Giải pháp thúc đẩy, xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam vào thị trường EU - Pdf 11

Chương 1: Tổng quát chung về hoạt động xuất khẩu hàng hóa:
1.1. Khái niệm về xuất khẩu hàng hóa:
Xuất khẩu hàng hóa là việc bán, cung cấp hàng hóa dịch vụ cho bên
nước ngoài trên cơ sở dung tiền tệ làm phương tiện thanh tốn.Khơng chỉ là
những hoạt động mua bán thơng thường mà hoạt động xuất khẩu địi hỏi sự
tham gia của các chủ thể mang quốc tịch khác nhau, hoạt động xuất khẩu
không chỉ đơn thuần mang lại lợi nhuận cho một hay một vài chủ thể tham
gia vào hoạt động này mà cịn có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia. Hoạt động xuất khẩu mang lại nguồn thu ngoại tệ, thúc
đẩy phát triển kinh tế xã hội, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1.2

. Các loại hình xuất khẩu hàng hóa

1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp
Xuất khẩu trực tiếp: là hình thức mà nhà sản xuất giao dịch trực tiếp với
khách hàng nước ngoài ở khu vực thị trường nước ngồi thơng qua tổ chức
của mình. Hình thức này thể hiện thơng qua: Đại diện bán hàng xuất khẩu;
Chi nhánh bán hàng tại nước ngồi.
Hình thức xuất khẩu này có ưu điểm là các nhà xuất khẩu trực tiếp tiếp
xúc với thị trường, tiếp cận được với khách hàng, nắm bắt tình hình thị
trường một cách trực tiếp từ đó đáp ứng nhanh nhu cầu của khách hàng.
Việc tiếp xúc trực tiếp với các thị trường xuất khẩu tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp dễ tiếp thu kinh nghiệm quốc tế, đồng thời với hình thức này
các doanh nghiệp xuất khẩu khơng phải chia sẻ quyền lợi của mình với các
tổ chức trung gian do đó có được lợi nhuận cao hơn.
Tuy nhiên hạn chế của thị trường này là doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải
chịu chi phí rủi ro lớn, cần có thời gian để thâm nhập được thị trường, đồng
thời thông tin về thị trường cũng có phần hạn chế.
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp

Trong hoạt động tái xuất khẩu người ta tiến hành nhập khẩu tạm thời
hàng hoá từ bên ngồi vào, sau đó lại xuất khẩu sang một thị trường thứ ba.
Hình thức này có độ rủi ro lớn nhưng lợi nhuận thu được cũng rất cao.
Chuyển khẩu là hình thức trong đó khơng có hành vi mua bán mà ở
đây chỉ thực hiện các dịch vụ như vận tải quá cảnh, lưu kho b•i,…
1.2.5 Xuất khẩu tại chỗ
2


Đây là hình thức xuất khẩu mà hàng hố và dịch vụ có thể chưa vượt
qua ngồi biên giới quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như
hoạt động xuất khẩu. Đó là việc cung cấp hàng hố dịch vụ cho các ngoại
giao đồn, khách du lịch quốc tế… Hoạt động này có thể đạt được hiệu quả
cao do giảm bớt được chi phí bao bì, đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí
vận tải, thời gian thu hồi vốn nhanh trong khi vấn có thể thu được ngoại tệ.
1.2.6 Gia công xuất khẩu:
Gia công quốc tế là một phương thức giao dịch kinh doanh trong đó
một bên (nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu hay bán thành phẩm của
bên khác (bên đặt gia công) để chế biến ra thành phẩm giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao gia cơng (phí gia cơng). Trong đó những nước
trình độ khoa học kỹ thuật cịn yếu, thiếu vốn, hạn chế về thị trường thường
là những nước nhận gia cơng cịn các nước phát triển là những nước đặt gia
cơng.
1.3 Vai trị & Lợi ích của việc xuất khẩu hàng hóa:
Vai trị của xuất khẩu hàng hố đối với nền kinh tế là rất quan trọng nhất
là trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, xu thế tồn cầu hố, chun mơn
hố sản xuất để tận dụng các lợi thế tuyệt đối hay so sánh của mỗi quốc gia.
Khơng chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế hoạt động xuất khẩu cịn có ý nghĩa
quan trọng đối với tình hình phát triển chung của một quốc gia.
+ Hoạt động xuất khẩu tạo nguồn dự trữ ngoại tệ quan trọng

sách phát triển kinh tế của quốc gia mình. Định hướng vào các ngành sản
xuất có lợi thế sẽ dần dẫn tới việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao dần
tỷ trọng của các ngành công nghiệp chế biến phục vụ xuất khẩu mang lại
nguồn thu lớn từ hoạt động xuất khẩu.
+ Hoạt động xuất khẩu giải quyết công ăn việc làm, tạo thu nhập và
nâng cao mức sống của nhân dân
Để tập trung phát triển sản xuất phục vụ cho xuất khẩu thì cần phải gia
tăng lao động, để xuất khẩu có hiệu quả tăng được khả năng cạnh tranh thì
cần tận dụng lợi thế về lao động, hạn chế được tỷ lệ thất nghiệp. Đối với
các nước đang phát triển, việc mở rộng hoạt động xuất khẩu thường đi kèm
với các việc xuất hiện các khu công nghiệp các khu chế xuất. Các khu công
nghiệp và chế xuất đ• thu hút khơng chỉ các nhà xuất khẩu trong nước mà
cả các nhà đầu tư nước ngoài tham gia để tạo ra sản phẩm xuất khẩu ra thị
trường trên thế giới. Thực tế cho thấy việc mở rộng hoạt động của các khu
này đ• thu hut được một lượng lớn lao động ở các địa phương, nhất là lao
động dư thừa vào mùa nông nhàn. Không những tạo việc làm cho người lao
động mà hoạt động xuất khẩu còn tăng thu nhập cho họ, giúp họ nâng cao
chất lượng cuộc sống.

4


+ Hoạt động xuất khẩu nâng cao uy tín của hàng hoá trong nước trên
thị trường thế giới, nâng cao vị thế của một quốc gia trên trường quốc tế
Để có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu và khơng ngừng nâng cao tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu thì địi hỏi các nhà sản xuất luôn phải biết tận
dụng các lợi thế của mình đồng thời cũng ln phải đổi mới công nghệ,
trang thiết bị phục vụ sản xuất để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao
thì mới tăng được khả năng cạnh tranh hàng hoá của trên thị trường thế
giới. Chính sự đầu tư đó sẽ tạo ra những sản phẩm có chất lượng ngày càng

Đường giới hạn khả năng sản xuất
t

y1

a

y2

b

0

x1

e

x2

t

x

Biểu đồ 1
1. Trong điều kiện thay đổi
1.

Một cơ hội khác để mở rộng khả năng tiêu dùng của đất nước thông
qua xuất khẩu hàng hóa, đó là, lượng hàng hố sản xuất ra có thể thay
đổi một cách có lợi dựa trên cơ sở giá cả trên thị trường thế giới. Một


y2
b
x3
x1 e x2 t
Lợi ích của việc chuyển đổi từ tình trạng khơng có hoạt động xuất
khẩu (a), sang tình trạng ngoại thương (b) hay (d) là những lợi ích của hoạt
động ngoại thương đối với một quốc gia. Khi việc sản xuất sản phẩm Y
tăng lên cà sản phẩm X giảm xuống, một quốc gia có thể chuyển tới những
điểm như điểm (d) bằng cách sản xuất nhiều hàng hố Y là loại hàng mà
quốc gia đ• có lợi thế so sánh và đổi lâý sản phẩm bổ sung của hàng hoá X
qua hoạt động xuất khẩu.
+ Các nước có nền kinh tế quy mơ nhỏ có thể và có lợi khi tham gia
hoạt động xuất khẩu
Xuất khẩu hàng hố trong một nền kinh tế quy mơ nhỏ.

7


P

S0
p1

E3

E1

p2


sản xuất không hiệu quả bên trong đường giới hạn sản xuất sang điểm sản
xuất có hiệu quả trên đường giới hạn sản xuất.
Hai là, việc mở rộng hoạt động xuất khẩu đ• tạo ra sự phân cơng lao
động hợp lý và có hiệu quả. Đây là điểm quan trọng đặc biệt đối với các
đơn vị kinh tế tham gia hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ. Phát huy
lợi thế so sánh của mình các quốc gia sẽ đào tạo đội ngũ cán bộ, đội ngũ
lao động cho phù hợp từ đó dẫn tới việc phân cơng lao động trên phạm vi
toàn thế giới.
Ba là, hoạt động xuất khẩu tạo điều kiện chuyển dịch quốc tế công
nghệ mới, phương pháp tổ chức kinh doanh mới… làm cho hoạt động kinh
doanh có hiệu quả.
Bốn là, thương mại quốc tế khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi
cho đầu tư quốc tế. Trong trường hợp đầu tư trực tiếp nước ngoài vào một
nước nào đó thì cùng với nguồn vốn nước ngồi vào thường kèm theo kỹ
thuật công nghệ mới, các chuyên gia điều hành có kinh nghiệm tổ chức và
quản lý kinh doanh.
Năm là, hoạt động xuất khẩu vũ khí chống độc quyền, bởi vì chúng
địi hỏi các nhà sản xuất trong nước tăng cường sức mạnh kinh tế để đối
phó cạnh tranh với các nhà sản xuất nước ngồi.
Có thể thấy rằng, hoạt động xuất khẩu đ• cung cấp, tạo những điều
kiện thuận lợi đối với quá trình phát triển kinh tế của một quốc gia. Và
trong xu thế thế giới hiện nay tồn cầu hố, khu vực khố thì các quốc gia
đều coi trọng phát triển thương mại quốc tế nói chung và hoạt động xuất
khẩu nói riêng.
9


Chương 2 : Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản Việt
Nam sang thị trường EU
2.1 Tổng quan chung về thị trường nông sản EU

hóa, xã hội các nước thành viên khá đồng đều, cho nên người dân thuộc
khối EU có những đặc điểm chung về thói quen sở thích trong tiêu dùng.
Điển hình như : đối với hàng may mặc và giày dép, người dân Áo, Đức, Hà
Lan chỉ mua hàng may mặc, giày dép khơng chứa chất nhuộm có nguồn
gốc hữu cơ(azodyes). Khách hàng EU đặc biệt quan tâm đến chất lượng và
thừoi trang của 2 loại sản phẩm này. Nhiều khi yếu tố thời trang có ý nghĩa
quyết định cao hơn nhiều so với giá cả. Đối với hàng giầy dép, người tiêu
dùng EU có xu hướng đi giầy vải. Xu hướng này càng tăng lên, tỷ lệ với
nhu cầu tiêu dùng giầy dép tăng lên hàng năm của EU.Hai mặt hàng này
thay đổ nhanh chóng đặc biệt về mẫu, mốt. Đối với hàng thủy sản, người
tiêu dùng EU không mua những loại hàng thủy sản nhập khẩu bị nhiễm độc
do môi trường hoặc do chất phụ gia không được phép sử dụng. Đặc biệt,
mặt hàng thủy sản xuất khẩu vào thị trường EU hiện nay đang bị rào cản kỹ
thuật rất khắt khe khống chế nên gặp rất nhiều khó khăn. Gần đây nhất Eu
quy định dư lượng kháng sinh đối với tôm xuất khẩu vào EU là 0%, một
quy định mà khơng một nước nào có thể đạt được.
Đặc biệt, người dân EU có sở thích tiêu dùng và thói quen sử dụng các
loại sản phẩm có nhãn hiệu nổi tiếng trên thê giới. Họ cho rằng những nhãn
hiệu này sẽ gắn với chất lượng sản phẩm và có uy tín lâu đời, cho nên khi
dùng sản phẩm mang nhãn hiệu nổi tiếng sẽ rất an tâm về chất lượng và an
tồn cho người sử dụng. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, mặc dù giá cả rất
đắt nhưng họ vẫn mua và khơng thích chuyển sang tiêu dùng những sản
phẩm không nội tiếng khác cho dù giá rẻ hơn rất nhiều.

11


2.1.2.2 Về kênh phân phối của liên minh châu âu
Hệ thống kênh phân phối của EU về cơ bản cũng như hệ thống kênh
phân phối của một quốc gia, gồm mạng lưới bán buôn và bán lẻ. Tuy nhiên,

EU đã tạo nên những chuỗi mắt xích chặt chẽ được gắn với nhau bằng các
hợp đồng kinh tế, mà việc tiếp cận và trở thành một trong các mắt xích đó
khơng dễ dàng với các nhà xuất khẩu Việt Nam vốn chỉ quen làm ăn chộp
giật và theo từng hợp đồng riêng biệt.
Các trung tâm thu mua lớn tại EU
2.1.3 Chính sách ngoại thương của Liên Minh Châu Âu
Đặc điểm cơ bản nhất trong chính sách ngoại thương của EU là tất cả
các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung
đối với các nước ngoài khối. Ủy ban châu Âu (EC) là người đại diện duy
nhất cho Liên minh trong việc đàm phán, ký kết các hiệp định thương mại
và dàn xếp tranh chấp trong lĩnh vực này, bn bán trong nội bộ khối EU
được miễn hồn toàn thuế hải quan và các thủ tục xuất nhập khẩu khác.
Liên minh châu Âu thực sự là một không gian kinh tế thống nhất và mơ
hình “nhà nước Châu Âu” đang trở thành hiện thực, đặc biệt khi hầu hết
các nước thành viên sử dụng chung một đồng tiền.
Chính sách ngoại thương của EU bao gồm chính sách thương mại tự
trị(AUTONOMOUS Commercer) và chính sách thương mại chung dựa
trên ngun tắc khơng phân biệt đối xử, minh bạch, có đi có lại, và cạnh
tranh cơng bằng. Các biện pháp được áp dụng phổ biến trong chính sách
ngoại thương của Liên minh Châu Âu là thuế quan, hạn chế về số lượng,
hang rào kỹ thuật, chống bán phá giá và trợ cấp xuất khẩu.
Về các quy chế nhập khẩu chung, để đảm bảo cạnh tranh công bằng
trong thương mại quốc tế, EU thực hiện các biện pháp: chống bán phá giá
(ANTI-dumping), chống trợ cấp xuất khẩu và chống hàng giả. EU đã ban
hành chính sách chống bán phá giá và áp dụng thuế “chống xuất khẩu bán
13


phá giá” để đấu tranh với tình trạng cạnh tranh khơng lành mạnh và bất
bình đẳng trong bn bán với các nước ngo liên minh. Bên cạnh đó, các

vốn với quy mô bằng chênh lệch mức giá nội địa ( bao gồm cả chi phí
chun trở hàng hóa đến cảng) và giá bán trên thị trường thế giới. Ngoài ra
mức vốn ứng trước còn phụ thuộc vào việc hàng hóa bán đi đâu và vào
hồn cảnh cụ thể.Các mức vốn ứng trước là thống nhất cho toàn bộ cộng
đồng và lấy từ ngân sách nông nghiệp.
Tác động của các cơng cụ chính sách áp dụng đối với các sản phẩm
nông nghiệp được đánh giá như sau. Các mức thuế linh hoạt có tác dụng
hạn chế thương mại hơn so với thuế quan nhập khẩu thông thường. Xét về
mặt trung hạn hay dài hạn thì nước XK có thể hạn chế tác động của thuế
quan nhập khẩu bằng cách nâng cao hiệu quả sản xuất tương đối, cắt giảm
chi phí sản xuất. Điều này không thể thực hiện được trong trường hợp thuế
quan linh hoạt bởi vì một khi giá chào hàng giảm xuống thì mức thuế linh
hoạt lại tự động tăng lên. Do đó bất chấp năng suất lao động tăng lên, các
nước XK tính gộp lại khơng thể gia tăng tỷ trọng của mình trên thị trường
EC, mặc dù tỷ trọng mỗi nước có thể thay đổi.
Như vậy tác động của những cơng cụ chính sách ngồi EC liên quan
trực tiếp đến mức thuế linh hoạt và hình thức ứng trước vốn cho XK. Các
biện pháp này được áp dụng một cách tương xứng đối với toàn bộ cộng
đồng bất chấp có tình trạng dư thừa hay thiếu hụt. Thuế linh hoạt sẽ có tác
dụng hạn chế nhập khẩu những mặt hàng có tình trạng dư thừa. Các mức
thuế quan bảo hộ này có thể biến động rất mạnh từ năm này sang năm khác
vì chúng phụ thuộc trực tiếp vào giá cả thế giới.
Nói một cách chung nhất, tác động trực tiếp của chính sách bảo hộ nói
trên là đem lại lợi ích cho các nhà sản xuất, còn người tiêu dùng của EC bị
đánh thuế. Tuy nhiên sự bảo hộ như vậy chỉ là bề ngoài vì nó khơng chỉ
phụ thuộc vào mức thuế linhhoạt và ứng trước vốn XK. Mà còn các biện
15


pháp chính sách nơng nghiệp khác. Đây là hình thức bảo hộ danh nghĩa vì

- Thứ hai, với các định hướng phát triển nền nơng nghiệp hàng hố
lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và tăng cường tiềm lực khoa học và công
nghệ trong nông nghiệp…, đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất, thu
hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
chúng ta sẽ nâng cao được chất lượng và VSATTP của sản phẩm nông
nghiệp.
Sự ra đời của Luật và các văn bản pháp luật bảo vệ môi trường, cùng
với những yêu cầu ngày càng cao của các thị trường nhập khẩu về sản phẩm
thân thiện với môi trường, ngành nông nghiệp Việt Nam phát triển theo
hướng bảo vệ môi trường. Hiện nay, ở nước ta các trang trại, các khu vực sản
xuất hàng hóa lớn theo hướng nâng cao chất lượng sản phẩm và tạo ra nhiều
sản phẩm hàng hóa phù hợp với các tiêu chuẩn về chất lượng, VSATTP và
môi trường để đáp ứng nhu cầu của thị trường nhập khẩu cịn nhiều khó
khăn. Nhiều tỉnh đang phát triển nuôi lợn xuất khẩu với quy mô lớn: hệ
thống chuồng trại và thức ăn đạt tiêu chuẩn, kỹ thuất khơng có biến đổi gen
chưa tốt lên làm hạn chế chất lượng, phẩm cấp của sản phẩm.
Theo như phân tích ở trên, có thể khẳng định rằng, EU là một thị
trường xuất khẩu cực kỳ lớn đối với hàng nơng sản Việt Nam, nhưng chúng
ta có khai thác được thị trường này và thị trường nông sản thế giới nói chung
hay khơng là tuỳ thuộc vào hai yếu tố: Một là, phải căn cứ vào nhu cầu của
thị trường để tính tốn khối lượng nơng sản sẽ sản xuất, và hai là, phải đáp
ứng được những yêu cầu ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng
nhập khẩu đặc biệt là các quy định về chất lượng, VSATTP và môi trường.
Sau nhiều năm nỗ lực mở rộng thị trường EU, nhưng năm 2002 hàng
nông sản Việt Nam đã giảm thị phần so với các năm trước, một phần là do
một số mặt hàng nông sản mất giá quá mạnh (cà fê, chè, hạt tiêu, gao,…) và
phần khác là do những quy định quá ngặt nghèo về các tiêu chuẩn kỹ thuật
đối với hàng nông sản của EU. Do đó, trong giai đoạn từ năm 2003 đến 2005

17



khẩu sang thị trường này sẽ đạt khoảng 730 - 840 triệu USD vào năm 2010,
tức là tăng khoảng 4,51 - 5,18 lần trong vòng tám năm tới.
- Phương án cao, đạt mức tăng trưởng bình quân 15%/năm trên cơ
sở đã đạt được 430 - 500 triệu USD vào năm 2005, thì kim ngạch xuất khẩu
hàng nơng sản sang thị trường EU sẽ đạt khoảng 860 triệu USD đến 1 tỷ
USD vào năm 2010, tức là sẽ tăng 5,31 - 6,17 lần trong vòng tám năm tới.
2.1.5 Những thách thức đối với Việt Nam trong xuất khẩu hàng
nông sản sang EU
Xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam sang thị trường EU trong những
năm tới nhiều khả năng sẽ phải đối mặt với những thách thức dưới đây:
- Thứ nhất, hệ thống các quy định hết sức ngặt nghèo về tiêu chuẩn kỹ
thuật đối với hàng hố trong đó bao gồm: tiêu chuẩn chất lượng, tiêu chuẩn
về môi trường, tiêu chuẩn về VSATTP, tiêu chuẩn an toàn cho người sử
dụng, cũng như hàng loạt các biện pháp và chế tài mà EU áp dụng đối với
hàng nông sản nhập khẩu vi phạm các biện pháp và chế tài mà EU áp dụng
đối với hàng nông sản nhập khẩu vi phạm các quy định của EU đối với hàng
nông sản nhập khẩu. Luật thực phẩm của EU nâng từ 10 chất kháng sinh bị
cấm năm 2002 lên 26 chất vào năm 2005. EU duy trì chính sách "dư lượng =
0" đối với mười kháng sinh (năm 2005 là 26 kháng sinh). Như vậy sẽ rất khó
khăn đối với hàng nơng sản thực phẩm của Việt Nam khi thâm nhập vào thị
trường này.
Hiện EU đang hồn thiện Quy trình GAP (Quy trình canh tác nông
nghiệp đảm bảo) và cũng đang xây dựng một nhãn hiệu duy nhất cho thực
phẩm có nguồn gốc hữu cơ. Chính vì vậy mà trong những năm tới, u cầu
hàng nhập khẩu của thị trường EU sẽ là hàng nông sản hữu cơ, tức là nông
sản sạch (nông sản được sản xuất theo quy trình GAP, hạn chế sử dụng thuốc
trừ sâu và phân hố học,…). Hàng nơng sản nhập khẩu vào thị trường này


trong quy định này.

20


Bên cạnh sự phức tạp và ngặt nghèo ngày càng tăng của hệ thống các
tiêu chuẩn kỹ thuật của EU đối với hàng nông sản nhập khẩu, các biện pháp
và chế tài mà EU áp dụng đối với các trường hợp vi phạm sẽ ngày càng chặt
chẽ và hà khắc hơn. Như vậy, để tránh tổn thất và đẩy mạnh được xuất khẩu
sang EU, chúng ta cần phải tuân thủ các quy định về chất lượng, môi trường
và VSATTP của EU đối với nhập khẩu hàng nông sản. Hơn nữa, việc thực
hiện các quy định này sẽ góp phần mang lại mơi trường sống lành mạnh cho
chính chúng ta.
- Thứ hai, Nơng sản là một nhóm hàng nhạy cảm và được EU trợ cấp
rất lớn. Mức trợ cấp tăng lên hàng năm để bảo hộ nền sản xuất nông nghiệp
trong Liên Minh. Bởi vậy, hàng nông sản xuất khẩu của ta sẽ ngày càng khó
khăn hơn khi thâm nhập vào thị trường này. Ngoài việc phải cạnh tranh với
các đối tác xuất khẩu khác có tiềm lực mạnh hơn ta, chúng ta còn phải cạnh
tranh với hàng nội địa được hưởng nhiều ưu đãi.
- Thứ ba, ngoài nhu cầu ngày càng cao cảu người tiêu dùng EU về
nông sản thực phẩm thân thiện với môi trường, yêu cầu của họ về chất lượng
và VSATTP đối với nhóm hàng này cũng ngày càng khắt khe đây. Chẳng
hạn người tiêu dùng EU đã từng tẩy chay thịt bị điên, thịt gà có dioxin,…
được nhập khẩu từ các nước. Đây cũng là thách thức không nhỏ đối với các
doanh nghiệp chế biến hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam sang thị
trường EU.
2.2 Những tiêu chuẩn kỹ thuật đối với hàng nông sản nhập khẩu
vào thị trường EU
Nhập khẩu vào Thị trường E.U
Tiến trình tự do thương mại đã được tăng tốc bởi vịng đàm phám

ngăn cấm đưa ra các biện pháp nhằm ngăn cản các hành động lừa bịp với
mức độ phù hợp”.

22


Tuy nhiên, Hiệp định cũng xác định rằng” Sự linh động điều chỉnh
của các thành viên bị giới hạn bởi yêu cầu về các quy định kỹ thuật không
được chuẩn bị, điều chỉnh hoặc áp dụng mới mục đích hoặc ảnh hưởng làm
tạo ra các cản trở khôngcần thiết trong thương mại”. (Mục 2.2).
Tiêu chuẩn hoá
CENELEC, CEN và ETSI là 3 cơ quan tiêu chuẩn hoá của Châu Âu
được coi là đủ năng lực trong việc tiêu chuẩn hoá kỹ thuật, 3 cơ quan này
đã đưa ra các tiêu chuẩn của E.U trong từng lãnh vực riêng biệt và tạo ra
“hệ thống tiêu chuẩn hoá Châu Âu”.
Các tiêu chuẩn là các thỏa thuận bằng văn bản chức đựng những
đặc điểm kỹ thuật hoặc những tiêu chuẩn chính xác khác được sử dụng một
cách nhất quán như những luật lệ, hướng dẫn, hoặc định nghĩa của các đặc
tính nhằm bảo đảm rằng các vật liệu, sản phẩm, các phương pháp chế biến
và các dịch vụ đáp ứng các mục đích của chúng.
Vì vậy mà các tiêu chuẩn quốc đóng góp vào việc làm cho cuộc sống
trở nên đơn giản hơn, và làm tăng tính tin cậy và hiệu quả của hàng hoá và
dịch vụ chúng ta sử dụng.
Hiện tại E.U đang tạo ra các tiêu chuẩn thống nhất và điều hoà cho
tồn E.U đối với các lãnh vực sản phẩm chính nhằm thay thế hàng ngàn các
tiêu chuẩn quốc gia khác nhau. Nhìn chung, các mức độ yêu cầu được đặt
ra hoặc sẽ được đặt ra trong những năm tới đây. Các quốc gia thành viên
được cho phép đưa ra thêm các u cầu cho ngành cơng nghiệp của mình.
Tuy nhiên, nếu sản phẩm nào đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu sẽ
được cho phép lưu hành tự do tại E.U.


Nhãn sinh

Chứng nhận

nhận ISO

chuẩn

hiệu xã

nhận

tắc đạo

thái

ISO14000

9000

EN/ISO

hội

SA8000

đức

công

sản phẩm cơng nghiệp.
Nghị định về an tồn sản phẩm chung 92/59/EC (thường được biết
dưới tên Nghị định về an toàn sản phẩm) được Cộng Đồng Châu Âu thông
qua ngày 29/6/0992. Và nghị định có hiệu. lực hồn tồn từ tháng 6/1994
và áp dụng cho an toàn sản phẩm khi sản phẩm có mặt lần đầu tại thị
trường E.U và được kéo dài suốt đời sống có thểcó của sảnn phẩm. Theo
Nghị định, những nhà sản xuất và phân phối chỉ được kinh doanh những
sản phẩm an toàn.
Một “sản phẩm an toàn” được định nghĩa là một sản phẩm khơng có
- đặc biệt ở khía cạnh thiết kế, cấu thành, hoạt động, chức năng, bao bì, các
điều kiện lắp ráp, bảo trì hoặc thải hồi, cá hướng dẫn sử lý và sử dụng, hoặc
các đặc tính khác của sản phẩm – bất cứ một rủi ro trực tiếp hay gián tiếp
không thể chấp nhận cho an toàn và sức khỏe con người hoặc ảnh hưởng
trên các sản phẩm khác hoặc phụ tùng của nó.
Chỉ thị quy định cả đối với sản phẩm mới và các sản phẩm tái chế
mặt do các sản phẩm đã qua sử dụng không được xác định rõ ràng như là

25


Trích đoạn Nhãn CE (European Conformity) Môi trường Trách nhiệm xã hộ Mặt hàng rau quả Mặt hàng chè Đánh giá hoạt động xuất khẩunông sảnViệt Nam sang thị trường EU
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status