dễ
dàng chia sẻ cho mọi quốc gia, cho mọi người. Trong thời đại ngày nay nếu các
nước nắm bắt kịp thông tin, làm chủ được tri thức thì sẽ theo kịp các nước đi
trước.
Đại hội Đảng IX đã khẳng định nhiệm vụ của nước ta hiện nay là đưa nước ta
cơ bản thành nước công nghiệp và bước sang nền kinh tế tri thức. Đây là một
nhiệm vụ hết sức nặng nề, khó khăn bởi nước ta vẫn đang ở trong tình trạng nghèo
nàn, lạc hậu và kém phát triển, trình độ phát triển chung vẫn còn rất thấp kém.
Hiện nay GDP bình quân đầu người của nước ta bằng khoảng 1/12 mức bình quân
của thế giới, thuộc nhóm các nước nghèo nhất thế giới. Trong khi tốc độ tăng GDP
và GDP tính theo đầu người năm 1997 so vơi năm 1991 của Singapore là 2,58 lần
và 2,48 lần, Trung Quốc là 2,48 lần và 2,32 lần. Malaysia là 2,14 lần và 1,81 lần
thì Việt Nam chỉ là 1,60 lần và 1,44 lần.
So với nền kinh tế tri thức trên thế giới thì nền kinh tế tri thức ở Việt Nam rất
thấp. Trong điều kiện đó việc tìm ra những phương pháp, những con đường hợp

nghiệp hoá của các nước khác. Cũng không nên hiểu công nghiệp hoá là xây dựng
công nghiệp mà phải hiểu đó là sự chuyển nền kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng
suất chất lượng thấp kém, dựa vào phương pháp sản xuất nông nghiệp, lao động
thủ công là chính sang nền kinh tế có năng suất chất lượng hiệu quả cao, theo
phương pháp sản xuất công nghiệp dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới
nhất, vì vậy công nghiệp hoá phải đi đôi với hiện đại hoá.
Trong những thập niên tới con người đi nhanh vào nền kinh tế tri thức, nước
ta không thể bỏ lỡ cơ hội lớn đo mà phải đi thẳng vào nền kinh tế tri thức, rút ngắn
khoảng cách với các nước, như vậy nền công nghiệp nước ta phải đồng thời thực
hiện hai nhiệm vụ: Chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp
và từ công nghiệp sang tri thức. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải nắm bắt kịp thời
các tri thức và công nghệ mứoi nhất để hiện đại hóa công nghiệp, đồng thời với
phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào tri thức và công nghệ mới
nhất.
Về công nghệ thông tin thì ở Việt Nam, công nghệ thông tin cũng là một
trong các động lực chủ yếu, quan trọng nhất thúc đẩy nền kinh tế tri thức và xã hội
thông tin, con người Việt Nam có nhiều khả năng trong các ngành này. Công nghệ
thông tin phát triển không những góp phần giải phóng năng lực vật chất, trí tuệ của
cả dân tộc mà còn co trình độ trực tiếp đến việc nâng cao tính cạnh tranh của mỗi
doanh nghiệp.
Đầu tư nước ngoài là một trong những con đường dẫn tới hoàn cầu hoá. Toàn
cầu hoá lại tạo ra các cơ hội giúp cho các nước tận dụng được vốn đầu tư nước
ngoài để giải quyết tình trạng thiếu vốn từ nội bộ nền kinh tế. ở Việt Nam trong 13
năm qua kể từ khi có luật đầu tư nước ngoài đã có gần 3000 dự án được đăng kí
voứi số vốn 40 tỷ USD và lượng vốn đã được giải ngân vào khoảng 20 tỷ USD.
Mặc dù còn ít về số lượng, nhỏ bé về qui mô, nhưng chúng ta cũng có được
khoảng vài chục dự án và khoảng nửa tỷ USD được đầu tư ra nước ngoài. Điều

ứng với cơ chế thị trường và hội nhập ngày nay.

Phần III: những giải pháp chủ yếu cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri
thức.
Để đất nước ta có cơ hội hội nhập với nền kinh tế tri thức của nhân loại
chúng ta có những biện pháp sau:
1) Phải đổi mới và hoàn thiện cơ chế quản lí nhằm tạo môi trường xã hội thông
thoáng, phát huy mọi khả năng sáng tạo của người dân có thể làm việc một
cách độc lập, nhưng có sức sáng tạo và hiệu quả kinh tế xã hội cao, góp phận
vào phát triển sản xuất.
2) Chăm lo phát triển nguồn nhân lực, nâng cao dân trí, đào tạo nhân tài. Trong
những năm tới phải tăng mạnh đầu tư để phát triển cả giáo dục và phải tiến
hành một cuộc cải cách giáo dục mới.
3) Để phát triển mạnh nền công nghệ thông tin động lực chủ yếu đưa nước ta lên
xã hội thông tin và nền kinh tế tri thức chúng ta phải:
- Đẩy mạnh đào tạo cán bộ công nghệ thông tin bằng nhiều hình thức đa
dạng, tăng cường dạy tin học trong các trường học sử dụng được công nghệ
thông tin.
- Phát triển nhanh ngành viễn thông với tốc độ lớn, thuận lợi, giá rẻ.
- Có những chính sách đặc biệt ưu đãi về thuế, về vay tín dụng, giá đấy sử
dụng cơ sở hạ tầng cho những người làm công nghệ thông tin.
Trên đây là một vài giải pháp đề xuất trong tiếp cận, xây dựng và phát triển
nền kinh tế tri thức. Có thể khẳng định trong tương lai gần kinh tế tri thức là đặc
trưng của toàn nhân loại. Vì vậy để có thể tiến nhanh đến nền kinh tế tri thức
không có cách nào khác hơn là đầu tư cho sự phát triển con người nhất là cho các
trường đại học mà cụ thể là sinh viên.


II) cơ hội đối với việt nam
III) thách thức đối với viêt nam

chương iii—những giải pháp chủ yếu cho một chiến lược kinh tế dựa vào tri thức

phần iii : kết luận


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status