Đổi mới & hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về sản xuất ở Việt Nam hiện nay - phương hướng & giải quyết - Pdf 12

Lời nói đầu
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, t tởng, vừa là hoạt động
sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con ngời, là phơng tiện
quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc ở mọi
thời đại. Mặt khác, từ khi xà hội loài ngời phân chia thành giai cấp thì xuất bản
không chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật chất của con ngời mà
còn mang tính giai cấp ngµy cµng râ rƯt, lµ ngn lùc vµ vị khÝ sắc bén của đấu
tranh giai cấp.
Từ khi nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nớc ta luôn
thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ của nhân
dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nớc Việt Nam và một
loạt các điều luật, hệ thống văn bản dới luật lần lợt ra đời nhằm xây dựng một
hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trờng thuận lợi cho hoạt động xuất bản
phát triển đúng hớng, trên nền táng luật pháp. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền
kinh tế chuyển sang cơ chế thị trờng, hệ thống pháp luật nhiều năm tồn tại đÃ
dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, cha đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn đà chứng minh việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động
xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hoá - t tởng, đồng
thời cũng chính là điều chỉnh hoạt động văn hoá - t tởng trong cơ chế thị trờng.
Đó là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng với nhau và cần đợc thể
chế hoá phù hợp nhằm đảm bảo cho xuất bản hoạt động theo đúng trật tự mà
pháp luật quy định. Bài viết sau đây có thể phần nào khái quát về pháp luật xuất
bản ở Việt Nam, một lĩnh vực hoạt động đa dạng và hết sức phong phú.
Lần đầu viết một đề tài mang tính chất lý luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, em mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của thầy
cô giáo để tiểu luận đợc hoàn thiện hơn.
Hà nội, tháng 12 năm 2000

1


của ngành xuất bản không chỉ có sách, mà còn bao gồm các loại hình khác đó là tranh,
ảnh, bản đồ, địa đồ, khẩu hiệu, bu ảnh v.v... Nghề làm sách từ chỗ đơn giản, thủ công qua
nhiều bớc phát triển, đà đạt tới trình độ tự động hoá. Lao động biên tập ở nhà xuất bản đÃ

2


øng dơng tiÕn bé cđa c«ng nghƯ tin häc, trong hoạt động sáng tạo và xử lý bản thảo, hoàn
chỉnh bản mẫu để in hàng loạt. Hoạt động phổ biến, sau này gọi là phát hành sách với các
cửa hàng tự chọn đợc quản lý bằng camera, và máy vi tính, với các loại xe chuyên dụng
bán sách lu động, bán sách đặt trớc qua bu điện, bán sách khuyến mại.
Ngày nay xuất bản đà trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển. Bất cứ quốc gia
nào cũng tận dụng khả năng của nó để nâng cao dân trí, phục vụ kế hoạch phát triển kinh
tế quốc dân, giao lu văn hoá với các nớc trên thế giới. Nhiều nớc phát triển có những tập
đoàn xuất bản - báo chí mạnh, đạt hiệu quả kinh tế cao. ở Nhật có tới 5000 nhà xuất bản,
chiếm 1/200 tổng số giá trị sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Mỹ, ngành
xuất bản đứng vị trí thứ 3 về tỷ lệ tăng trởng giá trị sản phẩm.
ở Việt Nam xuất bản sách xuất hiện từ thời Cổ trung đại. Cơ sở đầu tiên của nghề
xuất bản là sự ra đời của ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Hán là thứ văn tự đầu tiên du nhập vào
Việt Nam từ thời Triệu Đà (207-137 TCN). Chữ Nôm xuất hiện sau chữ Hán. Tới thế kỷ
XVIII, XIX chữ Nôm phát triển cực thịnh, ở mức độ nào đó đà lấn át chữ Hán với Truyện
Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hịch Tây Sơn...
Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, víi sù xt hiƯn cđa s¸ch b¸o Macxit, sù
nghiƯp xt b¶n ViƯt Nam chun sang thêi kú míi. Xt b¶n đợc phân chia thành nhiều
khuynh hớng với những mục đích, quy mô và phơng thức hoạt động khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất bản đà phát triển và đạt trình độ mới. Các nhà xuất bản
chuyên lo việc tổ chức, hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu đa in. Các nhà in lo việc tiếp nhận
công nghệ mới, để thoả mÃn nhu cầu về số lợng và chất lợng việc in nhân bản các ý tởng
của tác giả, của nhà xuất bản thành xuất bản phẩm. Phát hành là ngời chuyển tải các ý tởng chứa đựng trong những xuất bản phẩm đến tay ngời sử dụng, thông qua hoạt động thơng nghiệp.
Vậy xuất bản là gì ?

động tinh thần của con ngời tạo ra. Mục đích chủ yếu, lý do tồn tại của nó là văn hoá, t tởng. ở Việt Nam, các nhà xuất bản là phơng tiện, cong cụ của cơ quan Nhà nớc, tổ chức
chính trị - xà hội thuộc hệ thống chính trị. Vì vậy, hoạt động xuất bản là hoạt động văn
hoá, t tởng thuộc kiến trúc thợng tầng.
Về phơng diện sản xuất vật chất, các giá trị tinh thần, do lao động tinh thần của
con ngời mang lại chỉ trở thành sách và các xuất bản phẩm khác thông qua hoạt động sản
xuất. Từ việc thừa nhận sách là sản phẩm tinh thần, trí tuệ, mọi ngời phải thừa nhận sách
là sản phẩm vật chất, bởi nó là kết quả do lao động vật chất tạo ra. CÊu tróc cđa nã do
chÝnh c¸c u tè vËt chất tạo thành. Đó là các loại vật liệu chuyên dùng nh: giấy, mực in,
chỉ, thép, hồ dán, vải, ximili, caton, v.v... Thông qua quá trình sản xuất vật chất của nghề
in, những vật liệu rời rạc đó cấu thành sản phẩm sách - cái vỏ vật chất chuyển tải nội
dung tinh thần, trí tuệ của con ngời. Khi đà trở thành sản phẩm hoàn chỉnh và vào lu
thông, xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đủ các thuộc tính của hàng hoá; chịu
sự tác động của quy luật giá trị, giá cả, cung cầu, v.v... Những ngời mua ở đây là mua cái
giá trị chứa đựng trong cái vỏ vật chất. Là ngời bán, nhà xuất bản cũng bán cái giá trị
tinh thần bên trong, nhng không chỉ thế mà còn quan tâm đến các vật liệu đà đầu t. Vì vậy,
sách là một loại hàng hoá đặc biệt xét về giá trị. Mặt khác, không phải ai cũng đọc sách
và đọc bất kỳ sách nào, vì sách bao giờ cũng có đối tợng riêng. Ngời tiêu dïng s¸ch, thëng

4


thức sách khác ngời tiêu dùng các sản phẩm vật chất khác ở yêu cầu có văn hoá. Tuỳ theo
văn hoá cao, thấp, chuyên môn sâu, rộng của mình mà ngời tiêu dùng lựa chọn sách phù
hợp.
Tóm lại hoạt động xuất bản là hoạt động văn hóa tinh thần có ảnh hởng nhiều đến
việc giáo dục t tởng, tình cảm, dân trí, vì vậy nó thuộc thợng tầng kiến trúc, chịu sự chi
phối của các quy luật phát triển văn hoá. Mặt khách hoạt động xuất bản là hoạt động sản
xuất vật chất khác có vai trò quan trọng trong việc tạo thành, chuyển tải, nhân bản các giá
trị tinh thần, trí tuệ, ý đồ của tác giả, nhà xuất bản thành xuất bản phẩm, vì vậy nó đồng
thời chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế, nó thuộc hạ tầng cơ sở.

hoạt động văn hoá đợc hình thành nhằm sản xuất, bảo toàn và lu truyền các giá trị tinh
thần.
Vai trò thứ ba: xuất bản - công cụ quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào
tạo nguồn nhân lực, bồi dỡng nhân tài.
XÃ hội đợc thay thế và chuyển tiếp từ thế hệ này sang thế hệ khác. Thực chất của
sự chuyển giao đó là sự thay thế lao động. Vì lao động là động lực phát triển xà hội loài
ngời. Con ngời không chỉ nhận thức thế giới mà còn phải cải tạo thế giới, khó hơn hết
không phải ở khám phá, nhận thức thế giới mà chính là việc cải tạo thế giới vì mục đích
của con ngời. Muốn thế con ngời phải đợc đào tạo liên tục. Đặc biệt trong thời đại ngày
nay, công nghệ mới luôn luôn đợc chuyển giao, thay thế bởi tiến bộ không ngừng của
khoa học. Việc hng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc rất nhiều vào nhân lực đợc đào tạo,
vào trình độ dân trí và nhân tài.
Các quốc gia trên thế giới, đều coi trọng giáo dục và thết kế sách phù hợp nhằm
nâng cao dân trí,đào tạo ngời lao động. Con ngời sau khi sinh ra một số năm đều phải tới
trờng để tiếp thu những tri thức phổ thông, cơ bản. Sách là ngời thầy, ngời bạn đa con ngời
bớc qua các nấc thang kiến thức, đạt tới các trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau.
Trong số đó không ít ngời có học vị, chiếm lĩnh đỉnh cao cđa khoa häc. Nh vËy, ngn
nh©n lùc cđa qc gia luôn đợc bổ sung, thay thế. Thế hệ ngời lao động sau có trình độ
cao hơn thế hệ trớc, bởi tri thức đợc làm giàu do sách mang lại.
Vai trò thứ t: xuất bản- vũ khí đấu tranh giai cấp.
Từ khi xà hội loài ngời phân chia thành giai cấp, xuất bản không chỉ đóng vai trò là
bà đỡ của các sản phẩm văn hoá tinh thần, phản ánh ®êi sèng vËt chÊt, tinh thÇn cđa x·
héi, gãp phÇn đào tạo nguồn lực mà nó đà trở thành vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xà hội có giai cấp.
Xuất bản đà tham gia có hiệu quả vào việc giác ngộ giai cấp vô sản về vai trò lịch
sử của mình, và đà tổ chức quần chúng thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Khi bàn về những uỷ
ban đẳng cấp ở Pơrútxi, C. Mác đà viết: ... xuất bản là chiếc đòn bẩy mạnh mẽ của văn
hoá và của việc giáo dục tinh thần cho nhân dân. Xuất bản biến cuộc đấu tranh vật chất
thành cuộc đấu tranh t tởng, cuộc đấu tranh của những nhu cầu, những nhiệt tình; cuộc
đấu tranh của lý luận, lý trí và hình thái

Nhng hoạt động văn hoá - t tởng không thể xà hội hoá, không thể chuyển tải các ý
tởng của mình tới công chúng khi không có các điều kiện vật chất nhất định, không thông
qua hoạt động sản xuất. Vì vậy, xuất bản còn là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động
kinh tế. Từ sự phân tích trên, chính lao động của biên tập viên đà là lao động vật chất. Họ
đà vật chất hoá các ý tởng của nhà xuất bản của nhà văn, nhà khoa học thành các bản thảo,
với công cụ, đối tợng lao động đặc thù. Nhng nh vậy, lao động đó mới chỉ là lao động
sáng tạo ra bản gốc, bản mẫu. Nó phải qua quá trình vật hoá các giá trị tinh thần thành các
xuất bản phẩm cụ thể. Quá trình này đợc thực hiện với sự hỗ trợ của các phơng tiện và kỹ
thuật của công nghiệp in. Tác phẩm văn học, nghệ thuật, công trình nghiên cứu khoa học,
sau khi đợc nhà xuất bản hoàn chỉnh, đợc đa in thành hàng loạt. Các tiêu hao về lao động
sống lao động quá khứ thể hiện khá rõ ở công đoạn này. Một khi trở thành xuất bản

7


phẩm, nh mọi sản phẩm khác, xuất bản phẩm là một thực thể vật chất. Khi qua lu thông,
tiêu dùng ®Ĩ thùc hiƯn mơc ®Ých ci cïng cđa xt b¶n phẩm, và của sản xuất vật chất,
thì xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá. Chịu
sự tác động của các quy luật giá trị, giá cả, cuing cầu v.v....
Nghiên cứu đặc điểm này để thấy rõ sự tác động qua lại hệ thống quy luật phát
triển vh và quy luật kinh tế trong xuất bản. Từ đó giải quyết mối quan hệ tác động giữa
chúng, tiến tới xử lý thoả đáng mèi quan hƯ vỊ hiƯu qu¶ kinh tÕ - hiƯu quả xà hội - hiệu
quả chính trị của hoạt động xuất bản, và của từng xuất bản phẩm cụ thể. Các chế định của
luật, các quy phạm pháp luật phải thể hiện đợc đặc trng rất riêng biệt này. Có nh vậy, pháp
luật mới có sức sống điều chỉnh, tạo lập môi trờng lành mạnh để hoạt động xuất bản phát
triển, đạt hiệu quả cao.
Đặc điểm thứ hai: xuất bản phẩm là kết quả của quá trình t duy và quy trình
sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghỊ, vµ nã trë thµnh mét ngµnh kinh tÕ kü thuật đạt
lợi nhuận cao ở các nớc phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt động sản xuất vật chất

liệu, thiết bị, máy móc đó và lao động của ngành in đà in nhân bản các giá trị nội dung
tinh thần theo bản gốc, bản mẫu của nhà xuất bản thành xuất bản phẩm. Đến lúc này,
chính cái vỏ vật chất đó đà vật hoá lao động sáng tạo của nhà văn, nhà xuất bản phẩm.
Thông thờng nội dung tác phẩm tốt, có giá trị lâu dài, đợc in trên giấy và các vật liệu quý.
Nh vậy, khi nói tới giá trị của xuất bản phẩm ngoài việc thừa nhận cái giá trị thông
thờng nh mọi sản phẩm vật chất thuần tuý, phải đề cập tới cái giá trị là thuộc tính của các
sản phẩm văn hoá nói chung, xuất bản nói riêng. Đó là giá trị nội dung, tinh thần chứa
đựng bên trong cái vỏ bao chứa, chuyển tải nó. Xem xét từ góc độ thực hiện giá trị của
xuất bản phẩm, ta thấy đầu vào của chúng tơng đối nhỏ, nhng đổi lấy đầu ra có giá trị xÃ
hội rất lớn.
Về giá trị sử dụng của xuất bản phẩm:
Khi vào lu thông, qua trao đổi giá trị của xuất bản phẩm đợc thực hiện. Cái thuộc
tính về giá trị của xuất bản phẩm là cái mà ngời mua cần. Đơng nhiên họ phải chấp nhận
mua cả cái vỏ bao chứa nó. Giá cả ở đây cũng biểu hiện giá trị của hàng hoá. Một cuốn
sách có nội dung tốt có thể bán giá cao. Néu lại đợc in trên giấy tốt, trình bầy đẹp ngời
mua chấp nhận các chi phí đó ở giá bán. Ngợc lại, một cuốn sách nội dung bình thờng, dù
là in trên giấy tốt cũng sÏ Ýt ngêi mua, thËm chÝ bÞ Õ.
Khi xÐt tíi giá trị sử dụng của xuất bản phẩm, ta có thĨ thÊy mét sè thc tÝnh sau:
- Trong tiªu dïng giá trị của xuất bản phẩm không những không mất đi mà còn đợc nhân lên. Ngời đọc sách không chỉ thoả mÃn tức thời, nh uống nớc khi khát, mà cái giá
trị nội dung tiếp nhận đợc còn tích lũy lâu dài trong nhận thức. Đọc một cuốn sách hay có
khi nhớ cả đời. Ngời đọc sách còn truyền cho ngời khác qua việc kể lại nội dung. Một
cuốn sách đâu chỉ một ngời đọc, mà đợc chuyền tay nhau để đọc.. Đặc biệt khi ở trong th
viện thì vòng luân chuyển của sách lại càng cao. Trong khi mét Êm trµ chØ cã mét sè Ýt ngêi uèng, và khi uống xong là hết.
M. I. Calirin (1875-1946) đà từng nói: Theo tôi, sách tốt là cuốn sách mà dới tấm
bìa của nó, cuộc sống sôi nổi, rộn ràng nh máu chảy dới da, là cuốn sách khiến ngời ta

9


đọc nhớ rất lâu nếu nh không phải là nhớ mÃi mÃi, là cuốn sách mà ai ai cũng muốn đợc

các ý tởng cao cả của giai cấp công nhân, về việc xây dựng một xà hội tong lai, với bộ
máy chính quyền vững mạnh, xà hội công bằng văn minh và thịnh vợng. Thông tin, và
giải đáp kịp thời các vấn đề của quốc gia và quốc tế. Vì vậy xuất bản góp phần giữ vững
ổn định chính trị, định hớng xà hội chủ nghi·.

10


- Xuất bản góp phần nâng cao vai trò và chất lợng lÃnh đạo của đảng cầm quyền,
vai trò và năng lực quản lý, điều hành của Nhà nớc. Đờng lối, chính sách của Đảng và
Nhà nớc trong việc xây dựng và phát triển kinh tế văn hoá,xà hội, khoa học, ngoại giao, an
ninh, quốc phòng v.v... đều đợc in thành xuất bản phẩm phục vụ rộng rÃi các tầng lớp nhân
dân. Từ đó, tạo niềm tin của dân với Đảng và chính quyền, làm cơ sở cho các hoạt động
của dân biến kế hoạch phát triển kinh tế-xà hội thành hiện thực.
- Xuất bản góp phần phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, hội nghề
nghiệp; mở réng d©n chđ x· héi chđ nghÜa trong viƯc l·nh đạo và quản lý xà hội, và trong
hoạt động xuất bản.
- Xuất bản góp phần mở rộng giao lu quốc tế, trao đổi văn hoá với các nớc. Bằng
xuất bản phẩm của mình, xuất bản góp phần để bạn bè hiẻu về một Việt Nam văn hiến,
đang phát triển theo đờng lối đổi mới, để tiếp thu tinh hoa văn hoá thế giới, khoa học và
công nghệ mới nhằm công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc.
Thứ hai : Hiệu quả kinh tế của việc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất
bản.
Xuất bản là hoạt động văn hoá t tởng, đồng thời là hoạt động sản xuất vật chất.
Mặt sản xuất vật chất, trong điều kiện kinh tế thị trờng, tất yếu phải dẫn tới sản xuất kinh
doanh. Nh vậy, quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất bản đạt hiệu quả ổn định chính
trị là tiền đề dẫn đến hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất bản, và hiệu quả kinh tế nói
chung.
Đối với xuất bản, hiệu quả kinh tế thể hiện trên các mặt sau:
- Quản lý xuất bản bằng pháp luật là giải phóng lực lợng sản xuất trong ngành xuất

chất lợng kỹ thuật, mỹ thuật xuất bản phẩm theo tiêu chuẩn Nhà nớc, việc in giá bán lẻ
trên xuất bản phẩm và việc niêm yết giá bán tại cửa hàng, để đảm bảo sự công khai, ngăn
chặn những hành vi lợi dụng.
Thứ ba: Hiệu quả xà hội của việc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất bản.
Hiệu quả xà hội là tất yếu của việc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật xuất bản, vì
các quan hệ xà hội đợc điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.
Từ việc ổn định chính trị, kinh tế phát triển dẫn đến xà hội ổn định, có trật tự và
chuyển biến theo chiều hớng tích cực. Bằng hoạt động của mình thông qua các loại hình
xuất bản phẩm, xuất bản đà góp phần đáng kể cho thành quả đó. Kinh nghiệm từ Liên Xô
(trớc đây) và các nớc Đông Âu chứng tỏ rằng, các thế lực thù địch với chủ nghĩa xà hội đÃ
tận dụng vai trò lợi hại của báo chí, xuất bản gây mất ổn định chính trị, kinh tế, xà hội,
dấn đến sự sụp đổ và tan vỡ Đảng Cộng sản và chính quyền cách mạng. Từ bài học xơng
máu đó, Việt Nam đà khai thác triệt để hoạt động xuất bản, báo chí phục vụ cho mục tiêu
xây dựng xà hội thịnh vợng, công bằng, văn minh và dân chủ.
Các giá trị xà hội đợc khẳng định, phục hồi, và phổ biến thông qua xuất bản phẩm
theo quy địnhcủa luật pháp. Đây là hiệu quả đặc trng của hoạt động xuất bản.
- Hiệu quả xà hội của việc quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật còn thể
hiện ở việc khai thác đợc khả năng sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức đẻ có tác
phẩm phục vụ bạn đọc. Ngăn chặn kịp thời những tác phẩm có nội dung vi phạm pháp
luật, đặc biệt là việc vi phạm các điều cấm.

12


Quản lý Nhà nớc bằng pháp luật là tiền đề quan trọng dẫn đến hiệu quả chính trị,
kinh tế, xà hội nói chung và trong xuất bản nói riêng. Hiệu quả chính trị là cơ sở dẫn đến
hiệu quả kinh tế xà hội. Vì nền chính trị xó vững vàng, hệ thống chính trị ổn định, thì xÃ
hội mới phát triển, kinh tế mới tăng trởng. Mọi tiềm năng đợc phát huy trong không khí
thanh bình, triển vọng. Nếu không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có sự đầu t mở
mang sản xuất, kinh doanh, các thế lực tranh giành quyền lực, phân rẽ quần chúng, lôi kéo

Hơn bất kỳ phơng tiện nào, pháp luật lả phơng tiện chứa đựng trong mình sự kết
hợp giữa năng động sáng tạo và kỷ cơng, kỷ luật, giữa thuyết phục và cỡng chế, giữa tập
trung và dân chủ. Chính vì vậy nó tạo ra sự ổn định cho tự do sáng tạo, bảo vệ các hoạt
động tự do sáng tạo, kiểm soát các hoạt động tự do sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những
hành vi xâm hại tới quyền tự do sáng tạo.
Đặc trng thứ hai: Quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật là bảo tồn,
phát triển nền văn hoá dân tộc, hiện đại nhân văn; tiếp thu tinh hoa văn hoá và tiến bộ
về khoa học - công nghệ của nhân loại.
Văn minh của loài ngời đợc nhân loại đánh giá ở các nền văn hoá có bản sắc, ở
các cuộc cách mạng khoa học đà diễn ra trong lịch sử. Mỗi dân tộc có cội nguồn và truyền
thống riêng đợc phản chiếu lên tấm gơng văn hoá. Nó là gia sản

quá khứ tạo nên dòng

chảy cho hiện tại và tơng lai dân tộc. Đảng và Nhà nớc ta coi văn hoá là nền tảng tinh thần
là động lực và mục tiêu của chủ nghĩa xà hội.
Nhu cầu giao lu văn hoá, tiếp thu tinh hoa từ các nền văn hoá của nhân loại, là nhu
cầu của bản thân nền văn hoá dân tộc. Mặt khác trong thời đại bùng nổ thông tin, với sự
phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ, thì việc tiếp nhận và xử lý thông tin, ứng
dụng các tiến bộ mới của khoa học là đòi hỏi bức thiết. Mỗi dân tộc phải biêt làm giầu bởi
tri thức của nhân loại. Nhng điều đó chỉ đợc thực hiện khi nhà nớc trao cho các chủ thể đợc xác định các quyền và nghià vụ trong các quan hệ quốc tế về xuất bản.
Nh vậy, Nhà nớc với công cụ hàng đầu để quản lý xà hội là pháp luật, đà tạo ra cơ
chế và thiết chế nhằm bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn
hoá, khoa học và công nghệ mới, tiến bộ của nhân loại. Các chủ thể xuất bản, chủ thể quản
lý với địa vị pháp lý, với các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định, góp phần đảm bảo
cho ý chí của Nhà nớc đợc thực hiƯn trong thùc tÕ vỊ viƯc x©y dùng mét nỊn văn hoá mới,
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; loại trừ và ngăn chặn những độc hại về văn hoá. Là phơng tiện điều chỉnh có hiệu lực, pháp luật tạo môi trờng thuận lợi cho các hoạt động văn
hoá phát triển theo định hỡng xà hội, loại trừ khả năng hoà tan và đổi mầu trong quá trình
hoà nhập.
Đặc trng thứ ba: quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật là quản lý hoạt

trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách quan. XÃ hội luôn phát triển
bởi các dự báo tơng lai, và việc phản ảnh thực trạng tình hình từ suy nghĩ độc lập của các
nhà khoa học, đội ngũ văn nghệ sĩ, khi Nhà nớc biết khai thác, phát huy. Nhng tự do và
bình đẳng trong sáng tạo phải vì lợi ích xà hội và của cộng đồng, kihông thể có thø tù do
v« bê bÕn, tù do v« ChÝnh phđ. Vì vậy, tự do và bình đẳng trong hoạt động sáng tạo, công
bố và phổ biến tác phẩm là tự do trong khuôn khổ pháp luật. ở đó, các chủ thể tham gia
hoạt động xuất bản sẽ đợc làm tất cả những gì pháp luật cho phép. pháp luật cũng ấn định
những gì đợc phép làm, đối với các cơ quan Nhà nớc, nhằm ngăn chặn các hành vi lạm
dụng, xâm hại đến quyền tự do, bình đẳng. Đồng thời với các quyền, pháp luật còn đề ra
các nghĩa vụ tơng ứng cho các chủ thể hoạt động sáng tạo và quản lý. Nh vậy, thông qua
pháp luật, Nhà nớc tạo ra môi trờng thuận lợi, tin cậy và chính thức cho tác giả và các tổ
chức tự do sáng tạo, bình đẳng trong hoạt động xuất bản.
b. Pháp luật bảo vệ lợi ích hợp pháp của những ngời sáng tạo ra tác phẩm văn
học, nghệ thuật và khoa học.
Hoạt động sáng tạo ra các giá trị tinh thần, sản phẩm văn hoá tinh thần, đợc xà hội
đánh giá cao và xếp loại lao động đặc biệt. Các quốc gia trên thế giới đều coi các sản
phẩm của trí tuệ là tài sản. Vì vậy, các tác giả đợc bảo hộ quyền sở hữu. Công ớc Berne là
công ớc quốc tế đầu tiên về quyền tác giả, dới sự điều hành của tổ chức quyền sở hữu trí
tuệ thế giới (WIPO) ra đời từ năm 1886, (là tổ chức của Liên hợp quốc từ 1974) để bảo
vệ quyền tác giả thuộc 90 quốc gia thành viên.
ở Việt Nam, pháp luật là phơng tiện tạo lập môi trờng tự do và bình đẳng cho hoạt
động sáng tạo, công bố và phổ biến tác phẩm, đồng thời pháp luật là phơng tiện bảo vệ lợi
ích hợp pháp của những ngời bằng lao động của mình đà sáng tạo ra tác phẩm. Các quy
định về quyền của ngời sáng tạo, ngời quản lý và các nghĩa vụ tơng ứng phát sinh từ các
quyền đó, cùng với các quy định về cơ chế đảm bảo thực hiện, là cơ sở pháp lý cho việc
bảo hộ quyền sở hữu tác phẩm. Các tác giả đợc Nhà nớc tạo phơng tiện để đấu tranh bảo
vệ lợi ích chính đáng của mình. Các tranh chấp về quyền tác gỉa, các hành vi xâm hại lợi
ích vật chất và tinh thần của tác giả đợc tài phán tại toà án dân sự. Nh vậy, thông qua việc

16

bản, chống thơng mại hoá xuất bản.
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng là quá trình cấu trúc lại cơ cấu xuất bản, cơ cấu
sở hữu, cơ cấu nhân lực và lao động xuất bản, là quá trình đổi mới sâu sắc t duy xuất bản
về tuyên truyền, giáo dục về khoa học, đặc biệt về kinh tế, quản lý kinh tế, xà hội, pháp
luật, kể cả tâm lý xà hội đối với xuất bản.... Nó không đơn thuần là sự thay đổi cơ chế
quản lý xuất bản. Các quá trình chuyển dịch trên phải đợc thể chế bằng pháp luật, xuất
phát từ định hớng xà hội chủ nghĩa, với các bớc đi thích hợp. Các thành phần kinh tế tham

17


gia hoạt động xuất bản ở phạm vi, mức độ nào phải tuỳ thuộc vào lợi ích chung của giai
cấp công nhân,của cộng đồng và do pháp luật xuất bản quy định. Các quyền và nghĩa vụ
pháp lý của các chủ thể xuất bản, chủ thể quản lý và cơ chế thực hiện là cơ sở pháp lý
nhằm khai thác đợc các tiềm năng để phát triển. Vì vậy, xuất bản đà góp phần đắc lực cho
sự ổn định chính trị, mở rộng dân chủ, đổi mới t duy, mở mang tri thức, nâng cao dân trí,
hoà nhập vào khu vực và cộng đồng quốc tế, đấu tranh với các t tởng thù địch, thông qua
xuất bản phẩm của mình. Đó là hiệu quả bắt nguồn từ pháp luật do Nhà nớc đặt ra, hoặc
thừa nhận.
Cơ chế thị trờng với mặt trái, nó thúc ép các chủ thể xuất bản chỉ chú ý tới các
hoạt động, sản phẩm có khả năng thanh toán. Hơn thế nữa, đẩy hoạt động xuất bản tìm
kiếm các khả năng thanh toán có lợi nhuận cao, không lờng hết hậu quả chính trị, xà hội
có thể xảy ra. Nh vậy, từ phơng tiện pháp luật của mình, Nhà nớc chế ớc các hoạt động
xuất bản chạy theo kinh tế đơn thuần, đặc biệt là xu hớng thơng mại hoá trong hoạt động
xuất bản.
Pháp luật là phơng tiện quy phạm hoá các quy luật phát triển, nó chứa đựng các
yếu tố tất yếu, loại trừ các yếu tố ngẫu nhiên. Vì vậy, quản lý bằng pháp luật, và thực hiện
theo luật không phải chỉ đạt mà còn nâng cao hiệu quả chính trị, kinh tế và xà hội.
c. pháp luật- phơng tiện bảo vệ lợi ích ngời tiêu dùng xuất bản phẩm.
Ngời tiêu dùng xuất bản phẩm là tiêu dùng các sản phẩm văn hoá tinh thần. Nó tác

cần phát triển theo các định hớng sau:
Một là : Đa dạng hoá và đa năng hoá các loại hình xuất bản phẩm, thoả mÃn nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của bạn đọc
Hai là : điều chỉnh hợp lý cơ cấu đề tài xuất bản, nâng cao số lợng, chất lợng xuất
bản phẩm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Ba là: Các hình thức sở hữu và kinh doanh trong ngành xuất bản
Bốn là: mở rộng thị trờng xuất bản phẩm
Năm là: Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành xuất bản.
b. Quản lý Nhà nớc bằng pháp luật trên các lính vực khác nhau của xuất bản.
Các quan hệ xà hội phát sinh trong hoạt động xuất bản, từ hoạt động của các chủ
thể xuất bản, in, phát hành, xuất nhập khẩu vật t thiết bị xuất bản, xuất nhập khẩu xuất
bản phẩm đến hoạt động của các chủ thể trong lập pháp, hành pháp và t pháp là các nội
dung đa dạng và phong phú cần đợc điều chỉnh bằng pháp luật. Các lĩnh vực khác nhau
của xuất bản, phải đợc quản lý bằng pháp luật gồm nhóm các vấn đề chính sau:
Vấn đề thứ nhất: quyền và nghĩa vụ công dân, tổ chức trong hoạt động xuất
bản.
Mọi ngời sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá đà cho họ quyền đó. Các Nhà nớc đà ghi nhận các quyền tự nhiên và cơ bản của con ngời trong hiến pháp, các đạo luật và
luật thành các quyền công dân. Đồng thời với các quyền, các nghĩa vụ tơng ứng của công
dân đợc phát sinh. Tuỳ theo chế độ chính trị - xà hội, mỗi Nhà nớc có quy định rộng, hẹp
vả cơ chế thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác nhau.

19


ở Việt Nam, quyền và nghĩa vụ công dân là một trong những nội dung cơ bản đợc
ghi trong hiến pháp. T tởng nhân văn về quyền con ngời đợc các nhà làm luật nêu ra từ
bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946, phát triển nó trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và
Hiến pháp 1992. Trong các quyền của công dân, thì quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí,
xuất bản đều đợc ghi nhận trong các bản Hiến pháp với các cấp độ khác nhau, theo sự tiến
bộ của kỹ thuật lập pháp. Hiến pháp 1992, tại điều 69 đà ghi: Công dân có quyền tự do

20


- Điều kiện về pháp nhân : pháp luật phải quy định đợc các loại pháp nhân thuộc
đối tợng có thể đứng tên xin lập nhà xuất bản.
- Điều kiện về sự phù hợp giữa tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của nhà
xuất bản với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân đứng tên xin thành lập;
- Điều kiện về nhân thân của ngời làm giám đốc, tổng biên tập nhà xuất bản.
Về lính vực in và phát hành:
Các điều kiện thành lập cơ sở in và phát hành cần chú ý nhiều đến vón hoạt động,
và các yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ và thiết bị, sản phẩm
in. Tuy nhiên phải có điều kiện về mục tiêu, ngành nghề kinh doanh. Các điều kiện này rất
quan trọng, nhằm ngăn ngừa việc in nhân bản các sản phẩm độc hại.
Vấn đề thứ t: các quy định về hoạt động xuất bản
Khi trở thành chủ thể, các tổ chức xuất bản, in, phát hành đợc hoạt động theo hành
lang do pháp luật xuất bản quy định.
Quyền tự do và quyền chủ động của nhà xuất bản, cơ sở in và phát hành là quyền
đợc làm tất cả những gì pháp luật xuất bản không cấm. Đó là mục đích của hoạt động lập
pháp. Vì nh vậy mới phát huy đợc các nguồn lực của cơ sở xuất bản. Đồng thời cho phép
các cơ quan quyền lực Nhà nớc chỉ đợc làm những gì pháp luật qui định, nếu không pháp
luật không còn là phơng tiện, mà trở thành mục đích của các cơ quan quản lý Nhà nớc.
Vấn đề thứ năm: quyền và nghĩa vụ của các cơ quan quyền lực Nhà nớc.
Nhà nớc với ba bộ phận hợp thành, gồm lập pháp, hành pháp và t pháp. Các cơ
quan quyền lực này ra đời, tồn tại và hoạt động trong sự phối hợp có phân công phân
nhiệm theo quy định của Hiến Pháp. Xuất bản là một hoạt động đợc các cơ quan của Nhà
nớc thực hiện vai trò quản lý nh mọi hoạt động khác.
Tóm lại, xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xà hội để sáng tạo ra các tác
phẩm văn hoá, nghệ thuật khoa học, sản xuất ra xuất bản phẩm, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt
văn hoá của xà hội. Vì vậy, xuất bản là bà đỡ của các sản phẩm văn hoá tinh thần, là
phơng tiện thực hiện việc lu giữ, bảo tồn và phản ánh đời sống vật chất và tinh thần của xÃ

Liền sau cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam dân chủ công
hoà đà tuyên bố bảo đảm quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất
bản. Một năm sau (8-1946), tríc t×nh h×nh chiÕn sù më réng ë miỊn Nam và đe doạ lan ra
miền Bắc, nền độc lập mới giành đợc bị uy hiếp, Chính phủ xét cần và đà tạm thời đặt chế
độ kiểm duyệt để đối phó với tình hình.
Tháng 11/1946 Quốc hội họp kỳ thứ 2 đà thông qua Hiến pháp, bảo đảm các
quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Công dân Việt
Nam có quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản....
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cách mạng Việt Nam chuyển sang
giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lợc là xây dựng và củng cố miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất nớc nhà. Từ đó chế độ tự do xuất bản đợc thi hành rộng rÃi,
không có kiểm duyệt trớc khi in. Để hợp thức hoá chế độ tự do xuất bản đà đợc thi hành
trong 12 năm (1945-1957), ngày 18/6/1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc luật số
003/SLt, về chế độ xuất bản, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự phát triển nền xuất bản Việt
Nam. Điều 1 Sắc luật đà ghi: Quyền tự do xuất bản của nhân dân đợc tôn trọng và bảo
đảm. Tất cả các xuất bản phẩm đều không phải kiểm duyệt trớc khi xuất bản, trừ tình thế
khẩn cấp, nếu Chính phủ xét cần.
Xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế - xà hội, để đa đất nớc thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, hoà nhập với xu thế phát triển của thời đại, Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt
Nam đà đề ra đờng lối đổi mơí. Hiến pháp 1992 và các đạo luật lần lợt ra đời, thể chế hoá
nghị quyết Đại hội VI. Trong không khí lập pháp đó dự án Luật xuất bản đà đợc Quốc hội
khoá IX kỳ hợp thứ ba thông qua ngày 7/7/1993.
Nh vậy, từ tháng 7/1993 ở Việt Nam hoạt động xuất bản đà có các quy tắc xử sự
trong các quan hệ xà hội về xuất bản ghi tại Luật xuất bản mởi. Những cơ sở pháp lý,
hành lang pháp luật đà hình thành, tạo điều kiện cho hoạt động xuất bản phát triển, việc
điều hành của cơ quan quản lý Nhà nớc, kiểm soát và xử lý của các cơ quan t pháp. Luật
xuất bản ngày 7/7/1993 là đỉnh cao của pháp luật về xuất bản ở Việt Nam, nó đà kế thừa
đợc những giá trị tinh hoa của Sắc luật số 003/SLt, ngày 18/6/1957, tổng kết đợc thực tiễn
lÃnh đạo và quản lý xuất bản trong 36 năm (1957-1993) của Đảng và Nhà nớc ta, đón


Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, hệ thống pháp luật và chính sách cha đồng
bộ. Trong một thời gian dài từ 1986 đến 1991, số văn bản Nhà nớc ban hành cha bằng 1/4
tổng số văn bản ban hành từ 1991 đến 1995. Thùc tÕ nµy chøng tá sù bì ngì, lóng túng và
buông lỏng của Nhà nớc trong những măm đầu chuyển đổi cơ chế. Xà hội đà phải trả giá
đắt cho sự yếu kém của công tác quản lý Nhà nớc. Các nạn sách bắt đầu xuất hiện làm phá
vỡ cơ cấu đề tài xuất bản. đó là các nạn sách Tầu, tớng số tử vi, truỵện cổ, cổ tích, tranh
truyện, truyện tranh, sách dịch, sách tình dục, sách chuyên đề dạng tạp chí v.v... Các t

24


nhân tham gia vào hoạt động xuất bản, in, phát hành dẫn tới sự xuất hiện của các nạn và
các dịch sách, thiếu sự quản lý Nhà nớc. Các danh từ sách đen, đầu nậu đợc ra đời
trong điều kiện thiếu các chuẩn mực pháp luật. Các nhà xuất bản thì coi đầu nậu là cứu
cánh trong khi các nhà quản lý thì phê phán gay gắt, nhng không có quy định rõ ràng.
Nhiều vấn đề cần đợc giải thích, hớng dẫn và cụ thể hoá Luất xuất bản vẫn cha đợc
khởi thảo, ban hành nh : việc phổ biến tác phẩm của tổ chức, công dân Việt Nam ra nớc
ngoài và việc xuất bản, in, phát hành của tỉ chøc, ngêi níc ngoµi ë ViƯt Nam ; vỊ hoạt
động ngành in và phát hành; về chính sách đối với hoạt động xuất bản ; quy chế hoạt
động xuất bản;
Luật xuất bản có những điều dừng lại ở việc định tính, cha lợng hoá và cụ thể hoá.
Trong khi đó các văn bản dới luật lại không có giải thích, hớng dẫn và quy định gì thêm.
Vì vậy khả năng điều chỉnh các quan hệ xà hội thuộc phạm vị của vấn đề đặt ra rất bị hạn
chế. Tình trạng tuỳ tiện, kể cả khả năng lợi dụng trong quá trình thi hành của các chủ thể
từ tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xuất bản, đến các công chức quản lý điều hành
Nhà nớc, công chức hoạt động t pháp rất dễ xảy ra. Một số điều khoản đợc quy định rõ
ràng, nhng khả năng thực thi rất hấp dẫn. Ngay việc dự thảo các văn bản hớng dẫn thi
hành đà lúng túng, khó xử lý, việc áp dụng, thực hiện càng khó hơn.
Nguyên nhân khách quan của những hạn chế kể trên là:
- Nhiều luật đợc ban hành, nhng lại ban hành trong thời kỳ chuyển đổi cơ


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status