vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở việt nam hiện nay (qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền bắc việt nam - Pdf 10

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Đảng ta khẳng định: "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững" [14, tr. 108-109]. Ở đây
những nhiệm vụ trọng yếu, nền tảng của chương trình giáo dục đại học là
xây dựng một đội ngũ trí thức có nhân cách đạo đức trong sáng, làm chủ về
chuyên môn nghiệp vụ, khỏe mạnh về thể chất đáp ứng tốt yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Điều đó sẽ tạo ra hệ điều
chỉnh bên trong, tự giác, tự nguyện; làm cho sự quan tâm của con người đối
với người khác cũng như đối với lợi ích của xã hội trở thành nhu cầu và sự
thôi thúc từ nội tâm. Đây là yếu tố kích thích tính tích cực trong mỗi con
người, hướng họ biết giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa cá nhân và xã
hội, góp phần khắc phục sự mất cân đối trong quá trình phát triển con
người - xã hội dưới những tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ và cơ chế thị trường hiện nay.
Việt Nam, sau hơn 15 năm đổi mới, chuyển sang phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt được những thành tựu đáng
tự hào. Bên cạnh đó, kinh tế thị trường lại là mảnh đất màu mỡ nảy sinh
nhiều yếu tố tiêu cực. Các tác động của kinh tế thị trường đã can thiệp, phá
vỡ nhiều nét đẹp của văn hóa truyền thống, chà đạp lên những khuôn mẫu
đạo đức, những giá trị đạo đức đích thực. Mặt khác, các thế lực thù địch
đang tiến công chúng ta trên lĩnh vực văn hóa, đạo đức, lối sống, nhất là
đối với thanh niên, sinh viên. Và thực tế ngày nay, đáng lo ngại là một bộ
phận học sinh, sinh viên suy thoái đạo đức, mờ nhạt lý tưởng, thực dụng,
1
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai bản thân và tiền đồ đất
nước.
Như vậy, đổi mới, mở cửa, thuận lợi, khó khăn, thời cơ, nguy cơ đan
xen nhau. Trong đó, nhân tố đạo đức, giá trị của đời sống tinh thần của sinh

các nhà khoa học trường đại học Lêningrát, Tủ sách Đại học Kinh tế kế
hoạch năm 1981; Lê Diệp Đĩnh: "Thực trạng tâm lý xã hội của sinh viên và
vấn đề giáo dục nhân cách cho sinh viên ở nước ta hiện nay", Luận văn
thạc sĩ Triết học bảo vệ năm 1995; Trần Sỹ Phán: "Giáo dục đạo đức với
việc hình thành và phát triển nhân cách sinh viên trong giai đoạn hiện
nay", Luận án tiến sĩ triết học bảo vệ tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh năm 1999
Về xây dựng nhân cách đạo đức có tác giả quan tâm nghiên cứu ở
phương diện chung: Trần Thị Tuyết Sương: "Vấn đề xây dựng nhân cách
đạo đức con người Việt Nam trong điều kiện hiện nay", Luận văn thạc sĩ
Triết học, bảo vệ tại Viện Triết học 1998
Nhìn chung, các công trình kể trên đã có nhiều đóng góp trong việc
làm rõ mối quan hệ giữa kinh tế và đạo đức với việc xây dựng và giáo dục
nhân cách cho sinh viên, nhưng chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu
một cách hệ thống về vấn đề xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên
trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: "Vấn đề xây dựng nhân cách đạo
đức sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
(qua thực tế các trường đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt
Nam" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích:
3
Qua khảo sát nhân cách đạo đức sinh viên hiện nay tại một số trường
đại học khối xã hội nhân văn ở miền Bắc Việt Nam, luận văn đưa ra các
giải pháp chủ yếu nhằm xây dựng nhân cách đạo đức cho sinh viên trong
điều kiện kinh tế thị trường hiện nay ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích nói trên, luận văn đã thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản như sau:

khảo cho giáo viên, sinh viên dạy và học môn Đạo đức học.
Luận văn có ý nghĩa nhất định đối với công tác giáo dục và xây dựng
nhân cách đạo đức cho sinh viên trong điều kiện kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay ở nước ta.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương, 4 tiết.
5
Chương 1
NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC, TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC
XÂY DỰNG NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN HIỆN NAY
1.1. NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC VÀ NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN QUI
ĐỊNH SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHÂN CÁCH ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
1.1.1. Nhân cách
Tư tưởng về nhân cách xuất hiện từ Arixtôt (384 - 322 TCN) - nhà
Triết học cổ đại Hy Lạp - khi ông cho rằng, con người là "sinh vật chính
trị" (Joon poltikon). Ở đây, bước đầu Arixtôt đã thấy được vai trò của tác
động xã hội, của giáo dục đào tạo đối với sự phát triển con người như là
một nhân cách. Tuy nhiên, đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, lần đầu
tiên, hai nhà tâm lý học người Đức Dilthey và Spranger mới đưa ra khái
niệm nhân cách. Theo hai ông, nhân cách là cái "mặt nạ" có tính chất xã hội
của cái tôi bên trong; khi nào cái "mặt nạ" đó trùng với cái tôi thì nhân cách
phát triển chín muồi [24, tr. 42].
Đến nay, nhân cách được nghiên cứu, định nghĩa dưới nhiều góc độ
khác nhau, những đại biểu nổi tiếng như: S.Freud với thuyết "Phân tâm
học" coi bản chất nhân cách là thuộc tính sinh vật hay sinh vật hóa bản chất
nhân cách, coi nó là bản năng tình dục; J.H.eysenck coi nhân cách là một
dạng nào đó của ý thức trí tuệ và ý thức đạo đức thực hiện sự tự chủ trong
bối cảnh tương tác; A.A.dler với thuyết "Siêu đẳng bù trừ", G.Allport với
thuyết "đặc trưng" và năm 1949 ông đã đưa ra trên 50 định nghĩa khác nhau

ngoài cá nhân, thông qua hoạt động giao tiếp của cá nhân ấy" [4, tr. 74];
"Nhân cách là toàn bộ những đặc điểm tâm lý của cá nhân đã hình thành và
phát triển từ trong các quan hệ xã hội" [53, tr. 80] hoặc "Khái niệm nhân
7
cách được thể hiện là toàn bộ đời sống" tinh thần và xã hội của con người
bao gồm "tầng" xã hội và "tầng" tâm lý trong con người. Khái niệm này
cho phép hiểu bản chất Người ở mỗi cá nhân, cái tư cách làm Người của
nó, cái phân biệt nó với giống loài động vật. Tuy nhiên, nhân cách là một
khái niệm phức tạp, cần được tiếp cận từ nhiều phía " [49, tr. 28] và có
hàng trăm định nghĩa khác nhau về nhân cách và mỗi ngành khoa học lại
tiếp cận nhân cách từ góc độ nghiên cứu đặc thù của mình, đi sâu vào mặt
này, hoặc mặt khác của nhân cách, tùy thuộc vào mục đích nghiên cứu của
ngành đó. Tuy nhiên, có thể nhận thấy rằng, các quan điểm đó tập hợp
thành hai khuynh hướng cơ bản:
- Một là: Coi nhân cách như là đặc trưng, chức năng, vai trò, vị trí
của con người trong xã hội.
- Hai là: Coi nhân cách là đặc trưng bản chất của con người [48, tr. 11].
Chúng tôi thống nhất với khuynh hướng thứ hai coi nhân cách là đặc
trưng bản chất của con người.
Khi bàn về vấn đề con người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
đặc biệt chú ý tới bản chất xã hội của con người, lý giải các quan hệ xã hội
tham gia vào sự hình thành bản chất ấy cũng như vai trò của thực tiễn và
hoạt động thực tiễn đối với sự bộc lộ những sức mạnh bản chất Người, tới sự
hình thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách Người. Mác đưa ra nhận xét
bản chất con người đặc thù không phải là râu của nó, không phải là máu
của nó, không phải là bản chất thể xác trừu tượng của nó mà chính là phẩm
chất xã hội của nó. "Mỗi quan hệ của anh ta đối với con người và đối với
giới tự nhiên phải là một biểu hiện của đời sống cá nhân hiện thực" [34, tr.
136]. Như vậy, con người là một thực thể sinh học - xã hội mang bản chất


9
phản ánh nhân cách xã hội, đồng thời nhân cách xã hội tìm thấy mình qua
những hình ảnh, diện mạo riêng rất đa dạng của mỗi nhân cách cá nhân.
1.1.2. Nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức của sinh viên
Nhân cách đạo đức: Là tổng thể những phẩm chất đạo đức của
nhân cách (nhu cầu, tình cảm, niềm tin, tri thức, lý tưởng, năng lực đạo
đức ) được hình thành một cách lịch sử - cụ thể, được thể hiện, thực hiện
trong toàn bộ hoạt động sống của mình như một cá nhân.
Nếu nhân cách là một chỉnh thể thống nhất giữa đức và tài, của những
thuộc tính, phẩm chất, xu hướng bên trong, riêng biệt của mỗi cá nhân, dùng
để phân biệt cá nhân này và cá nhân khác thì nhân cách đạo đức lại thể hiện
năng lực đạo đức cá nhân, là ý thức, tình cảm, lý tưởng đạo đức cá nhân.
Nhân cách là một khái niệm rộng bao hàm trong nó phương diện đạo đức,
phương diện thẩm mỹ, phương diện nhận thức hoặc nói cách khác nhân
cách bao gồm những phẩm chất đạo đức, phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất
nhận thức tức là những phẩm chất xã hội của con người. Những phẩm
chất xã hội ấy được hình thành trong quá trình hoạt động thực tiễn, hoạt
động xã hội của con người chứ không phải do thiên phú hay là những phẩm
chất bẩm sinh. Vì vậy, tất yếu trong cấu trúc của nhân cách phải bao gồm
phẩm chất thẩm mỹ, phẩm chất nhận thức và phẩm chất đạo đức của cá
nhân.
Tuy nhiên, sự tham gia của nhân cách đạo đức trong cấu trúc của
nhân cách không chỉ được hiểu đơn giản chỉ là yếu tố cấu thành lên nhân
cách, dù là yếu tố nền tảng. Sự tham gia đó biểu hiện mối quan hệ biện
chứng giữa nhân cách và nhân cách đạo đức, nhân cách đạo đức phát
triển sẽ là "chất men" kích thích sự phát triển của trí tuệ, của tư duy sáng
tạo và năng lực thực tiễn của nhân cách. Nói đến nhân cách đạo đức là có
10
ý thức nhấn mạnh phẩm chất đạo đức là phẩm chất tiêu biểu nhất, là "cái
gốc" làm nên nhân cách con người.

chuẩn mực đạo đức sẽ tạo ra mô hình phát triển rập khuôn, hạn chế sự phát
triển độc lập của mỗi cá nhân. Đây là điều hoàn toàn không có trong hiện
thực!
- Xu hướng thứ ba, quan niệm: phẩm chất đạo đức cá nhân không thể
chỉ là những yêu cầu chung của đạo đức xã hội mà nó còn phải là những
nét tính cách mang ý nghĩa tâm lý đạo đức của con người cấu thành nên
nhân cách cá nhân. Đó là sự thống nhất giữa giữa lý tưởng và hiện thực
cuộc sống, giữa trí tuệ, tình cảm và hoạt động thực tiễn của các cá nhân.
Thống nhất với xu hướng thứ ba, chúng tôi đi vào phân tích một số
đặc trưng của nhân cách đạo đức.
Nhu cầu đạo đức: Nhân cách con người chỉ thực sự hình thành và phát
triển thông qua sự phát triển của hoạt động của con người. "Nền tảng của
nhân cách là những quan hệ phối thuộc giữa các hoạt động của con người
mà vốn do tiến trình phát triển của những hoạt động ấy tạo ra" [31, tr. 128],
mà yếu tố có liên quan chặt chẽ tới hoạt động và giữ vai trò động lực của
hoạt động là nhu cầu.
Nhu cầu là một thuộc tính tâm lý cá nhân, là một yếu tố trong nhóm
xu hướng của cấu trúc nhân cách. Nhu cầu có tác dụng xác định xu hướng
của cá nhân, xác định thái độ của người đó đối với hiện thực và trách
nhiệm của bản thân. Nó ảnh hưởng mạnh mẽ tới lối sống và hoạt động của

nhân [24, tr. 51].
12
Nhu cầu của con người hết sức đa dạng. Trong tổng hệ nhu cầu có
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Trong nhu cầu tinh thần có nhu cầu
thẩm mỹ, nhu cầu đạo đức Nhu cầu đạo đức là nhu cầu con người hướng
tới cái thiện, là động lực của những hành động thiện. Đó cụ thể là nhu cầu
tương trợ giúp đỡ người khác, nhu cầu phục vụ tự nguyện tự giác lợi ích
của người khác, lợi ích của toàn xã hội
Trong nhu cầu nói chung, nhu cầu đạo đức nói riêng có sự thống

(lợi ích của tập thể, lợi ích của xã hội) [22, tr. 27]. Hêghen đã đưa ra một
vấn đề tưởng như là nghịch lý: Quá trình tự quên bản thân mình lại chính là
quá trình tự làm chủ bản thân mình, sâu xa hơn nữa chính lúc quên mình đi
ấy, lần đầu tiên ta tìm được bản thân mình và làm chủ được bản thân mình.
Tình cảm đạo đức chẳng những là sự biểu hiện của đặc trưng "Người" mà
nó còn là hình thức thông qua đó cá nhân ý thức được về mình, phát hiện
bản thân mình và làm chủ bản thân mình. Với tình cảm đạo đức - con
người "trở lại" với chính mình trong những hành vi đạo đức không vì mình.
Như vậy, tình cảm đạo đức không chỉ là biểu hiện của nhân cách đạo đức,
mà đây còn là một nét quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo cộng sản. Bồi
dưỡng tình cảm đạo đức có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong xây dựng
nhân cách đạo đức, xây dựng con người mới. "Nói rèn luyện con người,
trước hết nói giáo dục lòng nhân ái cho con người, vì lòng thương người là
đạo lý cuộc sống, là đạo lý làm người" [22, tr. 29].
Niềm tin là cơ sở để xây dựng một nhân cách đạo đức tốt đẹp.
Niềm tin là yếu tố quan trọng trong toàn bộ đời sống tinh thần của con
người. Mác và Ăngghen coi niềm tin là động lực quan trọng để thúc đẩy
hoạt động của con người. Niềm tin là cơ sở vững chắc để chúng ta xây
dựng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa và đấu tranh chống lại mọi thế lực thù
14
địch trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là cái riêng có của con
người, niềm tin được thể hiện qua quan niệm sống, lý tưởng, tình cảm
của mỗi cá nhân. Con người làm nên lịch sử của mình chính nhờ năng lực
hiểu biết thế giới và quá trình không ngừng cải tạo thế giới. Đó là quá trình
điều chỉnh, hoàn thiện dần mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, giữa
con người với những người xung quanh mình. Niềm tin được tạo lên từ con
tim và khối óc, từ sự kết hợp hài hòa, thẩm thấu lẫn nhau giữa tình cảm và
trí tuệ. Niềm tin là động lực mạnh mẽ thúc đẩy và qui định mức độ khám
phá, hiểu biết và do đó, nó qui định hành động của mỗi người. Trong hành
vi đạo đức, niềm tin là cơ sở đem đến cho chúng ta một nhận thức, một tâm

có định hướng, không có mục đích, hoạt động tùy tiện [52, tr. 44].
Lý tưởng đạo đức vừa là tiền đề, vừa là cơ sở căn bản quyết định sự
hình thành và phát triển của nhân cách đạo đức.
Không thể xác định được phạm trù lý tưởng đạo đức nếu không dựa
trên nền tảng chung của nó là lý tưởng, vì cùng với lý tưởng chính trị - xã
hội, lý tưởng tôn giáo, lý tưởng thẩm mỹ lý tưởng đạo đức là một bộ phận
hợp thành lý tưởng chung của một nhóm người, của một giai cấp, của một
dân tộc.
Lý tưởng nói chung là trạng thái cao nhất, hoàn hảo nhất mà con
người muốn đạt tới. Lý tưởng thôi thúc con người hành động để thỏa mãn
các nhu cầu lợi ích [17, tr. 42].
Trong đời sống mọi giai tầng xã hội, lý tưởng có một ý nghĩa rất
quan trọng. Lý tưởng đạo đức cao đẹp, trong sáng là tiền đề để hình thành
một nhân cách đạo đức cao đẹp. Không thể xây dựng một nhân cách đạo
đức cao đẹp trong một con người sống không có lý tưởng, không nhận thức
được điều nên làm hay không nên làm, dễ bị du nhập, lôi kéo Lý tưởng
16
chung của thời đại chúng ta đã được Đảng, Bác Hồ và cả dân tộc ta lựa
chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lý tưởng đạo đức phải
gắn với lý tưởng xã hội - chính trị thì mới có một nội dung cụ thể, xác định.
Lý tưởng đạo đức trong thời đại chúng ta đó là đấu tranh để thực hiện thắng
lợi đường lối, chủ trương, chính sách do Đảng và Nhà nước đề ra để bảo vệ
và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Là bộ phận hợp thành lý tưởng,
lý tưởng đạo đức là cơ sở lựa chọn những giá trị đạo đức của thời đại; là
mục tiêu cao nhất cho mọi hành vi đạo đức của các cá nhân; là tiêu chuẩn
cao nhất của các đánh giá đạo đức.
Thế giới mà chúng ta đang sống là tổng thể của những chân lý và sai
lầm, của các điều thiện và ác, của những hành vi đẹp và xấu được diễn ra
trong mối quan hệ tương tác giữa con người với tự nhiên và giữa những
con người với nhau. Xuất phát từ mục đích thực hiện lợi ích của mình, của

được bộc lộ ra hay không phụ thuộc vào rất nhiều các điều kiện chủ quan
và khách quan. Năng lực đạo đức là một tập hợp những thuộc tính về tâm
sinh lý, cùng với những phẩm chất tinh thần đặc biệt giúp cho mỗi cá nhân
có khả năng nhận thức, khả năng đánh giá, khả năng thực hiện những hành
vi đạo đức trong hiện thực.
Năng lực đạo đức trong mỗi nhân cách phát triển ở mức độ khác
nhau, tùy thuộc vào năng khiếu bẩm sinh nhưng yếu tố giữ vai trò quyết
định hơn cả đó là quá trình tu dưỡng, rèn luyện, học tập trong hoạt động
thực tiễn của mỗi cá nhân.
Nhân cách đạo đức chân chính nhất thiết phải được thể hiện bằng
hành động và hành động đó nhất thiết phải hướng vào cải tạo thế giới trong
đó con người sống và làm việc. Hành vi đạo đức không chỉ tạo lên những
giá trị đạo đức mà còn là đặc trưng bản chất để phân biệt sự khác nhau căn
bản giữa con người và con vật. Hoạt động của con vật chỉ là hoạt động
18
"thích nghi bị động". Hoạt động của con người, về bản chất vẫn là hoạt
động thích nghi, nhưng đồng thời cùng với sự phát triển và hoàn thiện của
văn hóa, nhân cách mà hoạt động đó trở thành hoạt động cải tạo thế giới
con người đang sống và cải tạo chính bản thân con người. Quá trình con
người thể hiện năng lực đạo đức của mình trong hiện thực mang một ý
nghĩa tích cực là tác động cải tạo môi trường sống; cải tạo và phát triển
chính bản thân mình; phân biệt hoạt động của con người với con vật. Với ý
nghĩa ấy, năng lực đạo đức là một đặc trưng hết sức cốt yếu trong nhân
cách đạo đức.
Nói một cách tổng quát thì nhân cách đạo đức có cấu trúc từ ý thức
đạo đức và năng lực đạo đức. Ý thức đạo đức là sự thống nhất biện chứng
của tình cảm đạo đức, niềm tin đạo đức, tri thức đạo đức và lý tưởng đạo
đức. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau, làm tiền đề cho nhau cùng
phát triển. Năng lực đạo đức bao gồm năng lực nhận thức, năng lực đánh
giá, năng lực thực hiện hành vi đạo đức trong thực tế của mỗi chủ thể đạo

phải thiết tha với độc lập của Tổ quốc, bởi đó là thành quả được đổi bằng
biết bao xương máu của các thế hệ cha ông đánh bại mọi kẻ thù xâm lược
dưới sự lãnh đạo của Đảng và ngày nay đang thực hiện thắng lợi sự nghiệp
đổi mới, đưa đất nước vững bước tiến vào thế kỷ XXI. Họ hiểu rằng muốn
củng cố và bảo vệ nền độc lập, tự do cho dân tộc thì chỉ có con đường duy
nhất là đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy, lý tưởng, lý tưởng đạo
đức của sinh viên còn được biểu hiện trong khát vọng học tập, nghiên cứu;
biểu hiện ở ý thức trách nhiệm trong học tập, ở sự nỗ lực, chuyên cần, sáng
tạo trong học tập nắm vững những tri thức được học tập trong trường, vươn
lên chiếm lĩnh những đỉnh cao của khoa học - công nghệ, nhanh chóng hội
nhập với xu thế phát triển của nền văn minh nhân loại. Bởi trong nền kinh
20
tế tri thức, dân tộc nào vươn lên đến đỉnh cao trí tuệ, dân tộc đó sẽ chiến
thắng.
Tình cảm đạo đức với tư cách là phản ứng của con người với các
hiện tượng đạo đức. Nó có những biểu hiện sâu sắc, nhạt nhòa khác nhau
cùng như sự biểu hiện đa dạng, phong phú khác nhau ở những giai đoạn
phát triển khác nhau của nhân cách đạo đức. Tình cảm đạo đức của sinh
viên được biểu hiện căn bản trong tình cảm với gia đình, thầy cô và bè bạn,
đặc biệt nổi trội là tình cảm đối với thầy cô, tình cảm với bạn bè và tình
yêu. Ở mỗi sinh viên, bên cạnh sự kính yêu cha mẹ, là lòng kính trọng các
thầy cô, tình cảm này bắt nguồn từ chính vị trí lớn lao của thầy cô giáo đối
với việc hình thành nhân cách của mỗi sinh viên. Tình cảm đạo đức được
biểu hiện trước hết là sự trung thực trong học tập, rèn luyện, lòng dũng
cảm, tình đoàn kết, sự yêu thương, kính trọng và giúp đỡ bạn bè trong học
tập, công tác. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn học sinh, sinh viên nói
chung: "Phải khiêm tốn, thật thà", "kiêu ngạo, tự phụ, tự mãn là kẻ thù số
một của học tập".
"Phải tự nguyện, tự giác, xem công tác học tập cũng là một nhiệm vụ
mà người cách mạng phải hoàn thành cho được". Do đó, "không lùi bước

không thể hiểu được hành động trong thực tiễn lịch sử của con người. Nói
cụ thể hơn, tính chất của việc giải quyết quan hệ lợi ích giữa cá nhân và xã
hội là nhân tố sau cùng qui định bộ mặt đạo đức của nhân cách.
Mỗi cá nhân riêng lẻ không làm nên xã hội, mà xã hội bao giờ cũng
là tập hợp của những cá nhân cùng với các mối quan hệ của họ. Nói cách
khác, do lợi ích và thông qua việc thực hiện lợi ích mà các cá nhân tập hợp,
liên kết và có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Ăngghen đã chỉ ra rằng: "Ở
đâu không có lợi ích chung thì ở đó không thể có sự thống nhất về mục
22
đích và càng không thể có sự thống nhất về hành động được" [38, tr. 21].
Tuy nhiên, ở mỗi cá nhân lại có nhu cầu, lợi ích riêng, khác nhau, thậm chí
nhiều khi lợi ích cá nhân lại đối lập với lợi ích xã hội, lợi ích dân tộc mình.
Sự phát triển của con người nói chung, nhân cách đạo đức nói riêng chỉ có
thể phát triển đúng qui luật khi mỗi cá nhân tự giác nhận thức đúng đắn,
giải quyết hài hòa về mối quan hệ cá nhân - xã hội xét trên phương diện lợi
ích. Mác - Ăngghen đã chỉ rõ:
Chừng nào con người còn ở trong xã hội hình thành một
cách tự nhiên, do đó chừng nào còn có sự chia cắt giữa lợi ích
riêng và lợi ích chung chừng đó bản thân con người sẽ trở
thành một lực lượng xa lạ, đối lập với con người và nô dịch con
người, chứ không phải bị con người thống trị [36, tr. 47].
Lợi ích cá nhân là động lực trực tiếp cho mọi hoạt động của con
người. Con người, ở bất kỳ thời đại nào cũng hành động trước hết vì lợi ích
của bản thân mình. Vì vậy, lợi ích cá nhân đóng vai trò trực tiếp, cơ sở cho
mọi hoạt động tự giác, hoạt động tích cực của con người. Lợi ích cá nhân
cũng là nhân tố quyết định trước hết, là cơ sở để thực hiện lợi ích xã hội.
Lợi ích xã hội với ý nghĩa là lợi ích hướng vào thỏa mãn những nhu cầu
chung của nhiều thành viên hợp lại thành cộng đồng xã hội. Vì vậy, lợi ích
xã hội là điều kiện và đóng vai trò định hướng cho việc thực hiện lợi ích cá
nhân. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lợi ích cá nhân nào cũng chính

đức. Bởi nhân cách đạo đức nói riêng và đạo đức có thể chỉ được xác định
đầy đủ khi đặt nó trong mối quan hệ với các nhu cầu và lợi ích.
Sự phát triển nhân cách đạo đức còn chịu sự tác động mạnh mẽ của
truyền thống đạo đức. Đồng thời nó cũng bị qui định bởi nhân tố văn hóa
tinh thần xã hội và gắn liền với sự phát triển của văn hóa tinh thần trong
24
mỗi cá nhân. Đạo đức truyền thống có tác động mạnh mẽ đến sự hình thành
những kiểu mẫu hành vi đạo đức, đến sự đánh giá và những tình cảm đạo
đức. Hiệu quả của giáo dục, với tính cách là một nhân tố phát triển nhân
cách đạo đức phụ thuộc rất nhiều vào kỹ năng vận dụng những giá trị truyền
thống trong hoàn cảnh mới để phục vụ xã hội và bản thân mỗi cá nhân.
Văn hóa tinh thần xã hội là tổng hòa của văn hóa tinh thần cá nhân,
tuy nhiên đây không phải là phép cộng đơn giản của tất cả văn hóa tinh
thần cá nhân mà nó là sự kết tinh những tinh hoa của nhiều thời đại, nhiều
thế hệ đã qua. Mỗi cá nhân khi sinh ra đã được sống, được tiếp nhận một hệ
các giá trị, hệ các chuẩn mực của văn hóa tinh thần xã hội. Những giá trị,
chuẩn mực này được phản ánh trong thế giới quan, hệ thống tri thức xã hội,
trong những chuẩn mực về pháp lý, đạo đức, thẩm mỹ Chúng ta không
thể nói đến nhân cách của một đứa trẻ sơ sinh. Nhân cách, nhân cách đạo
đức của con người dần được hình thành và phát triển trong môi trường họ
sống một cách gián tiếp thông qua quá trình giáo dục và tự giáo dục.
Trong những yếu tố cấu thành nên văn hóa tinh thần xã hội thì thế
giới quan, những chuẩn mực pháp lý, thẩm mỹ, đạo đức có vị trí quan
trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách đạo đức.
Thế giới quan có vị trí đặc biệt trong cấu trúc nhân cách. Nó được
cấu thành từ những yếu tố cơ bản là tri thức, niềm tin, lý tưởng. Nó là hạt
nhân của nhân cách, là cơ sở để hình thành các quan điểm, tư tưởng chính
trị, văn hóa, đạo đức, lối sống. Từ đó, con người tự nhận thức về mình, tự
rút ra những nhận định cần thiết trong mối quan hệ với các thành viên khác
và xã hội. Vì vậy, một thế giới quan đúng đắn là cơ sở quan trọng nhất để


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status