Đánh giá hiệu quả của việc dử sụng nước thải trong sản xuất rau tại thôn Bằng B, Hoàng Liệt, Hoàng Mai - Pdf 11

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BOD: Nhu cầu oxy sinh hóa
COD: Nhu cầu oxy hóa học
DO: Lượng oxy hòa tan
CVM: Đánh giá ngẫu nhiên
BVTV: Bảo vệ thực vật
DANIDA: Cơ quan phát triển quốc tế Đan Mạch
HQKT: Hiệu quả kinh tế
HQTC: Hiệu quả tài chính
N, P, K: Nitơ, Photpho, Kali
TCCP: Tiêu chuẩn cho phép
TCVN: Tiêu chuẩn Việt Nam
VESDI: Viện môi trường và phát triển bền vững
WTP: Sắn lòng chi trả
WTA: Sắn lòng chấp nhận
WHO: Tổ chức y tế thế giới
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1 Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì
Bảng 1.2 Các phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích
Bảng 2.1 Loại và lượng nước thải của TP. Hà Nội
Bảng 2.2 Các loại rau chính trồng tại thôn Bằng B
Bảng 3.1 Thống kê các biện pháp bảo vệ sức khỏe của nông dân phường Hoàng
Liệt
Bảng 3.2 Tình hình mắc các bệnh về da đối với nông dân tại Hoàng Liệt
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1.1 Cơ cấu sử dụng nước
Hình 1.2 Nước thải đô thị trong tương tác nông thôn - đô thị
Hình 1.3 Sự di chuyển của nước thải đô thị tại khu vực sản xuất nông nghiệp
(thôn Bằng B)
Hình 2.1 Bản đồ vị trí các thôn của phường Hoàng Liệt, Hoàng mai

phần không nhỏ trong đảm bảo an ninh lương thực, xóa đói giảm nghèo…, nhưng
bên cạnh đó cũng tiềm tàng những nguy cơ về sức khỏe và môi trường. Vậy thì
việc sử dụng nước thải mang lại hiệu quả đến đâu? Đề tài “Đánh giá hiệu quả
của việc dử sụng nước thải trong sản xuất rau tại thôn Bằng B, Hoàng Liệt,
Hoàng Mai” thông qua nghiên cứu điển hình việc sản xuất rau tại thôn Bằng B để
trả lời cho câu hỏi trên.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Nhằm tìm hiểu thực trạng sản xuất rau sử dụng nước thải để tưới; xem xét,
đánh giá hiệu quả chi phí trên các khía cạnh tài chính, xã hội, môi trường của việc
sử dụng nước thải trong sản xuất rau; đưa ra kết luận về tính hiệu quả; từ đó đề
xuất ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hài hòa các mục tiêu kinh tế - xã hội –
môi trường.
3. Phạm vi nghiên cứu
• Phạm vi thời gian: dựa trên tổng hợp các số liệu từ năm 2002 tới
nay.
• Phạm vi không gian: nghiên cứu tại thôn Bằng B, Hoàng Liệt,
Hoàng Mai.
• Phạm vi nội dung: Chuyên đề không đánh giá hiệu quả cho tất cả
các loại rau tại thôn Bằng B, mà chỉ đi vào tập trung đánh giá hiệu
quả cho việc trồng 4 loại rau nước mà sử dụng nước thải từ sông
Tô Lịch là rau rút, rau muống, rau cần và cải xoong.
4. Phương pháp nghiên cứu
Chuyên đề sử dụng các phương pháp sau:
• Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
• Phương pháp tiếp cận hệ thống , phân tích hệ thống và cân bằng
vật chất
• Phương pháp đánh giá tác động môi trường, lượng hóa các tác
động môi trường (thông qua các phương pháp: chi phí chăm sóc
sức khỏe, đánh giá ngẫu nhiên)
• Phương pháp phân tích chi phí lợi ích

Tài nguyên nước mặt của Việt Nam tương đối phong phú, chiếm khoảng
2% tổng lượng dòng chảy của các sông trên thế giới. Tổng lượng dòng chảy sông
ngòi trung bình hàng năm của nước ta bằng khoảng 847 km
3
. Tuy nhiên, tới 60%
(507 km
3
) nguồn nước là do chảy từ bên ngoài lãnh thổ vào. Lượng nước phân bố
không đồng đều: trên 60% nguồn nước sông tập trung ở khu vực đồng bằng sông
Cửu Long (lưu vực sông Mê Kông) trong khi toàn phần lãnh thổ còn lại chỉ có gần
40% lượng nước nhưng lại chiếm tới gần 80% dân số cả nước và trên 90% khối
lượng hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ.
Nhu cầu tiêu thụ nước đang tăng lên mạnh mẽ
Trong cơ thể người nước chiếm tới 70% trọng lượng. Hàng ngày mỗi người
cần tối thiểu 60 - 80, tối đa tới 150 - 200 lít nước hoặc hơn cho sinh hoạt; riêng
lượng nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5 - 2 lít mỗi ngày.
Nước còn cần cho các hoạt động khác của con người như sản xuất công
nghiệp, nông nghiệp và hoạt động dịch vụ. Lượng nước dùng cho trồng trọt, chăn
nuôi rất lớn: trung bình 1 ha mầu cần 0,12 - 0,29 l/s; 1 ha trồng lúa nước cần 1,5
-7 l/s; mỗi đầu vật nuôi như ngựa, trâu bò tiêu tốn 20 - 80 lít nước một ngày, lợn:
15 - 60, gà, vịt, ngan, ngỗng: 1 - 1,25 lít. Nhu cầu nước cho sản xuất công nghiệp
cũng vậy: để sản xuất 1 tấn thép hay 1 tấn giấy phải dùng 44.000 lít nước; lọc một
lít dầu cần 10 lít; sản xuất một lít bia phải có 15 lít nước sạch; lượng nước dùng
làm mát máy cũng không nhỏ (động cơ đốt trong: 10 lít /giờ, động cơ dầu: 25 - 50
lít/giờ...)
Tổng lượng nước chúng ta có được không đổi từ hàng nghìn năm nay, mà
số lượng và các loại đối tượng sử dụng lại tăng lên ồ ạt. Dân số thế giới hiện nay
là 6,8 tỷ; dự báo đến cuối năm 2012 là 7 tỷ và sẽ tăng đến 9 tỷ người vào năm
2050. Dân số thế giới tăng trung bình mỗi năm gần 80 triệu, có nghĩa là nhu cầu
nước mỗi năm của thế giới cũng tăng thêm 64 tỷ thước khối.

22%
8%
Nông nghiệp
Công nghiệp
Sinh hoạt
Hình 1.1. Cơ cấu sử dụng nước
Tài nguyên nước đang ngày một cạn kiệt và suy thoái
Gia tăng dân số, quá trình đô thị hóa, thay đổi sử dụng đất và sự ấm lên toàn
cầu, tất cả đang tạo nên những áp lực cạnh tranh lên một nguồn tài nguyên có hạn.
Tiêu thụ nước tăng, dẫn đến lượng nước thải ra cùng với các chất thải khác được
thải vào nguồn nước cũng tăng tương ứng. Ở các nước đang phát triển, 90% nước
thải sinh hoạt và 60% nước thải công nghiệp được đổ vào mặt nước, không qua xử
lý.
Theo báo cáo của Liên Hiệp Quốc công bố ngày 5/3/2003 tại diễn đàn thế
giới lần thứ 3 về nước, tổ chức tại Kyoto (Nhật Bản), khoảng 1/3 nguồn nước sử
dụng sẽ mất đi trong 20 năm tới. Hiện nay đã có khoảng 12.000 km3 nước sạch
trên thế giới bị ô nhiễm, hàng năm có hơn 2,2 triệu người chết do các căn bệnh có
liên quan đến nguồn nước bị ô nhiễm và điều kiện vệ sinh nghèo nàn.
Tại Việt Nam, ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp
đang gây ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất
thải, nước thải sinh hoạt không có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả ra
nguồn tiếp nhận (sông, hồ, kênh, mương), phần lớn các bệnh viện và cơ sở y tế
lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải, một lượng rác thải rắn lớn trong thành phố
không thu gom hết được. Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở
thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Ở thành phố Hà Nội chỉ số BOD,
DO, các chất NH
4
, NO
2
, NO

P cao; yếm khí, nước màu xanh đen có mùi khai thối) hoặc nhiễm độc nước.
Ngoài ra, khoảng gần 1.500 làng nghề trên cả nước gây ô nhiễm trầm trọng cho
nguồn nước tại nhiều điểm, đặc biệt là các làng nghề làm giấy, dệt nhuộm, giết mổ
gia súc...
Các chuyên gia phân tích, trong khu vực nội thành của các thành phố lớn
(Hà Nội, Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Huế...) hệ thống các hồ, ao, kênh, rạch và các
sông nhỏ chính là nơi tiếp nhận và vận chuyển nước thải của các khu công nghiệp,
dân cư. Hệ thống này hiện nay ô nhiễm nghiêm trọng vượt quá mức tiêu chuẩn
cho phép 5-10 lần, các hồ trong nội thành phần lớn ở trạng thái phú dưỡng, nhiều
hồ bị phú dưỡng hóa đột biến và tái nhiễm bẩn hữu cơ.
Trong nước dưới đất nhiều nơi còn thấy dấu hiệu ô nhiễm phốt phát và
asen. Tại Hà Nội, số giếng có hàm lượng cao hơn mức cho phép chiếm 71%.
Nước thải của thành phố Hà Nội với khối lượng khoảng 400.000 m
3
/ngày
đêm, trong đó khoảng 55% là nước thải sinh hoạt, 43% nước thải công nghiệp và
dịch vụ, 2% là nước thải bệnh viện (Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường Hà
Nội, 2003) theo 4 con sông: Tô Lịch, Kim Ngưu, Lừ và Sét đổ vào hồ Yên Sở sau
đó được bơm ra sông Hồng.
1.1.2. Tình hình sử dụng nước thải trong sản xuất nông nghiệp
• Trên thế giới:
Việc sử dụng nước thải cho sản xuất nông nghiệp là khá phổ biến trên thế
giới. Theo một khảo sát của Viện quản lý nguồn nước quốc tế cho 53 thành phố
trên thế giới cho thấy hầu hết các thành phố đang sử dụng nước thải không qua xử
lý hoặc xử lý một phần cho nông nghiệp, với 80% là có hơn một nửa diện tích đất
nông nghiệp sử dụng nước thải. Có khoảng 20 triệu hecta đất canh tác trên thế giới
được tưới bằng nước thải. Phương thức canh tác nói trên đang phát triển mạnh ở
châu Á, châu Phi và Nam Mỹ . Tại nhiều đô thị lớn đang phát triển nhanh, nước
sạch cực kỳ hiếm trong khi nước thải lại nhiều. Nước thải có lẽ là nguồn nước dồi
dào nhất của hoạt động canh tác nông nghiệp ở đô thị. Tại Hyderabad, thành phố ở

tỉnh thành của cả nước, có tới 93% thành phố khảo sát sử dụng nước thải cho nông
nghiệp hoặc nuôi trồng thủy sản hoặc cả hai. Loại cây trồng tưới nước thải phổ
biến ở Việt Nam là lúa. Diện tích tưới nước thải (sử dụng trực tiếp chưa qua xử lý
hoặc ô nhiễm nặng) chiếm 0.5 – 5% tổng diện tích đất nông nghiệp ở các thành
phố (trung bình 1.56%), 70% trong tổng các thành phố có 1 – 2% diện tích đất
nông nghiệp tưới nước thải. Như vậy, cả nước có khoảng 6000-9500 ha diện tích
đất nông nghiệp được tưới bằng nước thải. Cũng theo khảo sát này, các lí do khiến
người dân sử dụng nước thải cho sản xuất nông nghiệp được thống kê như sau: vì
không có cách nào khác, đây là nguồn nước tưới duy nhất tại khu vực (chiếm
khoảng 60%); do thiếu nước sạch nên phải sử dụng thêm nước thải (35%); và vì
nước thải có giá trị dinh dưỡng cho cây trồng (15%).
• Tại Hà Nội
Với vành đai sản xuất, cung ứng rau xanh gồm 4 huyện ngoại thành, toàn
thành phố hiện có 112/117 xã, phường tham gia sản xuất rau. Tổng diện tích rau
năm 2007 là 8.000 ha, cung cấp khoảng 490 tấn rau củ /ngày, tương đương 40%
nhu cầu của người dân. Tuy nhiên, trong 8.000 ha rau chỉ có 43 ha được đầu tư
nhà lưới, kênh mương tưới tiêu; 3 cơ sở có giếng khoan công suất lớn, nguồn
nước đảm bảo cho quy trình sản xuất rau an toàn, còn lại hầu hết là giếng khoan
nhỏ hoặc dùng nước sông. Trong khi hầu hết các con sông ở Hà Nội đều bị ô
nhiễm, thì việc sử dụng nước thải đô thị cho nông nghiệp trở nên phổ biến. Nước
thải đã và đang được sử dụng để trồng lúa, rau, và nuôi cá ở vùng ngoại thành Hà
Nội, đặc biệt là vùng Thanh Trì (phía Nam TP. Hà Nội). Hầu hết các cánh đồng
lúa, rau nằm dọc hai bên bờ 4 con sông nêu trên ở quận Hoàng Mai, huyện Thanh
Trì đều được tưới bằng nước thải đô thị.
Diện tích trồng lúa và rau của quận Hoàng Mai và huyện Thanh Trì được
thống kê trong bảng sau:
Quận/huyện Diện tích trồng lúa
(ha)
Diện tích trồng rau
(ha)

tin cần thiết giúp người đầu tư đưa ra quyết định có nên đầu tư hay không. Vì mục
tiêu của cá nhân, tổ chức là lợi nhuận, một phương án chỉ được lựa chọn khi mang
lại lợi nhuận thích đáng. Ngay cả các tổ chức phi lợi nhuận thì phân tích tài chính
vẫn là một khía cạnh rất được quan tâm, các tổ chức này cũng mong muốn chọn
được những phương án có chi phí tài chính rẻ nhất mà vẫn đạt được mục tiêu của
mình. Còn đối với một hoạt động đã được thực hiện, phân tích tài chính giúp hạch
toán lại những lợi ích, chi phí, và đánh giá lời lãi của hoạt động, nhằm cung cấp
thông tin về hiệu quả tài chính của hoạt động.
Phân tích tài chính có thể hiểu đơn giản là đi so sánh lợi ích thu được và chi
phí bỏ ra được lượng hóa bằng tiền tệ đứng trên quan điểm cá nhân. Nếu lợi ích
thu được lớn hơn chi phí bỏ ra thì hoạt động được coi là mang lại hiệu quả tài
chính.
Sản xuất rau sử dụng nước thải để tưới mang lại những lợi ích và chi phí
sau:
• Lợi ích: Thu nhập cho nông dân
• Chi phí:
+ Các chi phí trực tiếp (chi phí liên quan trực tiếp đến quá
trình sản xuất, cấu thành nên giá): phân bón; thuốc BVTV; các công
cụ hỗ trợ; lao động; phí thủy lợi.
+ Chi phí gián tiếp (các chi phí nảy sinh trong quá trình sản
xuất, nhưng không được tính vào chi phí để cấu thành nên giá): chi
phí đối với sức khỏe của người nông dân.
Phương pháp phân tích kinh tế
Phân tích kinh tế là việc so sánh, đánh giá một cách hệ thống giữa chi phí
và lợi ích của dự án trên quan điểm toàn bộ xã hội. Trên góc độ cá nhân, thì lợi
nhuận là thước đo chủ yếu quyết định hành động. Còn đứng trên quan điểm lợi ích
xã hội, việc gia tăng phúc lợi của toàn xã hội sẽ được quan tâm hơn. Lợi ích của
hoạt động trên góc độ kinh tế là lợi ích có tính cộng đồng và đôi khi có thể mâu
thuẫn với lợi ích cá nhân. Một hoạt động mang lại lợi ích cho toàn xã hội lớn hơn
chi phí mà xã hội bỏ ra thì đạt hiệu quả kinh tế.

4. Chi phí thay thế/phục hồi
thiệt hại tài sản, kinh doanh
nhiên
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức
khỏe
- Ảnh hưởng ô nhiễm đến sức
khỏe
- Thiệt hại do ô nhiễm gây ra
cho cơ sở vật chất, hệ sinh thái
Phương pháp không dùng
giá thị trường
1. Chi tiêu bảo vệ/giảm thiệt
hại
2. Đánh giá hưởng thụ
3. Thị trường đại diện (chi phí
du hành)
4. Đánh giá ngẫu nhiên
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến
con người, các ngành công nghiệp, hệ
sinh thái
- Ảnh hưởng của ô nhiễm đến
giá trị tài sản, sức khỏe
- Lợi ich giải trí
- Chất lượng môi trường hiện
tại và tương lai
Bảng 1.2. Các phương pháp dùng trong đánh giá chi phí, lợi ích
Nguồn: Barry Field và Nancy Olewiler
Trong phạm vi nội dung chuyên đề, xin được đi vào phân tích một số
phương pháp sau:
• Chi phí chăm sóc sức khỏe:

như không có ý tưởng gì về giá sẽ trả cho hàng hoá môi trường - loại hàng hóa có
thể họ chưa một lần trả giá. Hoặc giả định họ biết về sự ưa thích của mình, nhưng
có thể họ sẽ nói ít đi WTP nếu họ đoán rằng câu trả lời của mình được sử dụng để
lập nên mức giá cho hàng hoá môi trường này. Theo kinh nghiệm, số tiền mà họ
nói sẵn lòng trả chỉ bằng khoảng 70-90% số tiền mà cuối cùng họ thực sự trả.
- Sự khác biệt giữa WTP và WTA: Dù cùng một người hỏi, nhưng kết quả
WTP và WTA là khác nhau. WTA thường cao hơn WTP rất nhiều. Có thể là do cá
nhân cảm giác được “chi phí của việc mất mát” (WTA) mạnh mẽ hơn là “lợi ích
của việc đạt được” (WTP). Hay có ý kiến cho rằng WTA không bị giới hạn bởi
thu nhập như WTP nên WTA sẽ cao hơn WTP. Nếu trong thực tế, hai cách đo
lường này khác nhau thì các quy định chính sách phải có đề cập đến WTP và
WTA.
- Thiên lệch về điểm khởi đầu: Việc lựa chọn mức tiền ban đầu có ảnh
hưởng đến WTP sau cùng của người được hỏi., với WTP ban đầu cao thì có thể
cho kết quả WTP sau cùng cao hơn.
1.2.4. Tác động của việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau
Trước nhất, việc sử dụng nước thải trong sản xuất rau mang lại lợi ích
chung như lợi ích của tất cả các hoạt động nông nghiệp: đảm nhận chức năng bảo
đảm nhu cầu lương thực thực phẩm; tạo ra thu nhập và công ăn việc làm cho
người nông dân; là nền tảng cho sự phát triển của các nền văn hóa - xã hội khác
nhau; đóng góp vào sự tái tạo và hạn chế sự suy thoái của môi trường (nếu được
đầu tư đúng hướng và sử dụng các công nghệ thân thiện với môi trường), góp
phần vào phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Ngoài ra, hoạt động này còn có
những tác động điển hình khác. Sau đây, chúng ta sẽ đi xét tác động của việc sử
dụng nước thải trong sản xuất rau cho từng đối tượng liên quan:
• Đối với người sản xuất
Nước thải vốn chứa nhiều chất dinh dưỡng như Nitơ, Photpho, Kali. Vì thế,
nông dân có thể tận dụng nguồn dinh dưỡng này, không cần bón nhiều phân bón
mà cây vẫn rất phát triển. Nhất là trong điều kiện giá phân bón ngày càng tăng lên
một cách chóng mặt như hiện nay thì sử dụng nước thải thực sự giúp người dân

Rau sử dụng nước thải còn có thể bị nhiễm kim loại nặng. Một số kim loại
nặng với hàm lượng thích hợp sẽ có lợi cho cơ thể nhưng nếu vượt quá mức cho
phép sẽ gây ngộ độc. Ngoài ra, một số kim loại khác xâm nhập vào cơ thể ảnh
hưởng đến thần kinh, tóc, răng, da và có thể gây ung thư.
Có thể khái quát cách thức tác động của việc sử dụng nước thải đô thị trong
sản xuất rau tới những người dân đô thị theo sơ đồ sau:
Đô thị
Nước thải
Tưới rau
Sản phẩm
Bán buôn, bán lẻ (tại ruộng, chợ)

Hình 1.2. Nước thải đô thị trong tương tác nông thôn - đô thị
Nguồn: VESDI
• Đối với môi trường
Dùng nước thải cho nông nghiệp, nhìn ở khía cạnh khác, còn có thể được
coi là việc tái sử dụng nước thải thay cho các cơ sở sản xuất, cơ sở y tế và các hộ
gia đình. Giảm được một khối lượng nước thải nhất định thải ra môi trường, từ đó
giảm ô nhiễm, suy thoái môi trường ở một nơi khác. Hơn nữa, tái sử dụng nước
thải tức là không cần nguồn nước mới, việc đó làm giảm gánh nặng về cung cấp
nước, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng vì nông nghiệp được đánh giá là
ngành sử dụng nhiều nước nhất trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, sử dụng nước thải làm lan rộng ô nhiễm nước ngầm, ô nhiễm
đất và không khí. Các chất kim loại nặng có thể tích lũy trong đất làm giảm năng
suất một số loại cây trồng. Sự di chuyển của nước thải tại khu vực sản xuất được
thể hiện trong sơ đồ sau:
Nước thải
Vào cây
rau
Đất trũng


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status