Cải cách tư pháp đảm bảo quyền con người ở Việt Nam hiện nay - thực trạng và giải pháp - Pdf 11

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu
tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền
lực nhà nước. Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề
CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước
theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực.
CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới
có chủ trương CCTP, tư pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm
cần phải cải cách để hoạt động có hiệu lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền
tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này, trong quá trình xây dựng và
hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự quan tâm đặc
biệt đến công tác CCTP. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay vào
xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu
của chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp
đã được thiết lập trên phạm vi cả nước. Tư pháp đã giữ một vị trí quan trọng đối
với thắng lợi của cách mạng Việt Nam, là công cụ đảm bảo trật tự, công bằng xã
hội, bảo vệ quyền con người.
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị
trường, đảm bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, đòi hỏi bộ máy tư
pháp phải cải cách một cách triệt để và đồng bộ. Nhận thực được yêu cầu này,
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng vấn đề CCTP, trong các văn kiện đại
hội Đảng, vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước, trong đó có CCTP được xem là
một nhiệm vụ quan trọng. Hơn thế nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cụ thể
hoá các chủ trương này thành các nghị quyết chuyên đề về hoàn thiện hệ
thống pháp luật, cải cách tư pháp; đó là, Nghị quyết số 48-NQ/TW; ngày
24/5/2005 Về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam
đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày

độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
công NNPQ ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo tốt
hơn các quyền con người- một giá trị không thể thiếu của NNPQ.
Công cuộc CCTP trong bối cảnh xây dựng NNPQ đang đặt ra nhiều
vấn đề cần phải giải quyết trên phương diện chính trị - pháp lý. Quá trình này
đòi hỏi phải tôn trọng và bảo vệ các quyền tự do của con người với tính chất
là các giá trị xã hội cao quí, được thừa nhận chung của nền văn minh nhân
loại, nếu như không được bảo vệ bằng hệ thống toà án công minh, độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật, thì khó có thể xây dựng thành công NNPQ. Chính
hoạt động CCTP sẽ góp phần làm cho: (1) cơ sở của quyền lực nhà nước thực
sự là ý chí của nhân dân; (2) đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và pháp
luật trong tổ chức và hoạt động của bộ máy công quyền; (3) các quyền tự do
của con người được đảm bảo thông qua những cơ chế pháp lý và hệ thống
pháp luật.
Xuất phát từ những bình diện đã phân tích trên cho thấy rằng việc
CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người ở Việt Nam là vấn đề cần được
nghiên cứu một cách kỹ càng cả về lý luận và thực tiễn.
1.3. Xuất phát từ hoạt động của các cơ quan tư pháp, vấn đề cải cách
tư pháp nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu bức thiết hiện nay.
Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những hạn chế của công tác
CCTP: “Chính sách hình sự, chế định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng
tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy,
chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp còn bất hợp lý…
Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử”
1
. Những
bất cập, hạn chế đó thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động tư pháp trên các
mặt sau:
- Sự tổ chức bất hợp lý của Toà án đã dẫn tới tình trạng quá tải trong

phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” còn đang có
nhiều vướng mắc. Mặc dù được coi là một ngành dọc nhưng sự tồn tại và hoạt
động của các tòa phải diễn ra và bị quản lý về mặt lãnh thổ của một cấp chính
quyền nên luôn bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cấp chính quyền tương đương.
- Việc đổi mới hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) đối
với nhiệm vụ kiểm sát tư pháp vẫn còn khá nhiều vấn đề chưa rõ. Nếu tính từ
thời điểm tiến hành cải cách tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND theo
các quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi và luật Tổ chức VKSND năm
2002 thì vẫn nhận thấy sự chưa rõ ràng về vị trí, thẩm quyền của VKSND trong
các hoạt động kiểm sát, đặc biệt là về hình thức thực hiện và giới hạn của hoạt
động kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp về kinh tế, dân sự, lao động.
- Những bất cập của hệ thống cơ quan tư pháp cũng bộc lộ rất rõ ở tình
trạng chưa rõ ràng trong quan hệ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan điều tra; ở tính phức tạp, chồng chéo, nhiều đầu mối và không hiệu quả của
hệ thống cơ quan thi hành án; ở cơ chế không mấy thuận lợi cho việc thực hiện
chế độ tranh tụng và phát huy vai trò của Luật sư; ở những hạn chế trong tổ chức
và hoạt động của các cơ quan quản lý tư pháp và các cơ quan bổ trợ tư pháp…
- Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và
năng lực nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh,
sa sút về phẩm chất. Đó cũng là tình trạng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc
của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng được yêu cầu công tác, nhất là ở cấp
huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện làm việc vừa thiếu vừa
lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với nhiệm vụ và
chức trách được giao.
Thực trạng trên cho thấy, mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn nhưng mô
hình tổ chức và hoạt động hiện nay vẫn đang hạn chế đáng kể hiệu quả của
hoạt động tư pháp. Trong bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN đòi hỏi chúng ta
phải tiếp tục đẩy mạnh CCTP nhằm mục tiêu đảm bảo một cách tốt nhất các
quyền con người.
Từ những luận giải trên cho thấy, CCTP nhằm đảm bảo các quyền con

So với xã hội nô lệ, địa vị của người nông dân trong xã hội phong kiến có
khác hơn, nhưng “trên thực tế địa vị của người nông dân chỉ khác rất ít địa vị của
nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ”, bởi lẽ “ở đâu người nông dân đều bị đối xử
như là một đồ vật, như là một súc vật thô hoặc còn tồi tệ hơn nữa”, và cũng như
nhà nước chiếm hữu nô lệ, nhà nước phong kiến với các thiết chế tổ chức và
pháp luật phải bảo vệ chế độ sở hữu của địa chủ phong kiến, duy trì các hình
thức bóc lột phong kiến, trấn áp nông dân và các tầng lớp lao động khác.
Cùng với nhà nước là nhà thờ với các thiết chế tôn giáo hà khắc đã vi
phạm các quyền con người một cách nghiêm trọng, điều này đã dẫn tới sự
phản kháng của các tầng lớp bị áp bức, song những sự phản kháng này cũng
nhanh chóng bị dẹp tan. Ý tưởng đề cao các giá trị nhân văn, nhân bản, các
quyền tự do chỉ phát triển một cách mạnh mẽ ở thời kỳ Khai sáng. Đây là thời
kỳ xuất hiện các trào lưu tư tưởng đề cao tính pháp quyền, quyền tự do của
công dân phát triển một cách hết sức mạnh mẽ, nó trở thành ngọn cờ của giai
cấp tư sản kêu gọi đông đảo những người bị áp bức chống lại các giai cấp
tầng lớp đối lập với lợi ích của giai cấp tư sản.
Trong thời kỳ này, đã xuất hiện nhiều tác phẩm cổ vũ quyền tư do cá
nhân, đòi nhà nước phải pháp lý hoá các quyền con người và đảm bảo thực
1
V.I. Lenin (1905), Toàn tập, tiếng Việt, Nxb. Tiến bộ, Mat-cơ-va, 1978, tr. 85.
2
Jean Jacques Rousseau (1762), Bàn về khế ước xã hội, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr. 39.
hiện trên thực tế. Ở giai đoạn này có thể kể đến các công trình nghiên cứu tiêu
biểu như: Những thành tố của pháp luật tự nhiên và chính trị (The Elements of
Law Natural and Politic, 1649), Công dân (The Citizent, 1651), của T.
Hobber; Chuyên luận thứ hai về chính quyền dân sự (The Second Treatise of
Civil Government, 1690), Lá thư về sự khoan dung (The Letter on Toleration,
1692)… của J. Locke; Những lá thư Ba Tư (Lettres Persanes, 1721), Tinh
thần pháp luật (The Spirit of the Laws, 1748),.. của C.L. Mongtesquier; Khế
ước xã hội (The Social Contract, 1762), của J.J. Rousseau…

Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005, tr.34.
Sự xuất hiện khái niệm quyền con người trong thời kỳ cách mạng tư sản
với nội dung ban đầu là quyền sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền tư
hữu; tiếp đến chế định quốc tịch, quyền bầu cử của công dân được thiết lập và
khẳng định, đó là các quyền tự nhiên, gắn với mỗi cá nhân. Các quyền tự nhiên
đó của con người từ chỗ chỉ là yêu sách đến sự ghi nhận, bảo đảm bằng pháp
luật của nhà nước do Nghị viện ban hành, và lúc đó sẽ nảy sinh việc phán xét
các vi phạm quyền con người cũng như các thiết chế quyền lực để bảo vệ
quyền con người, đó là các thiết chế tư pháp. Và chỉ đến lúc này mới xuất hiện
yêu cầu cải cách, cải tổ các thiết chế quyền lực nhà nước để đảm bảo thực hiện
tốt các quyền con người, trong đó có cải cách trên lĩnh vực tư pháp.
Cải cách bộ máy nhà nước để quản lý xã hội một cách hiệu quả, đảm
bảo việc thực hiện các quyền con người là yêu cầu đặt ra đối với sự phát triển
dân chủ ở mỗi quốc gia. Cùng với đó, vào giữa thế kỷ XX, vấn đề quyền con
người trở thành vấn đề mang tính toàn cầu, thu hút được sự quan tâm của
nhiều quốc gia và tổ chức quốc tế. Các công trình nghiên cứu về quyền con
người ở giai đoạn này tập trung vào nhiều vấn đề như quyền dân sự, chính trị,
văn hoá; quyền của các nhóm dễ bị tổn thương… Chúng ta thấy, có sự kết
hợp chặt chẽ, sự giao thoa của hai vấn đề nghiên cứu, đó là cải cải tư pháp và
quyền con người. Trong hoạt động thực tiễn, quyền con người chỉ được đảm
bảo thực hiện nghiêm túc khi có sự đảm bảo bởi một nền tư pháp nghiêm
minh, hiệu lực.
Trong khuôn khổ nghiên cứu này, chúng tôi chỉ liệt kê, mô tả các công
trình nghiên cứu cải cách tư pháp có liên quan đến việc đảm bảo quyền con
người. Hoạt động tư pháp là hoạt động có tác động mạnh mẽ đến việc thực hiện
quyền tự do, quyền dân chủ, quyền sống của con người, nó biểu hiện qua các
hoạt động tư pháp như: khởi tố, điều tra, tạm giam, tạm giữ, xét xử, thi hành
án… Các công trình nghiên cứu này thường được chia làm hai loại: (1) các công
trình nghiên cứu của cá nhân; (2) các báo cáo, văn kiện của các tổ chức quốc tế.
- Danh mục các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài có

Nghiên cứu về CCTP, đảm bảo quyền con người là vấn đề được Đảng,
Nhà nước cùng các nhà khoa học hết sức quan tâm, đặc biệt kể từ khi chúng
ta thực hiện công cuộc đổi mới. Đã có nhiều công trình nghiên cứu vấn đề
này, các công trình tiếp cận vấn đề dưới nhiều góc độ, mục tiêu, phương pháp
nghiên cứu khác nhau; thể hiện công trình dưới nhiều dạng khác nhau như:
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ; đề tài nghiên cứu khoa học; sách chuyên
khảo, các bài đăng tạp chí chuyên ngành… Để khảo sát tình hình nghiên cứu
của vấn đề, chúng tôi đã phân loại các cách tiếp cận như sau:
- Tiếp cận trên góc độ nghiên cứu lý luận chung về quyền con người,
gồm có các công trình nghiên cứu: (1) Chương trình KX-07 (do GS.TS Phạm
Minh Hạc làm chủ nhiệm) : Con người, mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế - xã hội; mã số 07-16; chủ nhiệm GS, TS Hoàng Văn Hảo; công trình
nghiên cứu đã được Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người biên tập hai tập
chuyên khảo Quyền con người, quyền công dân, xuất bản năm 1995; (2)
Quyền con người trong thế giới hiện đại do PGS. Phạm Khiêm Ích và GS.TS
Hoàng Văn Hảo đồng chủ biên, Viện Thông tin khoa học xã hội xuất bản năm
1995…
- Tiếp cận trên góc độ xây dựng, hoàn thiện pháp luật, gồm có: Luận án
tiến sỹ luật học của tác giả Nguyễn Văn Mạnh; luận văn thạc sỹ của tác giả
Hoàng Hùng Hải; Mai Thị Chung,Vũ thị Thu Quyên…
- Tiếp cận trên góc độ tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước (trong
đó có cơ quan tư pháp) trong việc bảo đảm quyền con người có các công trình:
Luận án tiến sỹ của tác giả: Đinh Xuân Nam, Nguyễn Văn Tuân,
Tường Duy Kiên, Nguyễn Huy Hoàn,…luận văn thạc sỹ của Nguyễn Tiến
Long, Lê Minh Thắng;
Đề tài KX-05-07 (thuộc chương trình KX.05) về Nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; chủ nhiệm Nguyễn Văn Thảo,
nghiệm thu 2005;
Đề tài KX-07-16: Về các điều kiện đảm bảo quyền con người, quyền

của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay.
6. Kết cấu Báo cáo tổng hợp nghiên cứu
Báo cáo kết quả tổng hợp nghiên cứu gồm 3 chương, 9 tiết với các nội
dung sau:
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG QUÁ TRÌNH CẢI CÁCH TƯ PHÁP
1.1. CƠ QUAN TƯ PHÁP- MỘT TRONG NHỮNG THIẾT CHẾ
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƯỜI HIỆN NAY
1.1.1. Quan niệm về quyền con người và đảm bảo quyền con người
trong quá trình cải cách tư pháp
1.1.1.1. Quan niệm chung về quyền con người.
Quyền con người là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời của khái
niệm quyền con người gắn liền với các cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ
chế độ phong kiến, xã hội thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó
nằm trong Luật về các quyền (1689); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn độc lập
(1776) và Hiến pháp (bổ sung, 1789); ở Pháp, nằm trong Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền (1789); và về sau khái niệm này được ghi nhận trong các
văn kiện quốc tế do Liên hiệp quốc khởi xướng.
Theo quan điểm của các nhà triết học, chính trị học thời kỳ Khai sáng
(thế kỷ XVII-XVII) thì quyền con người là các quyền không thể tước bỏ
được; đây là các quyền tự nhiên (natural right) do tạo hóa ban cho họ. Tiêu
biểu cho quan điểm này là Thomas Hobbes (1588-1679), Jonh Locke
(1632-1704) và Thomas Paine (1731-1809) Đây là những quyền mang tính
bẩm sinh, vốn có của các cá nhân, khi sinh ra đã được thừa hưởng, bởi vì họ
là thành viên của nhân loại. Các quyền này không không một xã hội hay một
chính phủ nào có thể ban phát, xóa bỏ hoặc “chuyển nhượng” và nó không
phụ thuộc vào các phong tục, tập quán, truyền thống văn hóa,… đây là các
quyền vốn có của các cá nhân. Các quyền đó bao gồm: quyền tự do ngôn
luận, quyền tự do tín ngưỡng và nhận thức, quyền tự do lập hội và quyền

nhận từ lâu. Trong lịch sử phát triển của quyền con người, nhân loại đã chứng
kiến sự tồn tại của các hình thức pháp lý nay. Khởi đầu là Bộ luật cải cách,
của Urukagina, đây là bộ luật được biết đến sớm nhất (khoảng năm 2350
TCN), trong bộ luật này đã nói đến những khái niệm về quyền con người, tuy
nhiên văn bản chính thức bộ luật đó hiện vẫn chưa được tìm thấy.
Một trong những bộ luật cổ hiện còn ngày nay là Luật Ur-Nammu
(khoảng năm 2050 TCN) và Bộ luật Hammurabi (khoảng 1780 TCN) đây là
những bộ luật xa xưa nhất ghi nhận về các quyền con người, kể cả nữ quyền,
quyền trẻ em, và quyền của nô lệ. Mặt khác, quyền con người vẫn còn được
ghi nhận trong các tài liệu tôn giáo, dĩ nhiên không nhiều lắm. Kinh Vệ đà,
Kinh Thánh, Kinh Koran và sách văn tuyển Luận Ngữ của Khổng Tử cũng
nằm trong số những tài liệu ra đời sớm đã nêu ra những vấn đề về nghĩa vụ,
quyền, và bổn phận của con người.
Hiện nay trụ Cyrus (hay Cyrus Cylinder) được cho là hiến chương đầu
tiên của nhân quyền thế giới, “ra đời trước hiến chương Magna Carta hơn một
ngàn năm”. Trụ này có từ thời hoàng đế Cyrus Đại đế (559-530 TCN), người
sáng lập ra nước Iran, đã có một bản mẫu của trụ được Iran tặng cho Liên
hiệp Quốc vào năm 1971.
Hiến chương Magna Carta của người Anh lần đầu tiên được công bố
năm 1215. Hiến chương này có ảnh hưởng đến sự phát triển của thông luật
(common law) và nhiều văn kiện, tài liệu liên quan đến quyền con người như
Hiến pháp Hoa Kỳ, đặc biệt là Đạo luật Nhân quyền (Bill of Rights)… Hiến
chương Magna Carta còn là một trong những tài liệu pháp lý đầu tiên tiết chế
quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền của công dân nước đó. Hiện nay,
giá trị còn tồn tại lớn nhất của nó là luật bảo thân (habeas corpus - thân xác
thuộc về người). Quyền này phát sinh từ các điều 36, 38, 39 và 40 của Hiến
chương Magna Carta năm 1215; nó cũng bao gồm due process of law (luật
tôn trọng tất cả các quyền hợp pháp của công dân)
1
.

phân biệt chủng tộc, quyền bình đẳng về tư pháp...
Theo một thống kê của Liên hiệp quốc thì hiện nay đã có khoảng hơn
50 định nghĩa khác nhau về quyền con người đã được công bố. Theo cách tiếp
cận của Liên hiệp quốc thì quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn
cầu (universal legal guarantees) có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm
chống lại những hành động (action) hoặc sự bỏ mặc (omissions) mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Bên cạnh đó, người ta vẫn tiếp cận quyền con người dưới khía cạnh là
những sự được phép (entitlement) mà tất cả các thành viên của cộng đồng
nhân loại, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tôn giáo, địa vị xã hội…; đều
có ngay từ khi sinh ra, đơn giản chỉ vì họ là con người (cách tiếp cận này
mang dấu ấn của học thuyết về các quyền tự nhiên)
1
.
Khi được thông qua Tuyên ngôn thế giới về quyền con người trở thành
một phần không thể thiếu của hệ thống Liên hiệp quốc. Mặc dù, Liên hiệp
quốc đã lên tới 191 thành viên nhưng không một quốc gia nào thực sự nghi
ngờ tuyên ngôn này, nhờ đó đến nay phần lớn nội dung của tuyên ngôn đã trở
thành tập quán luật quốc tế về quyền con người, dựa trên sự chia sẻ các giá trị
chung đã được nhất trí theo khuôn khổ của Liên hiệp quốc, trong đó bao gồm
các yếu tố hình thành nên đạo đức toàn cầu.
Theo quan điểm được đông đảo cộng đồng quốc tế thừa nhận thì quyền
con người mang các thuộc tính cơ bản là: tính phổ biến, tính không thể
chuyển nhượng, tính không thể phân chia, tính liên hệ và phụ thuộc lẫn nhau.
1
Xem: Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã Khánh Tùng - đồng chủ biên (2009), Giáo trình lý
luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, trang 41-42.
Ở Việt Nam, đã có nhiều chuyên gia, nhà nghiên cứu đưa ra những
định nghĩa, cách tiếp cận khác nhau về vấn đề quyền con người. Mặc dù còn có
những điểm khác nhau, song phần lớn họ đều thống nhất quyền con người là

nhân văn-Khoa Luật, Hà Nội, 1996, tr. 100.
trong một năm, do luật quy định thành toà án, làm việc kéo dài bao lâu tuỳ
theo sự cần thiết”
1
. Như vậy, theo Montesquieu, cơ quan tư pháp là toà án, là
cơ quan xét xử, cơ quan thực hiện nhánh quyền lực tư pháp.
Nối tiếp những tư tưởng của Mongtesquie, mười bốn năm sau, trong tác
phẩm Bàn về khế ước xã hội (1762), J.J. Rousseau đã viết: “Khi người ta
không thể định rõ một tỷ lệ chính xác giữa các bộ phận cấu thành của nhà
nước, hoặc khi mà những nguyên nhân khách quan làm suy yếu không ngừng
mối quan hệ giữa các bộ phận ấy, thì người ta phải đặt một cơ quan đặc biệt,
không tham dự vào bất cứ một bộ phận nào. Cơ quan này đặt mỗi bộ phận
vào đúng vị trí của nó, làm mối dây liên lạc và yếu tố trung gian giữa Chính
phủ với nhân dân, hoặc giữa Chính phủ với cơ quan quyền lực tối cao, hoặc
giữa cả ba vế ấy khi cần. Cơ quan này tôi gọi là cơ quan tư pháp (tribunal)”
2
.
Với quan niệm như thế này của Rousseau về cơ quan tư pháp thì không có gì
khác biệt với Montesquieu, theo đó nói đến cơ quan tư pháp phải hiểu đó là
toà án, là hoạt động xét xử.
Chịu ảnh hưởng tư tưởng của các luật gia thời Khai sáng, khi làm bản
Hiến pháp năm 1787, các nhà lập hiến Hoa Kỳ đã quy định ở Điều III, khoản
1 như sau: “Quyền lực tư pháp Hoa Kỳ sẽ được trao cho Toà án tối cao và
những toà án cấp dưới mà Quốc hội có thể thiết lập trong một số trường hợp”.
Và hầu hết các hiến pháp của các nước tư bản như Nhật, Pháp, Đức, Thuỵ
Điển… sau này khi quy định về cơ quan tư pháp đều coi đó là các toà án. Như
vậy, quan niệm có tính chung nhất theo nghĩa hẹp về về cơ quan tư pháp từ
học thuyết đến xây dựng hiến pháp thành văn của các nước có lịch sử lập hiến
lâu năm được hiểu là các toà án.
Như vậy có thể nói rằng, trên phương diện lý thuyết cũng như trong

giải quyết. Định chế đóng vai trò có thể phán xử tính đúng đắn trong hành vi
xử sự của một cá nhân, tổ chức nào đó là toà án. Vì vậy, thông thường khi nói
đến tư pháp là nói tới công tác xét xử và những hoạt động phục vụ hoặc liên
quan trực tiếp tới hoạt động xét xử được thực hiện trên cơ sở các qui định của
1
Hoàng Phê- chủ biên (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng và Trung tâm từ điển học, tr. 1034.
2
Viện Khoa học pháp lý- Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb. Từ điển bách khoa và Nxb.
Tư pháp; Hà Nội, tr. 828.
Hiến pháp và pháp luật.
Một trong những nguyên tắc quan trọng không thể thiếu của hoạt động
tư pháp đó là tính khách quan, vô tư giữa các chủ thể tham gia tố tụng; vi
phạm nguyên tắc này thì phán quyết của cơ quan tư pháp sẽ không đảm bảo
được tính công bằng, khi đó các bên tranh chấp sẽ không cần đến các cơ quan
tư pháp nữa. Chính vì vậy, những người tham gia vào các hoạt động tư pháp
phải được coi là những người đại diện cho nhà nước, nhân danh và bảo vệ
công lý, ở họ nguyên tắc công bằng, bình đẳng, khách quan là những phẩm
chất quan trọng cần phải có.
Trong nhà NNPQ, tư pháp giữ vai trò hết sức quan trọng trong việc
đảm bảo tính thượng tôn của pháp luật và thực hiện quyền làm chủ, quyền
giám sát tối cao của nhân dân đối với bộ máy nhà nước. Quá trình xây dựng
NNPQ đòi hỏi tư pháp phải đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Quyền tư pháp phải là một quyền độc lập. Một trong những nguyên tắc
quan trọng của tư pháp là tính độc lập trong hoạt động, chỉ khi nào tư pháp độc
lập thì tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật mới được đảm bảo, mới có khả
năng kiểm soát được quyền lực của các cơ quan nhà nước khác và cũng là điều
kiện quan trọng để đảm bảo thực hiện các quyền con người. Có thể nói rằng,
phần lớn các cuộc CCTP của các quốc gia đều tập trung vào việc đảm bảo và
nâng cao tính độc lập của tư pháp trong cơ cấu bộ máy nhà nước.
- Tính tối cao của pháp luật được tôn trọng, tư pháp phải trở thành biểu

“các thủ tục liên quan đến chính quyền”. Vì vậy, CCTP xét đến cùng được hiểu
là sự sửa đổi, xây dựng pháp luật theo một chế độ mới, đối tượng của CCTP có
1
Ngô Huy Cương (2006), Góp phần bàn về cải cách pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Nxb. Tư pháp,
Hà Nội, trang 6.
thể là các qui định pháp luật, mà chưa nói tới các định chế thực hiện.
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả tiếp cận CCTP với ý nghĩa là quá
trình đổi mới toàn diện hệ thống tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử với
mục tiêu làm cho tổ chức và hoạt động của hệ thống tư pháp đảm bảo tính công
bằng, dân chủ, minh bạch đáp ứng yêu cầu bảo vệ công lý, bảo đảm các quyền
của con người trong điều kiện xây dựng NNPQ XHCN.
Ở nước ta, CCTP nằm trong tổng thể việc thực hiện quyền lực nhà
nước và đảm bảo các quyền con người của công dân. Chúng ta xây dựng
NNPQ, vì vậy, việc tôn trọng pháp luật được chú trọng và đề cao. Do đó, tư
pháp với tư cách là người bảo vệ pháp luật cũng phải được đề cao, có vị trí
xứng đáng trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Xét trong một quan hệ nhất định,
tư pháp sẽ thực hiện chức năng kiểm soát cần thiết đối với lập pháp và hành
pháp trong trường hợp hoạt động của lập pháp và hành pháp làm tổn hại tới
các quyền tự do, dân chủ của công dân, hoặc Hiến pháp và pháp luật; do đó,
CCTP sẽ đụng chạm đến quyền hành pháp và lập pháp. Việc CCTP cần
hướng tới việc đề cao vai trò của tư pháp, tính độc lập trong xét xử của Tòa
án; tạo ra khả năng, cơ chế để thực hiện những quyền năng vốn có của tư
pháp, làm cho quyền lực nhà nước có hiệu lực và hiệu quả. Vì vậy, CCTP cần
hướng tới đối tượng và mục tiêu sau:
Về đối tượng của CCTP. Theo nghĩa hẹp, đối tượng của CCTP ở Việt
Nam hiện nay đó là toàn bộ hệ thống và hoạt động thực tiễn của Toà án, của
đội ngũ thẩm phán và các qui định của pháp luật có liên quan mà CCTP tác
động đến để đạt được kết quả cuối cùng với tính chất là các chế định pháp lý
và các giá trị tinh thần. Theo nghĩa rộng thì đối tựơng của CCTP là toàn bộ hệ
thống toà án, hệ thống các cơ quan bảo vệ pháp luật, các cơ quan bổ trợ tư pháp

Trích đoạn Giai đoạn từ năm 1959 đến năm Giai đoạn từ năm 1980 đến năm Giai đoạn từ năm 1992 đến nay Về công tác chuyên môn, nghiệp vụ. Đổi mới tổ chức và các nguyên tắc hoạt động của TAND
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status