quan hệ thương mại việt trung thực trạng và những vấn đề đặt ra - Pdf 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN: KINH TẾ QUỐC TẾ
  BÀI TẬP NHÓM

Đề tài :
Quan hệ thương mại Việt Nam – Trung Quốc: Thực trạng và những vấn đề
đặt ra
Giảng viên hướng dẫn :
Lớp
Nhóm thực hiện
:
:
Hà Nội, tháng 11/ 2013
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI MỞ ĐẦU
Kể từ khi Việt Nam và Trung Quốc bình thường hóa quan hệ đến nay, nhiều
văn bản, hiệp định đã được ký kết giữa hai nước, đã tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy quan
hệ thương mại giữa hai nước phát triển và đạt được một số thành tựu quan trọng. Kim
ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước ngày càng gia tăng. Với tốc độ tăng trưởng
nhanh, hiện nay Trung Quốc đang trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam. Việc
tham gia vào kinh tế toàn cầu hóa và khu vực đã mở ra cho hai nước nhiều cơ hội, cụ
thể là hệ thống pháp luật và chính sách thương mại ngày càng minh bạch, thị trường
xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng, hàng rào thuế quan đang dần được dỡ bỏ giữa hai
nước, cơ sở hạ tầng thương mại cũng đang được hai nước quan tâm phát triển Tuy
nhiên, hội nhập quốc tế cũng đưa lại những thách thức, đó là cạnh tranh hàng hóa Việt
Nam với hàng hóa của các nước trong khu vực và hàng hóa Trung Quốc ngày càng

tuyến đường xuyên Á, hành lang Đông Tây, cũng như trong khuôn khổ hợp tác tiểu
vùng sông Mê Kông mở rộng. Với điều kiện vị trí địa lý nêu trên, Việt Nam và Trung
Quốc có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển mua bán, trao đổi hàng hóa và phát
triển các hoạt động hợp tác về kinh tế - xã hội khác.
1.1.2 Văn hóa
Việt Nam – Trung Quốc có nét tương đồng về văn hóa, có phong tục tập quán
Á Đông tương đối giống nhau. Có thể nói, sự tương đồng về văn hóa và sự gần gũi về
phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng
tạo nên truyền thống láng giềng hòa mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn nhau
trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt – Trung từ bao đời nay.
1.1.3. Thể chế chính trị
Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống nhau, đều do Đảng Cộng
sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác – Leenin, không chấp nhận đa nguyên,
đa đảng. Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân và
chế độ Xã hội Chủ nghĩa.
1.1.4. Kinh tế
Hai nước Việt – Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực hợp tác
kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích riêng của mỗi bên. Hai nước đã có chung đường
biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên thông thương mậu dịch,
đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trường rộng lớn, đầy tiềm
năng, có sức tiêu thụ lớn. Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới,
hơn 86 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó
là những yếu tố bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước
và tiến trình tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu. Trong bối cảnh
chung của tình hình quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của Việt Nam và
Trung Quốc cũng có những thau đổi theo chiều hướng thuận lợi.
Trong quan hệ đối ngoại, Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng mối quan hệ
với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề
thuộc về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc.
Về phía Trung Quốc, cũng từng bước thực hiện bình thường hóa quan hệ và

đường biên giới, luôn ở thế chủ động trong quan hệ trao đổi hàng hóa với các nước.
Ngoài ra chính phủ hai nước đã ký Hiệp định về mua bán hàng hóa ở vùng biên
giới, Hiệp định về biên giới trên bộ, tạo điều kiện cho việc trao đổi hàng hóa qua biên
giới giữa hai nước diễn ra thuận lợi.
1.2.2. Giai đoạn 2001 – 2006
Năm 2001 Trung Quốc chính thức gia nhập WTO, Trung Quốc đã dành cho các
nước đang phát triển được hưởng quy chế tối huệ quốc, trong đó có Việt Nam. Tạo cơ
hội cho Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa và thị trường Trung Quốc.Bên cạnh
đó hệ thống chính sách của Trung Quốc cũng phải điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu
của WTO. Đặc biệt là hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn đối với
hàng nhập khẩu vào thị trường Trung Quốc yêu cầu ở mức cao hơn trước đây. Một số
chính sách ưu đãi đối với biên mậu cũng được chính phủ Trung Quốc loại bỏ dần.Điều
này đã gây tổn hại cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Ngày 14/11/2002, Trung Quốc và ASEAN đã ký Hiệp định khung về hợp tác
kinh tế toàn diện, tạo tiền đề thành lập khu vực mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
(ACFTA) vào năm 2010 đối với các nước ASEAN. Hiệp định này mở ra cho Việt
Nam và Trung Quốc một thị trường tiêu thụ rộng lớn.
Tháng 5/2004, chính phủ hai nước chủ trương xây dựng “hai hành lang và một
vành đai kinh tế”, đây được coi là chương trình hợp tác trung và dài hạn giữa hai nước
nhằm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển.
1.2.3. Giai đoạn từ 2007 – nay
Ngày 11/1/2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO,
điều này khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Như vậy, Việt Nam và
Trung Quốc đều là thành viên của WTO, hệ thống hành lang pháp lý khá hoàn chỉnh
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển quan hệ thương mại hàng hóa giữa hai
nước.Tháng 5-2008, hai bên nhất trí phát triển “quan hệ đối tác hợp tác chiến lược
toàn diện”.
Từ năm 2004 đến nay, Trung Quốc là bạn hàng thương mại hàng đầu của Việt
Nam; kim ngạch thương mại hai chiều năm 2012 đạt hơn 40 tỷ USD, tăng 15,35% so
năm 2011. Hai bên có nhiều tiềm năng để nâng mức trao đổi thương mại song phương

điều, là nước nhập khẩu thuỷ sản thứ 3 và nhập khẩu trên 56% giá trị rau quả tươi xuất
khẩu của Việt Nam. Ngoài ra, một số mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu
thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần trên thị trường Trung Quốc như hàng dệt
may, linh kiện điện tử, Trong những năm gần đây, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang
thị trường Trung quốc đã không ngừng được mở rộng cả về quy mô và chủng loại.
Từ đó, có thể thấy Trung Quốc là bạn hàng không thể thiếu được của Việt Nam,
cả về nguồn hàng cũng như thị trường tiêu thụ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆTNAM - TRUNG
QUỐC
2.1. Tình hình xuất nhập khẩu giữa Việt Nam – Trung Quốc
2.1.1. Thực trạng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam sang Trung Quốc
2.1.1.1. Kim ngạch xuất khẩu
Từ khi bình thường hóa quan hệ năm 1991 đến nay, quan hệ kinh tế thương mại
Trung – Việt được khôi phục và phát triển nhanh chóng. Kim ngạch thương mại giữa
hai nước từ hơn 30 triệu USD năm 1991 lên 22,5 tỷ USD năm 2009, tăng gấp gần 700
lần. Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam.
a. Giai đoạn 1991 – 2000
Giai đoạn từ 1991 – 2000 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường
Trung Quốc không ngừng tăng lên, đóng góp không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nước
nhà.
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2000
Đơn vị: Triệu USD
Năm 199
1
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
XK
sang
TQ
19,3 95,6
0

Hông Kông, Đài Loan, Xingapo, Hàn Quốc; bản thân Trung Quốc cũng sẽ chuyển
sang các lĩnh vực này để cạnh tranh; khi đó việc nhập khẩu ngô, gạo, các loại nông
sản, hải sản khác sẽ gia tăng. Đây là thời cơ cho hàng của Việt Nam xuất khẩu vào
Trung Quốc.
Bảng 2.2: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2006
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2001 2002 2003 2004 2005 2006
XK sang Trung Quốc 1417,4 1595,3 1883,1 2899,1 3228,1 3242,8
Nguồn: Tổng cục thống kê
Giai đoạn 2001 – 2006 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc
liên tục tăng, với tốc độ tăng trưởng bình quân 9,3%/năm. Từ mức 1417,4 triệu USD
(năm 2001) đến 3242,8 triệu USD (năm 2006).
c. Giai đoạn 2007 – nay
Trong giai đoạn 2007- 2012, xuất khẩu nói chung và xuất khẩu sang thị trường
Trung Quốc nói riêng biến động mạnh hơn so với giai đoạn trước. Trong khi nền kinh
tế Trung Quốc đang chậm lại, xuất khẩu từ Việt Nam sang nước này lại tăng lên. Điều
đó bắt nguồn từ thực tế là Việt Nam đang ngày càng thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong khi chi phí sản xuất ở đất nước lớn thứ hai thế giới tăng lên, dẫn tới việc hàng
hóa sản xuất ở Việt Nam sẽ được xuất sang Trung Quốc khi nước này ngày càng hội
nhập vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bảng 2.3: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn 2007 – 2012
Đơn vị: Triệu USD
Năm 2007 2008 2009 2010 2011 2012
XK sang TQ 3646,1 4850,1 5403,0 7742,9 11127,0 12388,2
Nguồn: Tổng cục thống kê
Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 20012 cao gấp 3,4
lần năm 2007, từ3,646 tỷ USD (2007) lên đến 12,388 tỷ USD (2012). Năm 2008, kim
ngạch xuất khẩu của nước ta đã đạt mức 4,85 tỷ USD (tăng 33,1% so với năm 2007)
và liên tục tăng nhanh trong những năm tiếp theo năm (2010 đã tăng 43,3% và 43,7%
năm 2011). Trong cả giai đoạn 2007- 2012, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân

hàng thô hay mới sơ chế còn khá cao nhưng có thể nói xu hướng tăng tỷ trọng hàng
chế biến là rõ nét. Cụ thể, ở thời điểm năm 2001, trong danh mục những mặt hàng chủ
yếu của nước ta xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc đạt kim ngạch từ 1 triệu USD
trở lên tuy gồm 15 mặt hàng, nhưng tổng cộng cũng chỉ đạt 1,156 tỷ USD và chiếm
81,52% tổng kim ngạch xuất khẩu của năm này. Năm 2006 , tuy danh mục này cũng
chỉ tăng lên 18 mặt hàng, nhưng đã đạt 2,331 tỷ USD và chiếm 76,93% trong tổng kim
ngạch xuất khẩu. Số mặt hàng đạt quy mô xuất khẩu 10 triệu USD trở lên năm 2001
chỉ gồm 8 mặt hàng, thì con số này trong năm 2008 đã là 11 mặt hàng.
Hiện nay, Trung Quốc đang là bạn hàng nhập khẩu số 1 về cao su, than đá.
Ngoài ra thuỷ sản, rau quả tươi cũng là mặt hàng có tỷ trọng đáng kể. Một số mặt
hàng tiêu dùng của Việt Nam cũng bắt đầu thâm nhập và từng bước mở rộng thị phần
trên thị trường Trung Quốc như : giày dép , hàng dệt may, linh kiện điện tử
Như vậy, cơ cấu hàng xuất khẩu đã tập trung nhiều hơn vào các mặt hàng tiêu
dùng, hàng trung gian và hàng hóa vốn, trong khi tỷ trọng dầu thô giảm.Đây là hệ quả
tích cực từ việc tham gia ngày càng sâu rộng hơn vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất
khu vực. Dù vậy, lợi thế vẫn tập trung ở các nhóm hàng sử dụng tài nguyên khoáng
sản, dựa vào nông nghiệp và các ngành chế biến thâm dụng lao động.
2.1.2. Thực trạng nhập khẩu hàng hóa từ Trung Quốc vào Việt Nam
2.1.2.1. Kim ngạch nhập khẩu
a. Giai đoạn 1991 – 2000
Bảng 2.5: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 1991 – 2000
Đơn vị: Triệu USD
Năm 199
1
1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000
NK từ TQ 18,4 31,8 85,5 144,2 329,7 329 404,4 510,5 683,4 1423,
2
Nguồn tổng cục thống kê
Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 1991 mới có 18,4 triệu USD, đến năm
1995 đạt xấp xỉ 330 triệu USD, đến năm 2000 đã lên tới 1.423 triệu USD, chiếm 9,4%

Kim ngạch nhập
khẩu từ TQ
12710,0 15973,6 15411,3 20203,6 24593,7 28786,0
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2006 kim ngạch nhập khẩu mới chỉ ở mức 7390,3 triệu USD thì đến năm
2007 đã tăng lên 12710 triệu USD ( tăng 72,0% mức kỷ lục nhất từ trước đến nay).
Năm 2008 vẫn tiếp tục tăng với tốc độ tăng là 25,7% từ 12710 tỷ USD lên 15973,6.
Đến năm 2009 do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính thế giới nên kim ngạch nhập
khẩu từ Trung Quốc giảm nhưng không đáng kể. Tuy nhiên đến 2010kim ngạch nhập
khẩu lại tiếp tục tăng với 31,1% và 21,7% năm 201.
2.1.2.1. Cơ cấu hàng hóa nhập khẩu
Theo quan điểm ưu tiên phục vụ sản xuất để xuất khẩu và đáp ứng nhu cầu về
tiêu dùng trong nước.Cơ cấu hàng nhập khẩu thay đổi theo hướng tăng nhập khẩu tư
liệu sản xuất, giảm nhập khẩu hàng tiêu dùng. Cụ thể:
Giai đoạn 1991 – 2000: Những mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam giai đoạn
này chủ yếu là: thuốc bắc, bông, vải sợi, hàng dệt kim và quần áo may sẵn, pin các
loại, thuốc lá, xà phòng giặt, nước giải khát, dầu thực vật, đường sữa, đồ dùng gia
đình, xe đạp, giấy Hàng hóa nhập từ Trung Quốc với khối lượng lớn, chủng loại đa
dạng, chất lượng thấp nhưng giá rẻ, phù hợp với thu nhập ở mức thấp nên chỉ sau một
thời gian ngắn đã tràn ngập thị trường Việt Nam. Đặc biệt, trong thời kỳ này, hàng hóa
nhập lậu qua biên giới với khối lượng lớn đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến một
số ngành sản xuất của Việt Nam như: dệt kim, may mặc, sành sứ, thuỷ tinh, sản xuất
xe đạp Trong các mặt hàng và nhóm hàng nhập khẩu nêu trên, hàng hóa là máy móc
thiết bị chiếm 27,95%, nguyên liệu chiếm 19,7%; hàng tiêu dùng chiếm 47% Những
nhóm hàng có khối lượng nhập lớn trong thời kỳ này là: máy móc nông nghiệp và chế
biến nông lâm sản, thiết bị sản xuất xi măng lò đứng, máy móc cho ngành dệt, thiết bị sản
xuất phân bón và các loại máy phát điện cỡ nhỏ.
Giai đoạn 2001- 2006: Về cơ cấu hàng nhập khẩu giai đoạn này đã có sự thay
đổi cơ bản. Trên 85% hàng nhập khẩu là nguyên liệu đầu vào cho sản xuất trong nước
và phục vụ gia công xuất khẩu. Các sản phẩm có kim ngạch nhập khẩu lớn từ Trung

Tốc độ
tăng (%) Giá trị
Tốc độ
tăng (%)
2001 3047.3 3.0 1417.4 -7.7 1629.9 14.5 -212.5
2002 3754.1 23.2 1595.3 12.6 2158.8 32.4 -563.5
2003 5003.1 33.3 1883.1 18.0 3120.0 44.5 -1236.9
2004 7355.6 47.0 2899.1 54.0 4456.5 42.8 -1557.4
2005 8998.1 22.3 3228.1 11.3 5770.0 29.5 -2541.9
2006 10633.1 18.2 3242.8 0.5 7390.3 28.1 -4147.5
2007 16356.1 53.8 3646.1 12.4 12710.0 72.0 -9063.9
2008 20823.7 27.3 4850.1 33.0 15973.6 25.7 -11123.5
2009 20814.3 0.0 5403.0 11.4 15411.3 -3.5 -10008.3
2010 27946.5 34.3 7742.9 43.3 20203.6 31.1 -12460.7
2011 35720.7 27.8 11127.0 43.7 24593.7 21.7 -13466.7
2012 41174.2 15.3 12388.2 11.3 28786.0 17.0 -16397.8
Nguồn: Tổng cục thống kê – Kim ngạch xuất nhập khẩu theo nước
Thứ nhất, kim ngạch thương mại liên tục tăng caođó là tiềm năng và tính bổ
sung lẫn nhau trong phát triển kinh tế giữa hai nước ngày càng được khai thác và phát
huy, thể hiện qua cơ cấu hàng hoá trao đổi ngày càng phản ánh sát thực lực, trình độ
phát triển kinh tế và nhu cầu phụ thuộc lẫn nhau của hai nền kinh tế đang trong quá
trình chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang kinh tế thị trường, cùng tiến hành cải cách và
mở cửa và cùng hướng ra xuất khẩu. Có thể thấy, sự gắn bó trong quan hệ thương mại
giữa hai nước đã đủ sức gạt bỏ ảnh hưởng tiêu cực của khủng hoảng kinh tế.
Thứ hai, phương thức mậu dịch ngày càng phát triển và đa dạng.Giai đoạn từ
1991-2000, quan hệ thương mại hai nước chủ yếu thông qua mậu dịch biên giới. Từ
2001 đến nay, mậu dịch chính ngạch đã chiếm vị trí áp đảo trong tổng giá trị thương
mại hai nước với các loại hình thương mại đa dạng như: tạm nhập tái xuất, chuyển
khẩu, quá cảnh, gia công
Thứ ba, quan hệ hợp tác, thương mại giữa các địa phương hai nước từ chỗ chỉ

2.1.3.2.Hạn chế và nguyên nhân
Biểu đồ 2.1: Giá trị nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2000 – 2012
Nguồn: Tổng cục Hải quan
a. Hạn chế
Thứ nhất, buôn bán hai chiều tăng mạnh như thế nhưng Việt Nam luôn ở thế
nhập siêu và kim ngạch hai chiều càng tăng mạnh thì nhập siêu càng lớn. Năm 2001
nhập siêu từ Trung Quốc còn chưa đáng kể, đến năm 2005 ta đã nhập siêu 3,1 tỉ USD
(gần bằng kim ngạch xuất sang Trung Quốc). Năm 2006, nhập siêu lên 4,9 tỉ USD;
năm 2007 nhập siêu 8,6 tỉ USD; năm 2008 nhập siêu vượt mốc 10 tỉ USD (đạt 10,7 tỉ
USD). Năm 2010 nhập siêu lên 12,7 tỉ USD. Cũng từ năm này xuất khẩu của Việt
Nam sang Trung Quốc chỉ tròm trèm 25 - 28% trong tổng kim ngạch buôn bán hai
chiều. Năm 2011 Việt Nam nhập siêu 12,47 tỉ USD; năm 2012 nhập siêu lên tới 16,3 tỉ
USD, lớn hơn nhiều lượng hàng 12,5 tỉ USD ta xuất sang Trung Quốc… Nhập siêu từ
Trung Quốc hằng năm luôn chiếm tới 85 - 90% tổng mức nhập siêu của Việt Nam.
Xem thế rõ ràng Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào hàng nhập từ Trung Quốc và cán
cân thương mại Việt Nam chủ yếu thâm hụt trong buôn bán với Trung Quốc.
Thứ hai, chất lượng nhập siêu. Nhập siêu là căn bệnh chung của nhiều nền kinh
tế bước đầu phát triển. Nhưng nhập khẩu thì cũng phải chọn lọc. 60% kim ngạch nhập
khẩu từ Trung Quốc là máy móc thiết bị. Nhưng Trung Quốc không phải là quốc gia
làm chủ công nghệ nguồn.Nhiều máy móc thiết bị công nghệ của họ cũ kĩ lạc
hậu.Những xi-măng lò đứng, nhà máy đường, nhà máy nhiệt điện mà doanh nghiệp
Việt Nam nhập về những năm qua cho thấy rất rõ điều đó. 30% kim ngạch nhập khẩu
từ Trung Quốc dành cho nguyên vật liệu, phụ liệu để sản xuất hàng hóa và 10% còn lại
là nhập hàng tiêu dùng. Song chất lượng hàng Trung Quốc nhập vào nước ta rất thấp,
độc hại, gây ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường và sức khỏe người dân.Công
bằng mà nói, nguyên vật liệu, phụ liệu nhập từ Trung Quốc cũng giúp chúng ta khắc
phục thiếu hụt nguyên phụ liệu khi sản xuất trong nước chưa đáp ứng được.Nhưng
cũng có lẽ vì thế doanh nghiệp Việt Nam ngày càng lệ thuộc vào nguyên liệu nhập từ
Trung Quốc.
Thứ ba, xuất khẩu cũng bị lệ thuộc. Việt Nam xuất sang Trung Quốc chủ yếu là

ngay được yêu cầu về sản xuất và tiêu dùng đặc biệt trong bối cảnh mà nhiều ngành
sản xuất trong nước chưa thể chủ động được nguồn nguyên liệu nhưng nhu cầu sử
dụng nguyên liệu của các ngành, nghề của Việt Nam vẫn liên tục tăng lên do vậy mà
tốc độ nhập khẩu các sản phẩm nguyên liệu và hàng tiêu dùng từ Trung Quốc vẫn tiếp
tục tăng mạnh.
Năm là, do tốc độ tăng trưởng nhập khẩu từ Trung Quốc trong giai đoạn này
tăng nhanh trong khi giá trị xuất khẩu những nhóm hàng ngoài dầu thô lại không theo
kịp cả về kim ngạch và tốc độ tăng nên việc dẫn tới tình trạng nhập siêu như hiện nay
là tất yếu.
Từ những phân tích nêu trên, dự đoán từ nay đến các năm tiếp theo nhu cầu
nhập khẩu nhiều loại mặt hàng nêu trên của Trung Quốc còn tiếp tục tăng.
2.2. Một số vấn đề đặt ra trong quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam và
Trung Quốc trong giai đoạn tới
Vấn đề thứ nhất, Trung Quốc là một nước lớn, đang phát triển rất nhanh và có
sức thu hút toàn cầu. Sự phát triển của Trung Quốc là cơ hội phát triển cho Việt Nam.
Việt Nam phải cải cách, phát triển nhanh mới tận dụng được cơ hội này.
Trung Quốc phát triển nhanh, ổn định là một cơ hội lớn đối với Việt Nam. Vì
rằng với một thị trường rộng lớn, nhu cầu về nhiều mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế
như khoáng sản, nông sản, vị trí địa lý thuận lợi, quan hệ hợp tác hai bên đang ở vào
thời kỳ được đẩy mạnh, thị trường Trung Quốc trong tương lai là nơi tập trung của các
công ty hàng đầu thế giới Các yếu tố này sẽ tạo thuận lợi cho Việt Nam với tư cách
là nước láng giềng nhỏ hơn và trình độ phát triển thấp hơn. Tuy nhiên, thách thức cạnh
tranh cũng sẽ rất lớn. Việt Nam phải thay đổi, phải nhanh chóng lớn mạnh mới tận
dụng được cơ hội này.
Với tốc độ tăng trưởng kinh tế ở mức khá cao và ổn định như hiện nay, cùng
một thị trường hơn 1,3 tỷ người tiêu dùng đang trong quá trình chuyển biến mạnh mẽ
về cơ cấu tiêu dùng, thị trường Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục là thị trường trọng điểm, có
tầm quan trọng to lớn đối với xuất khẩu của Việt Nam. Với xu hướng tăng trưởng khá
nóng như hiện nay, trong vòng 10 năm tới, nhu cầu vềnăng lượng, về nguyên liệu đầu
vào phục vụ sản xuất, tiêu dùng của Trung Quốc sẽ rất cao. Vì vậy, chúng ta cần phát huy


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status