Đầu tư vào tài sản vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng và giải pháp - Pdf 12

LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam đã thay đổi rất nhiều sau 20 năm với thành tích tăng trưởng
cao và rất nhiều người dân Việt Nam đã thoát khỏi cảnh đói nghèo. Với tư
cách một quốc gia, Việt Nam ngày càng nhận được sự nể trọng và có ảnh
hưởng ngày càng lớn hơn trong cộng đồng quốc tế. Song vẫn còn những vấn
đề cần phải giải quyết: năng lực sản xuất còn nhỏ lẻ, công nghệ yếu kém lạc
hậu, chất lượng nguồn nhân lực chưa cao… Bên cạnh đó, có những vấn đề
nhận thức cần phải nghiên cứu làm sáng tỏ từ đó mới có thể định hướng hoạt
động trong thực tiễn. Một trong những vấn đề đó là hoạt động đầu tư vào tài
sản vô hình trong doanh nghiệp hiện nay.
Chính vì vậy, em đã nghiên cứu đề tài “Đầu tư vào tài sản vô hình
trong các doanh nghiệp Việt Nam. Thực trạng và giải pháp” nhằm làm rõ
những vấn đề đang được đặt ra hiện nay.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của bài viết, chắc hẳn sẽ khó lòng đề cập đầy
đủ các khía cạnh của vấn đề đưa ra, và những sai sót là không thể tránh khỏi.
Chính vì vậy em xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến quý báu từ thầy
cô cùng các bạn. Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới cô giáo
Lương Hương Giang - người đã tận tình hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt
quá trình thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cám ơn!
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
1
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ TÀI
SẢN VÔ HÌNH TRONG DOANH NGHIỆP
I. Khái niệm về đầu tư, đầu tư vào tài sản vô hình
1. Khái niệm về đầu tư.
1.1 Khái niệm về đầu tư
Đầu tư là một trong những hoạt động quan trọng nhất của nền kinh tế. Nó là
một thành tố không thể thiếu được trong nền sản xuất. Nó cũng là mối quan tâm
của bất kỳ doanh nghiệp nào muốn gia tăng lợi nhuận; bất kỳ cá nhân, gia đình nào

trực tiếp lớn hơn sau chu kỳ đầu tư. Phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp cũng giúp
phân biệt hoạt động đầu tư với việc các tổ chức, doanh nghiệp phải chi một
khoản tiền khá lớn cho các hoạt động mang tính thường xuyên nhằm đảm bảo
cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục. Như vậy, đầu tư là hoạt động rất
cần thiết để tái sản xuất tài sản của nền kinh tế và của chủ đầu tư. Với sự phân
tích trên, đầu tư theo nghĩa hẹp còn được hiểu là đầu tư phát triển.
1.2. Phân loại đầu tư
Phần trên, ta đã thấy có rất nhiều cách tiếp cận với hoạt động đầu tư. Vì
thế, cũng có rất nhiều cách để phân loại hoạt động đầu tư.
- Theo bản chất của các đối tượng đầu tư: Đầu tư vào tài sản hữu hình,
đầu tư vào tài sản vô hình.
- Theo phân cấp quản lý: Đầu tư dự án nhóm A, đầu tư dự án nhóm B,
đầu tư dự án nhóm C.
- Theo lĩnh vực hoạt động của kết quả đầu tư: Đầu tư phát triển sản xuất
kinh doanh, đầu tư phát triển khoa học kỹ thuật, đầu tư phát triển cơ sở hạ
tầng.
- Theo đặc điểm hoạt động của các kết quả đầu tư: Đầu tư cơ bản, đầu tư
vận hành.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
3
- Theo giai đoạn hoạt động của các kết quả đầu tư trong quá trình tái sản
xuất xã hội: Đầu tư thương mại, đầu tư sản xuất.
- Theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư:
Đầu tư ngắn hạn, đầu tư dài hạn.
- Theo quan hệ quản lý của chủ đầu tư: đầu tư gián tiếp, đầu tư trực tiếp.
- Theo nguồn vốn trên phạm vi quốc gia: Đầu tư bằng nguồn vốn trong
nước, đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài.
-Theo quan điểm mục đích và tính chất của hoạt động đầu tư: Đầu tư tài
chính, đầu tư thương mại, đầu tư phát triển.
1.3. Đặc điểm của đầu tư phát triển.

trưởng nhanh trước hết nhất thiết phải có nguồn lực lớn mạnh. Do vậy, muốn
đưa đất nước đi lên cần phải có những giải pháp cho việc huy động, quản lý
và sử dụng vốn hợp lý.
Lao động cần sử dụng cho các dự án rất lớn, đặc biệt đối với các dự án
trọng điểm quốc gia. Do đó, công tác tuyển dụng, đào tạo, sử dụng, và đãi ngộ
cần tuân thủ một kế hoạch định trước, sao cho đáp ứng tốt nhất nhu cầu từng
loại nhân lực theo tiến độ đầu tư, đồng thời, hạn chế đến mức thấp nhất những
ảnh hưởng tiêu cực do vấn đề “hậu dự án” tạo ra như việc bố trí lại lao động,
giải quyết lao động dôi dư…
Tài nguyên, vật tư là những thành tố không thể thiếu đảm bảo cho quá
trình hoạt động bình thường của dự án. Nhưng điều quan trọng là cần phải có
hướng sử dụng sao cho vừa duy trì được cân bằng sinh thái, tránh khai thác
cạn kiệt vừa mang lại lợi ích cho chủ đầu tư.
Một đặc điểm quan trọng khác của đầu tư phát triển là thời kỳ đầu tư
kéo dài. Thời kỳ đầu tư tính từ khi khởi công thực hiện dự án cho đến khi
hoàn thành và thực hiện dự án. Trong đặc điểm trên, ta thấy rằng những dự án
đầu tư phát triển thường có quy mô rất lớn. Quá trình chuẩn bị, thực hiện và
vận hành kết quả đầu tư cần có một khoản thời gian nhất định. Ví dụ thời gian
xây dựng mới một con đường quốc lộ cần ít nhất là 2 đến 3 năm, bao gồm các
thủ tục về mặt pháp lý, giải phóng mặt bằng, thi công công trình, nghiệm thu
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
5
công trình... Thực tế có những công trình xây dựng phải mất tới hàng chục
năm: xây một tòa nhà cao tầng, xây nhà máy lớn, công trình thủy điện…
Thời kỳ đầu tư kéo dài là cần thiết đối với một dự án. Nhưng vấn đề
quan trọng là cần bao nhiêu thời gian. Điều này cần phải được nghiên cứu kỹ
và có tính toán, tránh chạy theo thành tích mà đề ra những khoảng thời gian
phi thực tế, ảnh hưởng đến chất lượng công trình. Ngoài ra, như chúng ta đã
biết, nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển thường nằm khê đọng trong suốt
quá trình thực hiện đầu tư. Tiến độ công trình chậm bao nhiêu, thời gian hoàn

Ở nông thôn liệu nhu cầu đi lại đã đủ lớn để xây dựng con đường đó chưa?
Nếu như nó được xây dựng có cần thiết phải xây con đường lớn không? Điều
này buộc nhà đầu tư phải cân nhắc. Ngược lại ở thành phố, nhu cầu giao
thông rất lớn, cần phải mở thêm đường để giảm bớt lưu lượng xe trên nhũng
con đường khác, tránh ùn tắc... Điều kiện xã hội của vùng cũng có ảnh hưởng
lớn tới công trình. Việc xây dựng nhà máy liệu có đảm bảo an ninh không,
sản phẩm của nhà máy có phù hợp với văn hóa địa phương hay không?.... Do
những ảnh hưởng trên đây, nên doanh nghiệp cần nghiên cứu kỹ càng môi
trường đầu tư để quyết định sản xuất mặt hàng gì, công suất bao nhiêu là hợp
lý.
Đầu tư phát triển có độ rủi ro cao. Đầu tư nói chung và đầu tư phát triển
nói riêng mang một đặc điểm quan trọng: độ rủi ro cao. Nguồn lực cần cho
đầu tư phát triển là rất lớn. Việc thu hồi vốn liệu có gặp thuận lợi hay không?
Cùng một nguồn vốn đó, nhà đầu tư có thể đa dạng hóa đầu tư. Điều này sẽ
làm giảm thất bại hơn là việc dồn vốn cho một dự án. Hơn thế nữa, thời gian
hoàn thành dự án dài, vốn bị khê đọng trong công trình. Trong khoản thời
gian đó, chủ đầu tư rất có thể gặp khó khăn khi một chính sách mới ban hành
không có lợi cho công trình, hay những biến động về giá cả... Do đo rủi ro là
một vấn để được các nhà đầu tư rất quan tâm.
Rủi ro trong đầu tư cũng có rất nhiều nguyên nhân. Tựu chung lại ta có
thể xét rủi ro trên hai phương diện sau: Rủi ro chủ quan và rủi ro khách quan.
Rủi ro chủ quan: nguyên nhân thuộc về phía các chủ đầu tư. Có thể do chủ
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
7
đầu tư yếu kém về mặt trình độ, đã lựa chọn các phương án không hợp lý; do
trình độ quản lý thấp, chất lượng sản phẩm không đạt yêu cầu... Rủi ro khách
quan: Có thể do thay đổi pháp luật; biến động của thị trường (giá cả nguyên
vật liệu, mặt hàng liên quan); máy móc hư hỏng....
Để thực hiện đầu tư tốt, nhà đầu tư cần phải nghiên cứu, phân loại các rủi
ro có thể gặp trong suốt quá trình đầu tư:

một cách nôm na tài sản vô hình là tất cả những gì không thể dùng giác quan
cảm nhận được nhưng lại có thể mang lại giá trị thặng dư được tính thành
tiền.
Bên cạnh những đặc điểm chung của tài sản và tài sản cố định trong
doanh nghiệp, tài sản vô hình có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Có hình thái vật chất không rõ ràng
- Rất khó đánh giá chính xác giá trị của một tài sản cố định vô hình vì nó
không tồn tại dưới dạng vật chất có thể đo đếm dễ dang. Sự đánh giá đúng
hay sai trị giá của tài sản cố định vô hình phụ thuộc chủ yếu vào cảm nhận và
ý kiến chủ quan của người đánh giá. Tuy nhiên, sự phát triển của các thị
trường tài chính, thị trường về quyền sở hữu công nghiệp đã tạo ra điều kiện
hình thành các mức giá thị trường của tài sản vô hình. Giá trị của những tài
sản vô hình này được thể hiện bằng những khoản chi phí để mua tài sản đó
thông qua các văn bản sở hữu được luật pháp thừa nhận như: khế ước, giấy
chứng nhận sở hữu, hợp đồng…
- Các tài sản vô hình chỉ có lợi ích khi nó tạo ra lợi thế thương mại,
chẳng hạn như sự yêu thích của người tiêu dùng hay người sử dụng.
2.2. Phân loại tài sản vô hình.
Tài sản vô hình bao gồm danh tiếng, tinh thần và văn hóa ứng xử của đội
ngũ nhân lực, bí quyết kinh doanh và bí quyết kỹ thuật, sáng chế, giải pháp kỹ
thuật, kiểu dáng công nghệ, nhãn hiệu hàng hóa và các thành quả vô hình
khác.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
9
- Các sáng chế, phát minh, công thức, quy trình, mô hình, kỹ năng
(know-how).
- Bản quyền và các tác phẩm văn học, âm nhạc, nghệ thuật.
- Thương hiệu, tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá.
- Quyền kinh doanh (franchise), giấy phép (license), hợp đồng.
- Phương pháp, chương trình, hệ thống, thủ tục, khảo sát, nghiên cứu, dự

lượng nguồn lực con người, đó là quá trình trang bị kiến thức nhất định về
chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được một
công việc nhất định; đó cũng là quá trinh cải thiện, nâng cao chất lượng điều
kiện làm việc của người lao động.
Như vậy, nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực bao gồm:
- Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực
- Đầu tư cho công tác chăm sóc sức khoẻ, y tế
- Cải thiện môi trường, điều kiện làm việc
- Trả lương đúng và đủ cho người lao động.
Đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ lao động: Hoạt động đào tạo:
chính quy, dài hạn, ngắn hạn, bồi dưỡng nghiệp vụ… Giáo dục cơ bản cung
cấp những kiến thức cơ bản để phát triển năng lực cá nhân. Giáo dục nghề và
giao dục đại học (đào tạo) vừa giúp cho người học có kiến thức đồng thời
cung cấp tay nghề, kỹ năng, chuyên môn. Với mỗi trình độ nhất định, người
được đào tạo biết được họ sẽ phải đảm nhận những công việc gì, yêu cầu kỹ
năng cũng như chuyên môn nghề nghiệp phải như thế nào?
Vai trò của hoạt động giáo dục đối với việc nâng cao chất lượng lao động
được cụ thể như sau:
Tăng tích luỹ vốn con người đặc biệt là tri thức và sẽ giúp cho việc sáng
tạo ra công nghệ mới, tiếp thu công nghệ mới. Do đó, thúc đẩy quá trình tăng
trưởng dài hạn của doanh nghiệp.
Tạo ra một lực lượng lao động có trình độ, có khả năng làm việc với
năng suất cao, là cơ sở thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
11
Giúp bổ sung các dịch vụ y tế.
Đầu tư dịch vụ y tế, chăm sóc sức khoẻ cải thiện chất lượng lao động:
Sức khoẻ có tác động đến chất lượng lao động cả hiện tại và tương lai. Người
có sức khoẻ tốt có thể mang lại những lợi nhuận trực tiếp hoặc gián tiếp bằng
việc nâng cao sức bền bỉ, dẻo dai và khả năng tập trung cao. Vì vậy nhanh

hay với công nghệ xuất hiện lần đầu trong một loại sản phẩm dịch vụ cấp
thiết, nhu cầu thị trường là rất lớn.
Mua quyền sử dụng công nghệ: doanh nghiệp thường áp dụng hình thức
này bởi hình thức này có ít rủi ro hơn và tốn ít chi phí hơn. Tuy nhiên doanh
nghiệp phải chấp nhận đối thủ của mình cũng sở hữu công nghệ như mình và
sức ép cạnh tranh là rất lớn. Nhưng ít ra nó cũng giúp cho doanh nghiệp có
những lợi thế hơn so với những sản phẩm không có công nghệ đó hoặc lợi thế
giá thành do công nghệ giúp khai thác tối đa những nguồn lực mà đối thủ
không có.
Và ngoài ra doanh nghiệp còn có thể đầu tư vào nghiên cứu phát minh ra
công nghệ mới hay có sự cải tiến trong việc sử dụng hay tăng năng lực sản
xuất của doanh nghiệp.
Đầu tư nghiên cứu hoặc mua công nghệ đòi hỏi một lượng vốn lớn và độ
rủi ro cao. Công nghệ được sử dụng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản
phẩm tạo ra. Vì vậy, đầu tư vào khoa học công nghệ cần phải đầu tư một cách
cẩn trọng. Hiện nay khả năng đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và triển khai
khoa học và công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá khiêm tốn. Cùng
với đà phát triển của kinh tế đất nước và doanh nghiệp, trong tương lai tỷ lệ
chi cho hoạt động đầu tư này sẽ càng tăng, tương ứng với nhu cầu và khả
năng của doanh nghiệp.
3. Hoạt động đầu tư Marketing
Hoạt động marketing là một trong những hoạt động quan trọng của
doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp là một chủ thể kinh
doanh, một cơ thể sống của đời sống kinh tế. Cơ thể đó cần có sự trao đổi chất
với môi trường bên ngoài – thị trường. Quá trình trao đổi chất đó càng diễn ra
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
13
thường xuyên, liên tục, với quy mô càng lớn thì cơ thể đó càng khoẻ mạnh.
Ngược lại, sự trao đổi đó diễn ra yếu ớt thì cơ thể đó có thể quặt quẹo và chết
yểu. Chỉ có marketing mới có vai trò quyết định và điều phối sự kết nối với

Vậy đầu tư vào tài sản hữu hình có tác động thế nào đến sự phát triển của
doanh nghiệp, chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu.
Đầu tư vào tài sản vô hình tác động tới tới đầu tư vào tài sản hữu hình.
Một khi doanh nghiệp đã đầu tư tốt vào tài sản vô hình, xây dựng cho mình
được một thương hiệu mạnh, có uy tín với người tiêu dùng thì điều đó sẽ góp
phần làm tăng doanh thu cũng như lợi nhuận cho doanh nghiệp. Từ đó doanh
nghiệp sẽ có vốn để đầu tư ngược trở lại tài sản hữu hình thông qua việc mở
rộng quy mô sản xuất, mua sắm trang thiết bị mới, xây dựng thêm các nhà
xưởng…
Bên cạnh đó, nếu doanh nghiệp xây dựng được một đội ngũ nhân lực có
khả năng và kinh nghiệm, có tâm huyết với công việc thì điều này đã trở
thành một lợi thế cạnh tranh lơn cho doanh nghiệp. Hay khi doanh nghiệp
triển khai nghiên cứu một công nghệ mới thành công, có tác dụng nâng cao
năng suất lao động, cải tiến chất lượng sản phẩm thì nó sẽ giúp nâng cao mức
lợi nhuận của doanh nghiệp, tạo cơ sở cho doanh nghiệp đầu tư trở lại tài sản
hữu hình.
Mặc dù đầu tư vào tài sản vô hình có thể tác động tích cực song cũng có
thể tác động tiêu cưc tới hoạt động đầu tư vào tài sản hữu hình. Nếu doanh
nghiệp không xác định được tỉ trọng đầu tư hợp lí vào tài sản vô hình thì sẽ
gây cản trở cho việc đầu tư vào tài sản hữu hình. Vì nguồn lực của các doanh
nghiệp là hạn chế, nhất là đối với những doanh nghiệp Việt Nam như hiện
nay- chủ yếu là những doanh nghiệp nhỏ, lẻ, quy mô vốn thấp. Chính vì vậy,
nếu không sử dụng nguồn vốn hạn chế đó một cách có hiệu quả, phân bổ hợp
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
15
lí vào từng danh mục đầu tư thì nếu đầu tư quá nhiều vào tài sản vô hình thì sẽ
ảnh hưởng tới hiệu quả đầu tư vào tài sản hữu hình.
Bên cạnh đó, bất cứ một doanh nghiệp nào nếu chỉ tìm mọi cách để đánh
bóng thương hiệu của mình trong con mắt người tiêu dùng( tức đầu tư vào tài
sản vô hình- thương hiệu) mà không đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm,

nghiệp còn phải đầu tư vào tài sản vô hình, tạo nên hình ảnh cho doanh
nghiệp mình.
Đầu tư vào tài sản vô hình một cách hợp lý có tác động tích cực đến hoạt
động của doanh nghiệp.Nếu doanh nghiệp không để ý đầu tư vào tài sản hữu
hình thì sẽ khó có chỗ đứng trên thị trường. Bởi vì chúng ta đang hoạt động
trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì
phải khẳng định được hình ảnh của mình. Xu thế ngày nay đó là các doanh
nghiệp tăng cường cho việc đầu tư vào tài sản vô hình nhiều. Điều quan trọng
là các doanh nghiệp phải định vị sản phẩm của mình trên thị trường để có
được chiến lược đầu tư đồng bộ giữa tài sản hữu hình và tài sản vô hình nhằm
mang lại hiệu quả tốt nhất.
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
17
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ VÀO TÀI SẢN VÔ HÌNH
TRONG CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
2002-2007
I. Tình hình đầu tư vào tài sản vô hình theo nội dung đầu tư
1. Tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Thứ nhất, về đầu tư cho hoạt động đào tạo đội ngũ nguồn nhân lực.
Hiện nay, hoạt động đào tạo này đang theo hướng cầu của thị trường lao
động.
Với việc hoàn thiện Luật doanh nghiệp, mỗi năm có hàng chục ngàn cơ
sở sản xuất kinh doanh được thành lập với nhiều loại hình sở hữu và hình
thức hoạt động. Theo Tổng cục thống kê, đến nay đã có trên 240.000 doanh
nghiệp đăng ký hoạt động với số lao động làm việc đạt gần 12 triệu người. Để
nâng cao năng lực cạnh tranh, các doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của mình, dẫn tới nhu cầc về lao động qua đào tạo nghề cũng
như của các ngành kinh tế là rất lớn. Nhận thức được vai trò của việc đầu tư
cho hoạt động này, để đáp ứng được nhu cầu nhân lực kỹ thuật cho các doanh

năng nghề đạt loại khá trở lên.
Nhìn chung dạy nghề đã từng bước đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật
trực tiếp trong sản xuất của doanh nghiệp; lao động Việt Nam đã đảm nhiệm
được hầu hết những vị trí quan trọng trong các ngành sản xuất, kể cả các
ngành đòi hỏi kỹ thuật cao, công nghệ phức tạp, góp phần tăng năng suất lao
động, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá.
Việc dạy nghề được phát triển với các mô hình dạy nghề năng động, linh
hoạt gắn đào tạo với sử dụng lao động theo hướng cầu của thị trường lao động
để đáp ứng nhu cầu nhân lực của doanh nghiệp. Đặc biệt mô hình dạy nghề
tại doanh nghiệp được triển khai trong những năm qua đã đạt được những kết
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
19
quả bước đầu. Đến nay, cả nước có 143 cơ sở dạy nghề thuộc các doanh
nghiệp; hầu hết các tổng công ty, các tập đoàn kinh tế mạnh đều có trường
dạy nghề để chủ động tạo nguồn nhân lực cho xã hội. Các doanh nghiệp, nhất
là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp tư nhân có quy
mô lớn đã tổ chức dạy nghề, bổ túc nghề, bồi dưỡng kỹ năng, chuyển giao
công nghệ cho người lao động theo yêu cầu của doanh nghiệp. Nhiều doanh
nghiệp cũng đã đào tạo nghề tại chỗ khá tốt, không những đáp ứng được nhu
cầu về tác động kỹ thuật phù hợp với cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề sản
xuất kinh doanh và trình độ công nghệ của doanh nghiệp, mà còn chia sẻ
trách nhiệm đối với Nhà nước, thực hiện xã hội hoá trong đào tạo nghề nhằm
nâng cao chất lượng và tay nghề của đội ngũ lao động nước ta.
Ngoài việc tuyển dụng lao động có tay nghề, đào tạo nâng cao kỹ năng
nghề cho lao động sau khi tuyển dụng là một vấn đề cần thiết. Qua khảo sát
gần 10.000 lao động trong các doanh nghiệp; có 36,6% số lao động được đào
tạo, đào tạo lại sau khi tuyển dụng để phù hợp với công nghệ sản xuất của
doanh nghiệp. Điều này không có nghĩa là dạy nghề chưa đáp ứng được mà vì
để thích ứng với công nghệ, nên các doanh nghiệp vẫn phải đào tạo lại cho
phù hợp.

kinh nghiệm làm việc.
Nguồn nhân lực bậc cao mới chỉ đáp ứng được 30 – 40% nhu cầu của
các công ty. Nhiều doanh nghiệp có đủ khả năng tài chính muốn mở rộng sản
xuất, kinh doanh nhưng nguồn lao động hiện hành không thể đáp ứng được
nhu cầu, còn việc tuyển dụng người lao động chất lượng cao từ bên ngoài khó
khăn. Do thiếu lao động nên một người phải đảm nhiệm công việc nhiều hơn
dẫn đến chất lượng công việc giảm.
Điều kiện, môi trường làm việc: Các doanh nghiệp chưa ý thức được tầm
quan trọng của công tác quản lý và phát triển nguồn nhân lực, thiếu hẳn cơ
chế tổ chức rõ ràng để thu hút và giữ chân nhân tài dẫn tới hiện tượng chảy
máu chất xám. Lúng túng trong việc xử lý những tranh chấp lao động phát
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
21
sinh do khung pháp lý chưa hoàn thiện, do cơ chế và quá trình giải quyết
tranh chấp chưa thật rõ ràng, chưa phát huy vai trò của các tổ chức trung gian.
Về hệ thống giao dịch việc làm, chủ yếu vẫn là hình thức trực tiếp giữa người
lao động và người sử dụng lao động (chiếm trên 80% tổng số giao dịch).
Chế độ đãi ngộ và trả lương: Cách trả lương của một số doanh nghiệp
không theo tiêu chí rõ ràng và không theo kết quả công việc nên hạn chế về
mức độ cống hiến của nhân viên trong doanh nghiệp. Cách chính sách về tiền
lương, tiền công nói chung chưa phản ánh được giá trị theo quy luật của thị
trường, chưa khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng và chưa
thực hiện được chức năng kích cầu để sản xuất phát triển.
Theo số liệu thu thập được, thì đến năm 2005 mới chỉ có 20,8% số doanh
nghiệp tham gia đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động, còn thấp hơn tỷ lệ
năm 2004 là 23,1%; trong đó doanh nghiệp nhà nước là 99,0%; doanh nghiệp
ngoài quốc doanh 10,7%; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 81,0%. Nếu
so với số doanh nghiệp có từ 10 lao động trở lên (là doanh nghiệp bắt buộc
phải đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động) thì cũng chỉ đạt 40,0% (năm
2004 là 45,6%). Trong đó; doanh nghiệp nhà nước thực hiện 100%; doanh

để quản lý và khai thác. Các doanh nghiệp tuy đã có nhận thức bước đầu về
tầm quan trọng của công nghệ thông tin nhưng số lượng các doanh nghiệp có
thể khai thác được sâu khả năng của công nghệ thông tin mới chỉ dừng lại ở
con số ít ỏi.
Một doanh nghiệp phát biểu: “Nhiều nơi đã dùng máy tính làm các loại
văn bản từ khá lâu, nhưng máy tính có thể ứng dụng được vào công việc gì
nữa và làm như thế nào để thật sự hiệu quả, thì có lẽ đến 80% vẫn rất lúng
túng”.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi chương trình quan trọng nhất, được sử
dụng rộng rãi nhất trong các doanh nghiệp là quản lý tài chính, kế toán.
Khoảng 88% số doanh nghiệp áp dụng công nghệ thông tin có sử dụng phần
mềm kế toán tài chính, nhưng ngay cả đối với những doanh nghiệp đã ứng
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
23
dụng công nghệ thông tin, chỉ có khoảng 20% các phần mềm thoả mãn được
yêu cầu của họ.
53% phần mềm cài đặt trên máy tính trong năm 2003 là phần mềm
không có bản quyền, gây tổn thất khoảng 7,5 tỷ USD cho các nhà sản xuất.
Việt Nam có tỷ lệ vi phạm bản quyền phần mềm được công bố là 92%
theo điều tra của BSA, song mức thiệt hại về tài chính chỉ khoảng 40,8 triệu
USD, thua xa so với các nước trong khu vực và thế giới như Trung Quốc
(3.822,5 triệu USD), Hàn Quốc (1.633 triệu USD), Thái Lan (140,9 triệu
USD), hay Mỹ (1,96 tỷ USD).
Những năm gần đây, tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ đang
ngày càng có chiều hướng gia tăng trên thế giới và ở Việt Nam.
Theo số liệu điều tra của Tổ chức Hải quan thế giới thì giá trị hàng giả,
hàng nhái của thế giới năm 2006 vào khoảng 500 tỷ USD, chiếm 5 - 7% giá
trị khối lượng hàng hóa thế giới.
Cũng theo thông tin của vị Đại diện khu vực CA-TBD, Hội điện ảnh
(MPA) trong một cuộc hội thảo về thực thi quyền sở hữu trí tuệ được tổ chức

"Tốc độ gia tăng từ các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc tiếp tục
trở thành những trường hợp đặc biệt. Điều đó phản ánh sự phát triển mạnh mẽ
của sức mạnh công nghệ ở các nước này. Từ năm 2000, đơn xin cấp bằng
sáng chế của các nước Nhật, Hàn Quốc, và Trung Quốc đã tăng lần lượt
162%, 200% và 212%," Ông Francis Gurry, Phó tổng giám đốc WIPO, nhận
xét
SVTH: Nguyễn Nữ Tuệ Linh - Kinh tế Đầu tư 47C
25

Trích đoạn Tình hình đầu tư cho hoạt động marketing Đánh giá tình hình đầu tư phát triển nguồn nhân lực Đánh giá tình hình đầu tư nghiên cứu và triển khai các hoạt động khoa Đánh giá tình hình đầu tư vào hoạt động marketing
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status