vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên việt nam hiện nay - Pdf 11

LUẬN VĂN:

Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống
cho sinh viên Việt Nam hiện nay

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
nhân loại đang sống trong những năm đầu của thế kỷ 21, thế kỷ của sự bùng nổ
về thông tin khoa học và kỹ thuật hiện đại, tiên tiến nhất từ trước đến nay. Những thành

tạo ra cái mới, nhưng lại không thể tách rời khỏi cội nguồn. Phát triển phải dựa trên cội
nguồn, bằng cách phát huy cội nguồn, trở về cội nguồn, giữ được cội nguồn. Cội nguồn
đó của mỗi dân tộc là văn hóa (cốt lõi là những giá trị luân lý đạo đức).
Thực tiễn chứng tỏ rằng, tương lai của mỗi dân tộc phụ thuộc một phần rất lớn
vào thế hệ trẻ nói chung, sinh viên nói riêng. Liệu chúng ta có thể giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa khi thanh niên bị phai nhạt lý tưởng, thiếu ý thức giữ gìn những giá trị
truyền thống dân tộc? Trong những điều kiện mới của đất nước, chúng ta đã chuẩn bị "hành
trang" gì cho họ? Điều tiên quyết và không thể thiếu đó là "truyền thống dân tộc", những
truyền thống đáng tự hào của lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước đã giúp
chúng ta "hội nhập" mà không bị "hòa tan", phát triển mà không bị "mất gốc", trọng
truyền thống mà không bảo thủ, tất cả những điều đó đã và đang giúp cho thanh niên Việt
Nam nói chung - sinh viên Việt Nam nói riêng nâng cao hơn nữa bản lĩnh của mình, đứng
vững trước mọi thử thách khắc nghiệt của cuộc sống hiện đại.
Với ý nghĩa đó, vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc là vấn đề hết
sức cấp bách trong giai đoạn hiện nay. Đó cũng là lý do để tác giả của luận văn chọn: "
Vấn đề giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt Nam hiện nay (qua
thực tế một số trường đại học và cao đẳng ở thành phố Hà Nội)" làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xung quanh vấn đề đạo đức truyền thống những năm gần đây đã có nhiều công
trình nghiên cứu ở dưới các góc độ khác nhau, một số bài viết đã đề cập đến khía cạnh

này hay khía cạnh khác của vấn đề, cụ thể như: "Giá trị tinh thần truyền thống Việt Nam"
do Trần Văn Giàu chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1980; "Biện chứng của truyền
thống" của Hà Văn Tấn, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Về truyền thống dân tộc" của
Trần Quốc Vượng, Tạp chí Cộng sản, số 3-1981; "Cái truyền thống và cái hiện đại trong
sự nghiệp xây dựng con người mới ở nước ta" của Đỗ Huy, Tạp chí Thông tin Khoa học
xã hội, số 5-1986; "Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, một nhu cầu phát triển
của xã hội hiện đại" của Lương Quỳnh Khuê, Tạp chí Triết học, số 4-1992; "Tìm hiểu
định hướng giá trị của thanh niên Việt Nam trong điều kiện kinh tế thị trường" do Thái
Duy Tuyên chủ biên, Hà Nội, 1994; "Giá trị - định hướng giá trị nhân cách và giáo dục

pháp khắc phục" của Nguyễn Đình Tường, Tạp chí Triết học, số 6, 2002; "Khoa học
công nghệ và đạo đức trong điều kiện kinh tế thị trường" của Nguyễn Đình Hòa, Tạp chí
Triết học, số 6, 2002; "Từ "cái thiện" truyền thống đến "cái thiện" trong cơ chế thị
trường ở Việt Nam hiện nay" của Nguyễn Hùng Hậu, Tạp chí Triết học, số 8, 2002;
"Quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại trong giáo dục đạo đức cho thanh
niên Việt Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ Triết học của Lê Thị Hoài Thanh, 2002; "Tiêu
chuẩn đạo đức của người cán bộ lãnh đạo chính trị hiện nay" của Trần Văn Phòng, Tạp
chí Lý luận chính trị, số 5, 2003 v.v
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, bài viết trên đều có ý nghĩa to lớn đối với
việc kế thừa và phát huy những giá trị đạo đức truyền thống hiện nay ở nước ta. Tuy
nhiên, những công trình này chưa đề cập một cách trực tiếp đến việc giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở phân tích thực trạng giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho
sinh viên các trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội và nguyên nhân của nó, từ đó đưa ra
phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục giá trị đạo
đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Hệ thống hóa những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, từ đó xác định tầm
quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích thực trạng việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống cho sinh viên các
trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội hiện nay và nguyên nhân của nó.
- Đề xuất phuơng hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc cho sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay (qua thực tế thành phố Hà Nội).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

đạo đức truyền thống dân tộc mãi mãi là những chuẩn mực đạo đức mà mỗi con người
Việt Nam luôn hướng tới.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

Chương 1
Tầm quan trọng và yêu cầu của việc giáo dục
giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay

1.1. Tầm quan trọng của việc giáo dục giá trị đạo đức truyền thống dân tộc
cho sinh viên Việt Nam hiện nay
1.1.1. Giá trị và giá trị đạo đức truyền thống
Thuật ngữ "giá trị" ra đời cùng với sự ra đời của triết học. Nói cách khác, ngay từ
đầu, gắn với triết học đã có những hiểu biết về giá trị và giá trị học. Trước thế kỷ XIX, những
kiến thức về giá trị học đã gắn liền với những tri thức triết học. Sau này, khi khoa học có sự
phân ngành, thì giá trị học tách ra thành một môn khoa học độc lập và thuật ngữ giá trị được
dùng để chỉ một khái niệm khoa học.
Khái niệm "giá trị" trở thành trung tâm của giá trị học, nó được sử dụng trong các
lĩnh vực như: triết học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học Trong lĩnh vực
kinh tế học, "giá trị" chỉ sức mạnh của vật này khống chế lại vật khác khi trao đổi với
nhau, để bộc lộ giá trị thì vật phẩm được làm ra đó phải có ích cho cuộc sống con người
và đáp ứng được nhu cầu của con người. Chính vì lẽ đó trong kinh tế, giá trị là yếu tố
hàng đầu. C.Mác viết: "Lao động có một sức sản xuất đặc biệt, hoạt động là một lao động
được nhân lên cấp số nhân, hay là một khoảng thời gian như nhau, nó tạo ra giá trị cao
hơn so với một lao động giá trị trung bình cùng loại" [40, tr. 104-105].
Trong triết học, chủ nghĩa duy tâm chủ quan coi giá trị là hiện tượng của ý thức,
là biểu tượng của thái độ chủ quan của con người đối với khách thể mà người đó đang
đánh giá.


Thứ nhất, giá trị là tất cả những cái gì mang ý nghĩa tích cực, gắn với cái đúng,
cái tốt, cái đẹp, được con người thừa nhận và xem nó là nhu cầu hoặc có một vị trí quan
trọng trong đời sống của mình, là những thành tựu góp phần vào sự phát triển của xã hội.
Thứ hai, giá trị không phải là một cái gì nhất thành bất biến mà nó luôn vận động
biến đổi theo thời gian và không gian sao cho phù hợp trong từng thời điểm nhất định.
Chính vì vậy, trên thực tế không phải những cái gì đã có giá trị trong quá khứ đều giữ
nguyên giá trị đối với hiện tại. Điều đó cho thấy giá trị mang tính lịch sử khách quan, sự
ra đời tồn tại hay mất đi của một giá trị nào đó không phụ thuộc vào ý thức của con người
mà do yêu cầu của từng thời đại nhất định trong lịch sử.
Thứ ba, giá trị đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội, giá trị
giúp con người điều chỉnh hành vi của mình trong cuộc sống, giá trị giúp con người định
hướng và xác định mục đích cho hành động của mình, là động cơ thúc đẩy hoạt động của
con người.
Trên thực tế đã có rất nhiều cách phân loại giá trị. Dựa vào tiêu chí mục đích
phục vụ cho nhu cầu của con người, người ta chia ra làm hai loại giá trị: Giá trị vật chất
và giá trị tinh thần.
Giá trị vật chất thể hiện rõ nét trong đời sống kinh tế, nó quyết định sự tồn tại và
phát triển của xã hội loài người. Giá trị tinh thần là những phẩm chất đặc biệt về trí tuệ,
tình cảm, ý chí, nó được thể hiện trên các lĩnh vực tư tưởng, đạo đức, văn hóa, nghệ
thuật, phong tục tập quán Những phẩm chất đó ăn sâu, bám rễ vào trong đời sống tinh
thần và chúng trở thành các chuẩn mực để con người đánh giá phân biệt cái đúng, cái sai,
cái xấu, cái đẹp trong đời sống hàng ngày, trong quan hệ giữa con người với con người,
con người với xã hội.
Giá trị đạo đức là một bộ phận trong hệ giá trị tinh thần của đời sống xã hội và
được con người lựa chọn, nhằm điều chỉnh và đánh giá hành vi ứng xử giữa con người
với con người, con người với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi
truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội. Giá trị đạo đức biến đổi theo sự biến đổi
của đời sống xã hội.


sống con người. Nó góp phần duy trì, bảo vệ và phát triển cuộc sống của chúng ta. Tóm lại,
sự nhận thức truyền thống không tách rời nhận thức các giá trị.
Giá trị đạo đức truyền thống là một thành tố cấu thành của hệ giá trị tinh thần
của dân tộc Việt Nam, nó là nhân lõi, là sức sống bên trong của dân tộc. Giá trị đạo đức
truyền thống dân tộc là sự kết tinh toàn bộ tinh hoa của dân tộc được xác định là những
chuẩn mực, những khuôn mẫu lý tưởng, những quy tắc ứng xử giữa con người với con
người, giữa con người với tự nhiên (mà ngày nay ta gọi là giá trị đạo đức sinh thái). Đặc
điểm cơ bản của truyền thống nói chung, giá trị đạo đức truyền thống nói riêng là sự kế
thừa. Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam đã rèn luyện và tạo
nên những thế hệ người Việt Nam giàu lòng yêu nước, yêu thương con người, cần cù,
thông minh, sáng tạo, chịu thương, chịu khó Những đức tính đó đã trở thành những giá
trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà hàng ngàn đời nay chúng ta vẫn nâng niu
quý trọng.
Nói đến giá trị truyền thống của một cộng đồng dân tộc, chính là nói đến truyền
thống tốt đẹp của cộng đồng dân tộc đó. Nó chính là những giá trị bình ổn, tốt đẹp, có
thể lưu truyền từ đời này qua đời khác, là những cái cần được giữ gìn phát huy phát triển
cho phù hợp với xã hội hiện tại.
Trong hệ giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam, giá trị đạo đức truyền thống là
một bộ phận thiết yếu, nổi lên hàng đầu, tạo nên cốt lõi của hệ giá trị tinh thần đó. Chính
vì vậy, khi nói đến những giá trị đạo đức truyền thống dân tộc ta, là nói đến những phẩm
chất tốt đẹp, quý báu đã được hình thành và bảo lưu trong suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc Việt Nam. Giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc ta được cô đúc, được thử thách và
tái tạo qua nhiều thế hệ khác nhau, theo những bước thăng trầm của lịch sử, nó chứa
đựng một tiềm năng hết sức to lớn và bền vững, nó chính là sức mạnh vốn có của dân tộc
Việt Nam, giúp cho dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển. Giá trị đạo đức truyền thống
của dân tộc ta do chính cộng đồng người Việt Nam tạo lập trong quá trình dựng nước và

giữ nước, với tất cả những điều kiện lịch sử đặc thù riêng vốn có, đã tạo nên một bản sắc
hết sức độc đáo.
1.1.2. Nội dung cơ bản của một số giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt

đời sống, trở thành lối sống, cách ứng xử ở đời của người Việt Nam và được Việt hóa.
Đạo gia của Lão Tử cũng góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống vốn có
của dân tộc ta, nó góp phần làm mạnh mẽ thêm tinh thần đoàn kết thân ái, gắn bó và tinh
thần chống áp bức, đô hộ khi có thời cơ.
Văn hóa Việt Nam không chỉ giao lưu với văn hóa phương Đông mà còn có sự
giao lưu với văn hóa phương Tây, đặc biệt là văn hóa Pháp. Tuy nhiên, khi các trào lưu
văn hóa, tôn giáo đó du nhập vào Việt Nam đã được nhân dân Việt Nam kế thừa có chọn
lọc để hình thành nên những nét riêng đặc trưng cho mình, nhưng cái riêng đó nó vẫn
luôn ẩn chứa cái chung tạo nên sự tương đồng trong việc hình thành nên các giá trị đạo
đức của các dân tộc khác trên thế giới.
Cho đến nay, văn hóa Việt Nam tuy có nhiều thay đổi trên nhiều phương diện
nhưng vẫn giữ được cốt cách, bản sắc văn hóa riêng của mình, hội nhập mà không hòa
tan, không đánh mất mình và vẫn giữ được những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
quý báu của dân tộc. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VIII) "Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc", đã khẳng định:
Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền
vững, những tinh hoa được vun đắp nên qua lịch sử hàng ngàn năm đấu tranh
dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn; lòng tự tôn, tự cường
dân tộc; tinh thần cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc;
lòng nhân ái khoan dung, trọng nghĩa tình đạo lý; đức tính cần cù sáng tạo
trong lao động; là đức hy sinh cao thượng tất cả vì độc lập dân tộc, vì hạnh phúc

của nhân dân; là sự tế nhị trong cư xử, tính giản dị trong lối sống [10, tr. 10-
11].
Xung quanh việc xác định các giá trị đạo đức truyền thống dân tộc Việt Nam, đã có
rất nhiều quan điểm của các học giả, các nhà khoa học bàn về vấn đề này.
Giáo sư Vũ Khiêu cho rằng, những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt
Nam bao gồm: lòng yêu nước, truyền thống đoàn kết, lao động cần cù và sáng tạo; trong
đó yêu nước là bậc thang cao nhất trong hệ thống giá trị đạo đức của dân tộc [25, tr. 74-

Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam ngay từ đầu đã gắn bó con
người với thiên nhiên, với quê hương xứ sở của mình, chính vì vậy truyền thống yêu
nước của dân tộc Việt Nam bắt nguồn từ tình yêu đối với quê hương làng xóm, yêu cây
đa, bến nước, sân đình, nơi có ông bà, cha mẹ, vợ chồng, anh chị em, con cái, bạn bè, bà
con hàng xóm, nơi có mồ mả tổ tiên. Nơi con người hàng ngày vất vả chiến đấu với thiên
nhiên để duy trì và xây dựng cuộc sống.
Lịch sử của dân tộc Việt Nam gắn liền với lịch sử chống giặc ngoại xâm. Vì vậy,
yêu nước trước hết là tinh thần chiến đấu chống giặc ngoại xâm của dân tộc. Cho dù ở
hoàn cảnh nào, nhân dân Việt Nam vẫn luôn kiên cường bất khuất, "thà hy sinh tất cả chứ
nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ", già trẻ gái trai nhất tề
đứng lên đánh giặc, "còn cái lai quần cũng đánh". Chính vì vậy mà trải qua hơn một ngàn
năm Bắc thuộc, ông cha ta vẫn bám trụ đến cùng, giữ đất, giữ làng, gắn bó với mồ mả tổ
tiên, giữ vững nơi chôn rau, cắt rốn của mình. Kiên quyết chống lại chính sách đô hộ của
ngoại bang, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào tinh thần yêu
nước của dân tộc Việt Nam không hề giảm sút mà nó luôn luôn được hun đúc, âm ỉ cháy
trong lòng mỗi người dân nước Việt.
Tinh thần yêu nước của dân tộc Việt Nam thể hiện ngay từ thuở vua Hùng dựng
nên nước Văn Lang cho đến thời đại Hồ Chí Minh. Với hơn 1000 năm đấu tranh giành

độc lập từ 197 (TCN) đến 938 (SCN), đầu tiên là cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, cho đến
cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền đánh quân Nam Hán với chiến thắng giòn giã, đã mở ra một
thời kỳ mới cho lịch sử dân tộc. Từ 938 - 1789 dân tộc ta liên tiếp đánh tan quân xâm lược
Tống, Nguyên, Minh, Thanh Đến thời kỳ chiến tranh giải phóng dân tộc: từ giữa thế kỷ
XIX đến năm 1975, chúng ta đã đánh thắng cả hai tên đế quốc to: Pháp, Mỹ. Với chiến
dịch Hồ Chí Minh lịch sử, chúng ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước,
giang sơn thu về một mối, nước nhà hoàn toàn độc lập. Tại Đại hội lần thứ II của Đảng Lao
động Việt Nam (11-2-1951), Bác Hồ nói: Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một
truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy
lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy
hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước.

đánh bại quân Thanh còn cấp lương thảo và phương tiện cho đám tàn quân về nước.
Hồ Chủ tịch là hiện thân của lòng nhân ái, nhân nghĩa. Xuất phát từ lòng thương
yêu con người - người lao động, yêu quê hương đất nước, Bác đã bôn ba tìm đường cứu
nước, giải phóng dân tộc. Cả cuộc đời mình, Bác hy sinh cho độc lập dân tộc và hạnh
phúc của nhân dân. Đúng như nhà thơ Tố Hữu viết: "Bác ơi tim Bác mênh mông thế, ôm cả
non sông mọi kiếp người". Lòng nhân ái của Người đã trở thành sức mạnh, nó đã thấm sâu
vào chủ trương đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta, có tác dụng cảm hóa hàng
vạn con người lầm đường lạc lối, theo kẻ thù chống lại nhân dân. Bác xem họ như là
những đứa con "lạc bầy" cần được cưu mang. Bác nói: Giống như bàn tay cũng có ngón
dài ngón ngắn, nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy chục triệu người, có
người thế này, người thế khác, nhưng tất cả đều là dòng dõi tổ tiên ta, đều là người Việt
Nam, nên cần phải khoan dung đại lượng. Hàng năm, Đảng và Nhà nước thường có những
đợt giảm án cho các phạm nhân cải tạo tốt, điều đó thể hiện lòng nhân ái của Đảng và Nhà
nước ta.
Ngày nay, truyền thống đó được thể hiện trong đường lối đối ngoại của Đảng:
"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa

bình, độc lập và phát triển". Lòng nhân ái của người Việt Nam cũng là lòng yêu chuộng
hòa bình và tình hữu nghị giữa các dân tộc. Trong quan hệ với các nước láng giềng, nhân
dân ta bao giờ cũng trọng tình hòa hiếu, cố gắng tránh xảy ra những xung đột.
Trong đường lối đối nội, Đảng ta đã khơi dậy các phong trào "uống nước nhớ
nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng, các gia đình thương
binh liệt sĩ, giúp đỡ những người già cả neo đơn không nơi nương tựa. Phát động phong
trào xóa đói giảm nghèo, trợ giúp các dân tộc vùng sâu vùng xa, rút ngắn khoảng cách
thành thị - nông thôn miền xuôi - miền ngược Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V
Đảng ta đã khẳng định: Người Việt Nam vốn có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần dân
chủ, bình đẳng trong quan hệ giữa người với người. "Thương nước - thương nhà, thương
người - thương mình" là truyền thống đậm đà của nhân dân ta. Nhờ có tinh thần yêu nước
và dân chủ ấy mà trong suốt quá trình lịch sử bốn ngàn năm, dân tộc ta đã làm nên những
chiến công oanh liệt. Từ ngày có Đảng, dưới ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

Đất có bốn phương: Đông - Tây - Nam - Bắc;
Người có bốn đức: Cần - kiệm - liêm - chính.
Thiếu một mùa thì không thành trời;
Thiếu một hướng thì không thành đất;
Thiếu một đức thì không thành người [47, tr. 631].
Người cho rằng, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh của một dân tộc
giàu về vật chất, mạnh về tinh thần, là một dân tộc văn minh tiến bộ, cần, kiệm, liêm,
chính là nền tảng, là cốt lõi của đạo đức xã hội mới.
Ngày nay, cần cù sáng tạo được biểu hiện càng rõ nét trong lao động sản xuất,
trong khoa học- kỹ thuật, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các phong trào thi đua rộng
rãi và thường xuyên trên mọi lĩnh vực: ở biên cương, nơi đồng ruộng, trong nhà máy xí
nghiệp, trong nhà trường

Đặc biệt trong quá trình đổi mới đất nước, với mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh", hơn bao giờ hết truyền thống cần cù sáng tạo càng
được phát huy cao độ.
Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam cũng hòa vào dòng chảy của chủ
nghĩa yêu nước và trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước. Đây là nhân tố tinh thần
hợp thành động lực thúc đẩy quá trình phát triển của lịch sử dân tộc.
Đoàn kết là sức mạnh tổng hợp của cả cộng đồng dân tộc trong việc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, đoàn kết là điều kiện tất yếu để bảo tồn dân tộc, nhất là khi đất nước có
giặc ngoại xâm. Từ cách lý giải sự ra đời của dân tộc Việt Nam trong truyền thuyết
"Trăm trứng nở trăm con". Đây chính là sự khẳng định truyền thống đoàn kết anh em
giữa các dân tộc.
Cách dùng từ "đồng bào"- một từ Hán, nhưng chỉ có người Việt Nam sử dụng để
chỉ mối thâm tình "gà cùng một mẹ", cho đến lịch sử hình thành của một dân tộc Việt
Nam: theo lời gọi của tiếng trống Hùng Vương mà mười lăm bộ lạc hợp thành một quốc
gia Văn Lang thống nhất.
Thấy rõ vai trò của yếu tố đoàn kết, cha ông ta luôn có ý thức chống chính sách
chia rẽ của các thế lực ngoại bang và xu hướng cát cứ của các thế lực phong kiến. Từ

Hiếu học là một truyền thống trong giáo dục của người Việt Nam từ xưa đến nay.
Có thể nói, ngay từ xa xưa con người đã sớm nhận thức được học hành không chỉ là
quyền lợi mà còn là nghĩa vụ của mỗi cá nhân. Chính vì vậy, người xưa thường nói:
"Ngọc bất trác bất thành khí, nhân bất học bất tri đạo" (Viên ngọc không mài dũa thì
không thành đồ dùng được, con người không học thì không biết đạo) và: "Hiếu nhân, bất
hiếu học kỳ tế dã ngu" (Kể cả những người mong muốn làm điều nhân đức chí thiện
nhưng không học thì cũng bị sự ngu dốt che lấp đi).

Nhận thức được tầm quan trọng của việc giáo dục, với truyền thống hiếu học, tôn
trọng hiền tài, nên ngay từ xưa, ông cha ta đã biết chăm sóc, bồi dưỡng nhân tài cho đất
nước. Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) là kiểu trường đại học quốc lập đầu tiên ở
Việt Nam được thành lập, để đào tạo nhân tài. Trong bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, hiệu
Đại Bảo thứ ba năm 1442 ở Văn Miếu (Hà Nội) còn ghi: Hiền tài là nguyên khí của Nhà
nước, nguyên khí vững thì thế nước mạnh và thịnh, nguyên khí kém thì thế nước yếu và
suy, cho nên các đấng thánh đế minh vương không ai không chăm lo việc gây dựng nhân
tài, bồi đắp nguyên khí.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
- luôn luôn quan tâm và coi trọng giáo dục. Cả cuộc đời và sự nghiệp của Người cũng chỉ
phấn đấu cho một mục đích tối cao là làm sao để "ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng
được học hành". Bác đã đặt hy vọng vào lớp trẻ mai sau, Bác nói: "Non sông ta có trở
nên tươi đẹp hay không, dân tộc ta có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường
quốc, năm châu được hay không chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em"
(Thư gửi học sinh cả nước, tháng 9/1945).
Cách mạng tháng Tám thành công, dân tộc ta bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ
nguyên độc lập tự do. Mọi công dân đều có điều kiện bình đẳng để thực hiện quyền lợi và
nghĩa vụ học tập. Mọi tầng lớp người Việt Nam đã hăng hái tham gia chiến đấu và học
tập theo lời kêu gọi của Đảng của Bác Hồ. Tháng 10-1945, Chính phủ thành lập "Hội
đồng cố vấn học chính" để nghiên cứu chương trình cải cách giáo dục. Từ đó, ngành giáo
dục nói chung, giáo dục đào tạo đại học, cao đẳng nói riêng, của đất nước ta ngày càng
phát triển.

nước có 126 trường cao đẳng và đại học (không kể các trường thuộc khối an ninh quốc
phòng), thì đến năm học 2002-2003, số lượng các trường đại học đã lên tới 202 trường.
Năm học 1997-1998, cả nước có 671.120 sinh viên, đến năm học 2002-2003 đã lên tới
1.020.667 người. Sinh viên nước ta hiện nay chiếm 0,96% dân số và chiếm tới 4% lực

lượng thanh niên, đạt 188 sinh viên trên một vạn dân. Số sinh viên trong các trường ngoài
công lập ngày càng tăng (chiếm 11%) [61, tr. 10].
Nói đến sinh viên là nói đến đội ngũ trí thức trong tương lai, là lực lượng trẻ, có
học thức, nhạy cảm với cái mới, năng động và sáng tạo, ham học hỏi, là những chủ nhân
tương lai của đất nước. Là tầng lớp xã hội được gia đình, nhà trường, xã hội hết sức quan
tâm, chăm sóc. Trong cuộc sống xã hội, sinh viên giữ nhiều vị trí: là sinh viên, là người
con, người anh, người chị, người em, người bạn Tuy vậy, về vị trí thực trong xã hội
chưa được xác định, bởi vì họ chưa có nghề nghiệp ổn định, mà hoạt động chính của họ
là học tập và bước đầu tham gia vào nghiên cứu khoa học, tham gia vào các hoạt động
xã hội.
Trong sự phát triển đất nước, sinh viên giữ một vị trí quan trọng, sau khi rời ghế nhà
trường họ có thể sẽ giữ những vai trò, những trọng trách ở nhiều lĩnh vực khác nhau
trong xã hội. Họ có thể sẽ là những nhà chính trị, nhà ngoại giao, nhà khoa học, là kỹ sư,
bác sĩ, nghệ sĩ, hay nhà doanh nghiệp v.v Lúc đó họ đã có một vị trí đích thực và đóng
một vai trò quan trọng trong sự phát triển xã hội.
Tại Đại hội sinh viên toàn quốc lần thứ V, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã
khẳng định: "Sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội có thành công hay
không, đất nước ta bước vào thế kỷ 21 có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế giới hay
không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó sinh viên là một bộ
phận có vai trò hết sức quan trọng".
Thật vậy, sinh viên là nguồn dự trữ, là tài sản quý báu của quốc gia. Ngay từ khi
đất nước còn chiến tranh, đội ngũ sinh viên đã từng gắn bó và có những đóng góp to lớn
vào sự nghiệp cách mạng và thắng lợi của dân tộc. Ngày nay, trong công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước, đội ngũ sinh viên Việt Nam càng nêu cao vai trò, trách nhiệm của
mình trước nhân dân, trước dân tộc.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status