Luận văn: Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang pot - Pdf 12

1
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
KHOA
KINH TẾ - TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Đề tài: Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử
dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang
2

1997- 1999.

III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy
năm qua.

Phần thứ ba
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và
sử dụng NSNN của tỉnh hà giang

I. Phương hướng, mục tiêu chung.
II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang

Kiến nghị và kết luận.
I. Kiến nghị
II. Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
3
Đặt vấn đề

1. Sự cần thiết của đề tài.
Trong hệ thống tài chính của mỗi quốc gia thì NSNN có vị trí
quan trọng đặc biệt, nó giữ vai trò chủ đạo trong hệ thống tài chính và có
ý nghĩa quyết định trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Trong công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, thực hiện CNH,
HĐH đất nước, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận
hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng

tộc trong tỉnh. Một trong những nguyên nhân cơ bản của tình trạng đó là
Hà Giang còn quá thiếu nguồn vốn vật chất. Vì vậy, để giải quyết mâu
thuẫn trên đây cần phải tiến hành đồng bộ nhiều vấn đề. Một trong những
vấn đề có tầm quan trọng đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề ngân sách.
Chính vì vậy tôi chọn đề tài "Một số vấn đề về nâng cao công tác quản
lý và sử dụng NSNN trên địa bàn tỉnh Hà Giang" để viết luận văn tốt
nghiệp cử nhân chính trị.
2. Mục đích, nhiệm vụ, phương pháp và phạm vi của đề tài.
- Mục đích của đề tài: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề về lý luận,
quan điểm của Đảng, thực tiễn của địa phương để trình bày bản luận văn
tốt nghiệp cử nhân chính trị của mình; đồng thời thông qua sự nghiên
cứu này có thể có đóng góp nhỏ về suy nghĩ của bản thân tôi trong lĩnh
vực quản lý NSNN ở tỉnh Hà Giang.
- Nhiệm vụ của đề tài: Từ mục đích nói trên, đề tài luận văn có các
nhiệm vụ sau:
+ Khái quát một vài nét chung nhất về lý luận của NSNN và vai
trò của NSNN trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
của nước ta trong TKQĐ lên CNXH.
+ Phân tích, đánh giá những nét lớn về thực trạng kinh tế - xã hội
cũng như thực trạng quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang hiện
nay.
+ Từ hai nhiệm vụ trên, đề tài có nhiệm vụ phải nêu lên được
phương hướng và những giải pháp chủ yếu để quản lý và sử dụng NSNN
của tỉnh Hà Giang tốt hơn trong thời gian tới.
5
- Phương pháp của đề tài:
Đề tài này thuộc thể loại nghị luận kinh tế - xã hội. Do đó, trong
quá trình nghiên cứu và thể hiện, luận văn coi trọng phương pháp luận
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng
thời bám sát vào quan điểm đường lối của Đảng, chính sách của Nhà

Phần thứ nhất
Một số vấn đề lý luận chung về ngân sách Nhà
nước (NSNN )

I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
1. Ngân sách Nhà nước .
a. Khái niệm NSNN:
Thuật ngữ "NSNN " có từ lâu và ngày nay được dùng phổ biến
trong đời sống kinh tế - xã hội và được diễn đạt dưới nhiều góc độ khác
nhau. Song quan niệm NSNN được bao quát nhất cả về lý luận và thực
tiễn của nước ta hiện nay là:
NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán
đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện
trong một năm để bảo đảm thực hiện các chức năng của Nhà nước.
Trong thực tế nhìn bề ngoài, hoạt động NSNN là hoạt động thu chi
tài chính của Nhà nước. Hoạt động đó đa dạng, phong phú, được tiến
hành hầu hết trên các lĩnh vực, tác động đến mọi chủ thể kinh tế - xã hội.
Tuy đa dạng, phong phú như vậy, nhưng chúng có những đặc điểm chung:
Các hoạt động thu chi của NSNN luôn luôn gắn chặt với quyền lực
kinh tế - chính trị của Nhà nước, được Nhà nước tiến hành trên cơ sở
những luật lệ nhất định. Đằng sau những hoạt động thu chi tài chính đó
chứa đựng nội dung kinh tế - xã hội nhất định và chứa đựng các quan hệ
kinh tế, quan hệ lợi ích nhất định. Trong các quan hệ lợi ích đó, lợi ích
7
quốc gia, lợi ích chung bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu và chi phối
các mặt lợi ích khác trong thu, chi ngân sách Nhà nước.
Quá trình thực hiện các chỉ tiêu thu, chi NSNN nhằm hình thành
quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước và là quá trình phân phối và phối lại
giá trị tổng sản phẩm xã hội phục vụ cho việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của Nhà nước trên các lĩnh vực, trong từng giai đoạn lịch sử nhất

tài chính xuất phát từ sản xuất, mà chủ thể của sản xuất chính là các
thành viên trong xã hội. Mọi thành viên đều có lợi ích kinh tế và đấu
tranh bảo vệ lợi ích kinh tế đó, nghĩa là thông qua quyền lực của mình,
Nhà nước sử dụng các công cụ, chính sách giải quyết hài hoà giữa lợi ích
Nhà nước và lợi ích của các thành viên trong xã hội. Do vậy muốn có
NSNN đúng đắn, lành mạnh thì phải tôn trọng và vận dụng các quy luật
kinh tế một cách khách quan, phải dựa trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích
của Nhà nước và lợi ích cho các thành viên trong xã hội. Một NSNN lớn
mạnh phải đảm bảo sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản
xuất kinh doanh, bao quát hết toàn bộ các nguồn thu, nuôi dưỡng nguồn
thu để đáp ứng nhu cầu chi ngày càng tăng.
Như vậy bản chất của NSNN là hệ thống các mối quan hệ kinh tế
giữa Nhà nước và các thành viên trong xã hội, phát sinh trong quá trình
Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn lực tài chính, nhằm đảm bảo
thực hiện các chức năng quản lý và điều hành nền kinh tế, xã hội của Nhà
nước.
Chức năng đầu tiên của NSNN là chức năng phân phối. Bất kỳ
một Nhà nước nào, muốn tồn tại và duy trì được các chức năng của
mình, trước hết phải có nguồn lực tài chính. Đó là các khoản chi cho bộ
máy quản lý Nhà nước, cho lực lượng quân đội, cảnh sát, cho nhu cầu
văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi xã hội, chi cho đầu tư phát triển v.v
Nhưng muốn tạo lập được NSNN, trước hết phải tập hợp các khoản thu
theo luật định, cân đối chi tiêu theo tiêu chuẩn định mức đúng với chính
sách hiện hành. Đó chính là sự huy động các nguồn lực tài chính và đảm
bảo nhu cầu chi tiêu theo kế hoạch của Nhà nước, thực hiện việc cân đối
thu chi bằng tiền của Nhà nước.
Chức năng thứ hai của NSNN là giám đốc quá trình huy động các
khoản thu và thực hiện các khoản chi. Thông qua chức năng này, NSNN
kiểm tra, giám sát quá trình động viên các nguồn thu, tránh tình trạng
9

Trình độ xã hội hóa càng cao, quy mô sở hữu càng lớn thì nguồn
thu tập trung vào NSNN và những nguồn lực tài chính cũng càng nhiều.
Thực hiện thu đúng, thu đủ từ các hình thức này không chỉ đảm
bảo nguồn lực tài chính cho Nhà nước, mà còn là hình thức cụ thể thực
hiện quản lý chặt các tài sản thuộc sở hữu Nhà nước để bảo tồn và phát
triển chế độ sở hữu toàn dân.
- Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân thuộc đối tượng
phải đóng góp theo luật định.
- Các khoản viện trợ: Hình thức chủ yếu là viện trợ không hoàn
lại, của các tổ chức, các tổ chức phi chính phủ của các nước và quốc tế.
Nguồn thu này chủ yếu phụ thuộc vào đường lối đối ngoại của Đảng và
Nhà nước. Đây là nguồn thu nhất thời, không ổn định, không tính toán
trước một cách chính xác.
- Các khoản do Nhà nước vay để bù đắp bội chi được đưa vào cân
đối NSNN.
Khoản thu này được thực hiện thông qua quan hệ tín dụng Nhà
nước trong nước và quốc tế để sử dụng vào mục đích đầu tư phát triển
kinh tế. Đây là nguồn thu không thuộc quyền sở hữu Nhà nước, đến kỳ
hạn Nhà nước phải thanh toán. Vì vậy, việc sử dụng hình thức này đòi
hỏi các tổ chức Nhà nước phải tính toán nhu cầu đầu tư, hiệu quả kinh tế -
xã hội của công trình và khả năng thu hồi vốn để trả nợ.
- Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
* Các khoản chi lấy từ NSNN.
Chi NSNN là một hệ thống các quan hệ rất đa dạng, phức tạp, bao
gồm:
- Các khoản chi phát triển kinh tế - xã hội.
- Các khoản chi bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo đảm hoạt động
của bộ máy Nhà nước.
11
Đây là những khoản chi bắt buộc trong NSNN của mọi quốc gia

12
thu và nhiệm vụ chi cụ thể; thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên cho
ngân sách cấp dưới để bảo đảm sự cân bằng, phát triển cân đối và thực
hiện được nhiệm vụ của các vùng, các địa phương.
NSNN được cân đối theo nguyên tắc tổng số thu từ thuế, phí, lệ
phí phải lớn hơn tổng số chi thường xuyên và góp phần tích luỹ ngày
càng cao vào đầu tư phát triển. Nếu có bội chi thì số bội chi đó phải nhỏ
hơn chi đầu tư phát triển, tiến tới cân bằng thu - chi ngân sách. Nếu có
vay để bù đắp bội chi NSNN thì phải trên nguyên tắc tiền vay được
không sử dụng cho tiêu dùng mà chỉ sử dụng vào mục đích phát triển và
có kế hoạch thu hồi vốn vay để đảm bảo cân đối ngân sách, chủ động trả
nợ đến hạn. Ngân sách địa phương được cân đối theo quy tắc: tổng số
chi không được vượt quá tổng số thu

2. Chính sách tài khoá.
Chính sách tài khoá là chính sách của Nhà nước trong việc huy
động các nguồn thu vào NSNN và sử dụng nó trong hạn nhất định
(thường là 1 năm).
Chính sách tài khoá có tác động đến sản lượng thực tế, đến kiềm
chế lạm phát và tình trạng thất nghiệp; có tác động đến điều chỉnh nền
kinh tế, cơ cấu kinh tế. Mục tiêu của chính sách tài khoá là bảo đảm các
nguồn lực tài chính, tạo môi trường và điều kiện cho phát triển kinh tế -
xã hội. Để đạt được mục tiêu đó, chính sách tài khoá cần xử lý nhiều mối
quan hệ, trong đó giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn chủ yếu sau đây
là nội dung cốt lõi của chính sách tài khoá:
+ Mâu thuẫn thu - chi NSNN. Đây là mâu thuẫn vốn có của bất kỳ
một quốc gia nào, đặc biệt gay gắt đối với các nước kém phát triển. Xuất
phát của mâu thuẫn này là do chi tiêu của Nhà nước lớn, trong khi nguồn
thu bị hạn chế. Vì vậy, cần có những biện pháp tích cực để khống chế
nhu cầu chi của Nhà nước. Đồng thời tích cực thu đúng, thu đủ, tận dụng

động viên hợp lý các nguồn thu (đặc biệt là thuế, phí, lệ phí). Đồng thời
tổ chức và quản lý chi tiêu NSNN, thực cân đối thu - chi. Tóm lại,
NSNN có các chức năng, nhiệm vụ cơ bản sau đây:
Một là, chức năng phân phối NSNN.
14
Bộ máy Nhà nước muốn thực hiện được sự hoạt động của mình
một cách bình thường và ổn định để thực hiện tốt các chức năng, nhiệm
vụ là quản lý mọi mặt của đời sống xã hội của một quốc gia thì nhất thiết
phải có nguồn NSNN đảm bảo.
Với quyền lực tối cao của mình, Nhà nước sử dụng các công cụ,
các biện pháp bắt buộc các thành viên trong xã hội cung cấp cho mình
các nguồn lực tài chính cần thiết. Nhưng cơ sở để hình thành nguồn lực
tài chính đó là từ sự phát triển kinh tế, phát triển sản xuất kinh doanh. Vì
vậy, muốn động viên được nguồn thu NSNN ngày càng tăng và có hiệu
quả thì nền kinh tế nói chung, sản xuất kinh doanh nói riêng phải được
phát triển với tốc độ nhanh, bền vững và có hiệu quả cao. Vì vậy, Nhà
nước trong quá trình quản lý kinh tế - xã hội phải nắm được quy luật
kinh tế và tôn trọng các quy luật kinh tế khách quan. Đồng thời phải bảo
đảm hài hoà các quan hệ lợi ích của các chủ thể của nền kinh tế.
Một NSNN vững mạnh là một ngân sách mà cơ chế phân phối của
nó đảm bảo được sự cân đối trên cơ sở khuyến khích phát triển sản xuất
kinh doanh nuôi dưỡng nguồn thu, trên cơ sở đó tăng được thu để đáp
ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên.
Mặt khác, một NSNN vững mạnh còn phải thể hiện việc phân phối
và quản lý chi đúng đắn, hợp lý và hiệu quả. Nhà nước sử dụng khối
lượng tài chính từ nguồn NSNN để chi tiêu vào mục đích phát triển kinh
tế - xã hội và chi tiêu cho sự hoạt động của bộ máy Nhà nước. Như vậy,
chức năng của NSNN, ngoài việc động viên nguồn thu thì còn phải thực
hiện quản lý và phân phối chi tiêu sao cho có hiệu quả. Đó cũng là một
tất yếu khách quan.

không tận thu để bao chi, mà phải động viên nguồn thu ngân sách một
cách hợp lý để đáp ứng nhu cầu chi trên cơ sở vừa bồi dưỡng và phát
triển nguồn thu, vừa kiểm soát và tập trung khai thác một cách hợp lý và
có hiệu quả các nguồn thu.
+ Thực hiện tốt công tác phân phối và sử dụng vốn NSNN theo
nguyên tắc tiết kiệm, hiệu quả, chấm dứt tình trạng các khoản chi bao
cấp tràn lan của cơ chế cũ trước đây. Thực hiện phương châm "Nhà nước
và nhân dân cùng làm".
16
+ Thực hiện phương pháp cân đối ngân sách một cách khoa học để
vừa phát huy tốt các nguồn lực bên trong và tranh thủ cao độ, có hiệu
quả nguồn lực tài chính bên ngoài; vừa phù hợp với pháp luật của Nhà
nước ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế và bảo đảm sự chủ động của
NSNN.
+ Đổi mới chế độ phân cấp quản lý NSNN theo hướng giảm bớt
chức năng quản lý kinh tế của chính quyền địa phương, tránh để tình
trạng phân tán và sử dụng kém hiệu quả nguồn vốn ngân sách.
+ Ban hành đồng bộ hoá và tiếp tục hoàn thiện luật NSNN. Đồng thời
giáo dục, nâng cao trình độ cho toàn dân, cho các chủ thể của nền kinh tế
cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan chức năng trực tiếp
làm công tác quản lý NSNN. Nghiêm chỉnh chấp hành luật NSNN.
3. Vai trò của NSNN trong các lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội.
Chúng ta biết rằng, trong cơ chế thị trường, mọi hoạt động kinh tế,
sản xuất kinh doanh chủ yếu của các thành phần kinh tế, các ngành kinh
tế chủ yếu tuân theo sự điều tiết của các quy luật vốn có của thị trường.
Nhận thức được điều đó, Nhà nước ta đã có những cơ chế, chính sách
hạn chế sự can thiệp và kiểm soát trực tiếp đối với các hoạt động kinh tế,
nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước ta với chức năng
của mình là thực hiện quản lý hành chính kinh tế bằng các công cụ pháp
luật, kế hoạch hoá và các chính sách do Nhà nước ban hành tuân theo

chậm hơn nhu cầu chi, vì vậy nếu xử lý không tốt sẽ dẫn đến rối loạn,
gây thiệt hại về nhiều mặt cho nền kinh tế.
Tóm lại, NSNN có vai trò vô cùng quan trọng. Bởi lẽ NSNN có
chức năng huy động nguồn lực tài chính để hình thành các quỹ tiền tệ tập
trung, đảm bảo các nhu cầu chi tiêu của Nhà nước. Đồng thời NSNN còn
thực hiện cân đối bằng tiền giữa các khoản thu và các khoản chi tiêu của
Nhà nước. Đây là vai trò cơ bản của NSNN mà bất kỳ một quốc gia nào
cũng phải thực hiện.
NSNN là một công cụ quản lý quan trọng trong điều chỉnh nền
kinh tế vĩ mô của đất nước, đặc biệt thể hiện rất rõ trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vai trò đó đã được thể hiện cụ thể ở
các lĩnh vực sau:
- Về kinh tế: Nhà nước tạo các môi trường và điều kiện để xây
dựng cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và
18
chống độc quyền. NSNN đảm bảo cung cấp kinh phí đầu tư xây dựng và
nâng cấp cơ sở kết cấu hạ tầng, hình thành các doanh nghiệp Nhà nước
thuộc các ngành kinh tế, các lĩnh vực kinh tế then chốt. Trên cơ sở đó
từng bước làm cho kinh tế Nhà nước đảm đương được vai trò chủ đạo
nền kinh tế nhiều thành phần.
Mặt khác, trong những điều kiện cho phép thì nguồn kinh phí từ
NSNN cũng có thể được sử dụng để hỗ trợ cho sự phát triển của các
doanh nghiệp thuộc các TPKT khác để các doanh nghiệp đó có cơ sở về
tài chính tốt hơn và do đó có được phương hướng kinh doanh có hiệu quả
hơn.
- Về mặt xã hội: Thông qua hoạt động thu, chi NSNN cấp phát
kinh phí cho tất cả các lĩnh vực hoạt động vì mục đích phúc lợi xã hội.
Thông qua công cụ ngân sách, Nhà nước có thể điều chỉnh các mặt hoạt
động trong đời sống xã hội như: Thông qua chính sách thuế để kích thích
sản xuất đối với những sản phẩm cần thiết cấp bách, đồng thời có thể

NSNN. Nhờ có nguồn thu NSNN mới đảm bảo chi thường xuyên cho sự
hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các đoàn thể và các cơ quan
hành chính sự nghiệp, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh quốc phòng. Nhờ
có NSNN mà phần nào đã đáp ứng được nhu cầu các khoản chi cấp bách,
đặc biệt là chi cho đầu tư phát triển chiếm tỷ lệ khá cao trong chi ngân
sách. Nhờ đó mà hiện nay ở Hà Giang nhiều cơ sở hạ tầng kinh tế, văn
hoá xã hội đã và đang được xây dựng, tu bổ, nâng cấp và đưa vào sử
dụng.
Trong nông nghiệp, chi NSNN tập trung cho việc ứng dụng khoa
học- kỹ thuật vào sản xuất, đầu tư để tạo điều kiện thực hiện chuyển dịch
cơ cấu cây trồng vật nuôi và cơ cấu mùa vụ v.v Chẳng hạn đầu tư cho
việc lai tạo giống cây con cho năng suất cao. Tuy lâm nghiệp đã chú ý
đầu tư để đẩy mạnh trồng mới rừng, bảo vệ và tái sinh rừng, phát triển
mô hình rừng trang trại, vườn rừng, theo phương thức lâm-nông kết hợp.
Trong lĩnh vực văn hoá- xã hội: NSNN đã dành một tỷ lệ thích
đáng cho đầu tư xây dựng và phát triển các cơ sở vật chất- kỹ thuật cho
lĩnh vực giáo dục đào tạo, hệ thống trường chuyên, lớp chọn, trường dân
tộc nội trú, trường cao đẳng sư phạm. Mặc dù nguồn thu ngân sách còn
hạn chế, nhưng tỉnh cũng rất quan tâm đầu tư cho lĩnh vực y tế và dân số
20
kế hoạch hoá gia đình. Cụ thể là đầu tư nâng cấp cải tạo các cơ sở khám
chữa bệnh, tạo điều kiện chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được tốt hơn.
Ngoài ra NSNN còn thực hiện một loạt các chương trình khác
như: củng cố mở rộng nâng cấp các đường giao thông liên huyện, liên
xã, đầu tư để xây dựng đường dây, trạm biến áp để đưa điện lưới quốc
gia về các huyện vùng cao. Đầu tư xây dựng các cơ sở phát thanh, truyền
hình, bưu điện để đáp ứng nhu cầu đời sống văn hoá, tinh thần cho các
dân tộc trong tỉnh. Đồng thời cũng nhằm tạo các phương tiện tuyên
truyền đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, để nhân dân các dân
tộc hiểu rõ đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trên tất cả các

0
25' đến 105
0
34' kinh
đông, cách thủ đô Hà Nội trên 320 km.
Phía Bắc giáp tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, có đường biên giáp
Trung Quốc dài trên 270 km.
Phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Lào Cai và Yên
Bái, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang.
Hà Giang có 10 huyện, thị: Bắc Giang, Vị Xuyên, Bắc Mê, Hoàng
Su Phì, Xí Mần, Quản Bạ, Yên Minh, Đồng Văn, Mèo Vạc và thị xã Hà Giang.
* Địa hình:
- Hà Giang có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, độ dốc lớn, nhiều
dãy núi đá có độ cao trên 2000m, tạo nên nhiều tiểu vùng với các điều
kiện về địa hình, khí hậu, đất đai, nguồn nước và dân cư khác biệt, độc
đáo, có điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế đa dạng theo cơ cấu
nông - lâm - công nghiệp với nhiều sản phẩm phong phú, có nhiều cảnh
quan thiên nhiên đẹp để phát triển du lịch, dã ngoại
- Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi trên còn không ít khó khăn
do địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, nhiều dãy núi đá nên không ít khó
khăn trong phát triển sản xuất nông nghiệp đặc biệt ở các huyện vùng cao.
* Đất đai:
Tổng diện tích tự nhiên là: 788.437 ha (7884,37 km
2
).
Trong đó:
22
- Đất nông nghiệp : 106.425,113 ha
+ Đất trồng cây hàng năm : 39.817,77 ha
Đất ruộng lúa, mầu : 28.372,09 ha

- xã hội của tỉnh.
* Về đặc điểm khí hậu thuỷ văn:
Do địa bàn rộng, khí hậu thuỷ văn các vùng phân bố không đồng đều:
ở các huyện vùng cao: Lượng mưa trung bình 2000mm - 2400mm;
Nhiệt độ trung bình 15 - 20
0
C, có tháng mùa đông xuống 3- 4
0
C, có tuyết.
Vùng này khí hậu mang tính ôn đới.
Các huyện vùng thấp: Nhiệt độ trung bình 27
0
C; Lượng mưa 4.633
mm/năm. ở huyện Bắc Quang là vùng có lượng mưa bình quân cao nhất
nước. Thông thường mùa đông Hà Giang chịu ảnh hưởng nhiều của gió
mùa đông bắc.
Sông suối: Toàn tỉnh có 7 sông lớn nhỏ: Sông Lô, Sông Gâm,
Sông Chảy, Sông Nho Quế, Sông Niệm, Sông Con, Sông Bạc, còn lại là
suối cạn. Lưu lượng nước sông phụ thuộc lớn vào mùa mưa lũ, mùa khô
thường cạn kiệt, các dòng sông phân bổ không đều, đặc biệt là vùng cao
núi đá, rất ít nước. Những tháng mùa khô còn trên 100.000 người thiếu
nước sinh hoạt.
* Về thổ nhưỡng: Trên địa hình tỉnh Hà Giang hình thành các
nhóm đất chính như đất phù sa tập trung ở vùng Bắc Quang, nhóm đất
đỏ vàng ( có tác dụng tốt phát triển cây công nghiệp ăn quả) ở Vị Xuyên,
Bắc Quang, Thị xã Hà Giang, Xín Mần, Hoàng Su Phì, nhóm đất phù sa
cổ trên cao nguyên Đồng Văn và các huyện vùng cao.
* Tài nguyên khoáng sản: Qua khảo sát điều tra Hà Giang phát
hiện được 28 loại khoáng sản khác nhau như ( Ăngtimon, vàng, chì,
24

C, có năm tuyết rơi, sương muối ảnh hưởng tới
phát triển nông nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nước sinh
hoạt, nghiêm trọng nhất là trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn
dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 - 80 USD/người/năm. Tỷ lệ người
25
mù chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm trở, diện tích canh tác
manh mún, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện
tích vùng này là 1460 km
2
, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số:
105.083 người, khí hậu thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho
phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây công nghiệp như chè, thông nhựa,
trẩu, đậu tương cây lượng thực chính là lúa, ngô, chăn nuôi chủ yếu là
trâu, bò, ngựa, dê và gia cầm.
Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao
thông dễ sạt lở và sinh lầy trong mùa mưa lũ. Thu thập bình quân 80 -90
USD/người/năm, về văn hoá xã hội cũng khó khăn tương tự như vùng cao.
- Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên
và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km
2
, độ cao trung bình
100 - 500 m; dân số: 294.574 người. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt
đới phát triển như cam, quýt, dược liệu, cây công nghiệp như chè, cà
phê, quế, dâu tằm, đậu tương, lạc cây lương thực chủ yếu là lúa nước,
ngô. Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong vùng có cửa khẩu
quốc gia Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá với
Trung Quốc, có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thương mại,
dịch vụ
Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status