nhân tố chủ quan với việc thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay (qua thực tế vĩnh phúc) - Pdf 10

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đã bước vào thế kỷ XXI. Thế kỷ mới với những xu hướng,
thuận lợi, khó khăn và thách thức mới. Thế kỷ bùng nổ thông tin, khoa học
hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, kinh tế hội nhập đã làm cho cục diện thế giới có
nhiều biến động và phân hóa sâu sắc về các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội,
an ninh, quốc phòng. Một số quốc gia, dân tộc đã có những thay đổi lớn so
với những thập niên cuối thế kỷ XX.
Việt Nam, sau 20 năm thực hiện đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo, chúng ta đã thu được những thành tựu to lớn đáng
trân trọng, kinh tế phát triển khá, chính trị tương đối ổn định, an ninh được
giữ vững, quốc phòng được tăng cường, đời sống nhân dân không ngừng
được cải thiện. Đại hội IX của Đảng (2001) tiếp tục khẳng định: Phát triển
nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý của Nhà nước, định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu từ nay đến năm
2020 đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp, tất cả vì mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đại hội X của
Đảng (2006) một lần nữa chỉ rõ: phải thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
(CBXH) ngay trong từng bước và trong từng chính sách phát triển.
Nền kinh tế thị trường (KTTT) đã đem lại những thành tựu to lớn về
kinh tế sau 20 năm thực hiện đổi mới. Đây là điều kiện quan trọng tạo tiền đề
kinh tế vững chắc cho việc thực hiện CBXH. Tuy nhiên, KTTT cũng bộc lộ
những nhược điểm làm ảnh hưởng không tốt đến việc thực hiện CBXH, sự
chênh lệch thu nhập, phân hóa giàu nghèo cũng như trình độ dân trí,… có
chiều hướng ngày càng gia tăng giữa các vùng miền, tỷ lệ đói nghèo phần lớn
tập trung chủ yếu ở nông thôn, vùng sâu vùng xa, biên giới và hải đảo, miền
1
núi, dân tộc thiểu số. Điều kiện tập trung đầu tư giáo dục và phát triển kinh tế
lại thuộc về những người có thu nhập cao, các tệ nạn xã hội như buôn lậu,
tham nhũng, trốn thuế, lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ hở trong quản lý
kinh tế để làm giàu phi pháp đang trở thành điểm nóng được dư luận hết sức

Mai Đức Lộc đồng chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000;
- "Vai trò của pháp luật trong việc đảm bảo công bằng xã hội ở Việt
Nam hiện nay", Luận án tiến sĩ của Vũ Anh Tuấn, Học viện Chính trị Quốc
gia Hồ Chí Minh, 2001;
- "Nhà nước với việc thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của
Võ Thị Hoa, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2002;
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong giai
đoạn hiện nay ở nước ta (Qua thực tế tỉnh Quảng trị)", Luận văn thạc sĩ của
Nguyễn Xuân Phong, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2003;
- "Thực hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc trong giáo dục - đào
tạo ở các tỉnh miền núi phía bắc nước ta hiện nay", Luận văn thạc sĩ của Phạm
Văn Dũng, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004;
- "Phát huy vai trò nhân tố chủ quan trong việc tổ chức thực hiện nghị
quyết Đảng ở nước ta hiện nay (Qua thực tế tỉnh Hải Dương)", Luận văn thạc
sĩ của Vũ Hữu Phê, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2004);
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới - vấn đề và giải pháp", do TS Nguyễn Thị Nga làm chủ nhiệm
đề tài, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, 2006;
- "Vai trò của Nhà nước trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở nước ta hiện nay", của PGS.TS Trần Thành, Tạp chí Triết
học, số 2(177), 2006;
3
- "Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay - những quan điểm cơ bản của Đảng", của TS Nguyễn Thị Nga, Tạp
chí Triết học, số 9(184), 2006

Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết của các nhà khoa học đăng trên các báo và
tạp chí bàn về vấn đề CBXH ở Việt Nam và trên thế giới trong thời gian gần đây.
Tuy nhiên, vẫn chưa có tác giả nào đề cập vấn đề một cách trực tiếp dưới góc độ

Hồ Chí Minh, các chủ trương đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước, đồng thời kế thừa và phát huy những giá trị trong các công trình
khoa học đã nghiên cứu để phục vụ cho luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn đã dùng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử và lôgíc, phân tích và tổng
hợp, trừu tượng và cụ thể nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ mà đề tài
đã đặt ra.
6. Đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn
Luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trò của NTCQ đối với việc thực
hiện CBXH ở Việt Nam trong điều kiện KTTT hiện nay (qua thực tế Vĩnh
Phúc), từ đó đề xuất những phương hướng và giải pháp thích hợp nhằm thực
hiện tốt CBXH ở nước ta nói chung và Vĩnh Phúc nói riêng. Kết quả nghiên
cứu luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc tìm hiểu, nghiên
cứu và vận dụng vào thực tiễn sau này.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
5
Chương 1
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ VAI TRÒ NHÂN TỐ CHỦ QUAN
ĐỐI VỚI VIỆC THỰC HIỆN CÔNG BẰNG XÃ HỘI TRONG ĐIỀU KIỆN
KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
1.1. QUAN NIỆM VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1.1. Quan niệm ngoài mácxít về công bằng xã hội
Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động
và lao động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên
trong thị tộc, bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau,
cùng săn bắn, hái lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau

đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều cuộc khởi nghĩa chống lại địa
chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [42, tr. 243].
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác
ái", của giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến,
đồng thời khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội
dân chủ theo mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật
tiến bộ, công bằng. Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng CBXH của
thời kỳ này.
Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ
nghĩa duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa
đã ban cho nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con
người thì lại có tính tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và
công bằng, ông đã chỉ ra rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với
con người thì phải có một lực lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân,
7
đó chính là nhà nước. Tư tưởng này của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật
về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà
nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị, nên ông đã cho rằng không thể
thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra
tư tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính
nhận thức mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp
bức và bất công. Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công,
không nhận thức được hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn
của mình. Tuy nhiên, quan điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội.
Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện
chứng lỗi lạc của triết học Khai sáng Pháp, ông cho rằng: xã hội công dân đã
tạo ra một xiềng xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn
kìm hãm, thủ tiêu bình đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo
ông, muốn xóa bỏ bất công, bất bình đẳng thì phải xây dựng một nhà nước

công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ được thực hiện bằng một cuộc cách mạng
xã hội.
Như vậy, việc thực hiện CBXH trong chủ nghĩa tư bản chỉ là phương
tiện để đạt mục đích đó là lợi nhuận cho nhà tư bản chứ không phải là cái đích
CBXH mà nhân loại đang cần vươn tới. Olivier de Solages (nhà kinh tế học
người pháp) khẳng định: "Đông đảo quần chúng không thể hiện được rằng
một sự tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tốc lại được thể hiện bằng một sự
phân phối bất công đến thế về thu nhập quốc dân và bằng những bất bình
đẳng ngày càng trầm trọng" [74, tr. 92].
Bên cạnh đó còn xuất hiện nhiều tư tưởng về CBXH theo trào lưu tân
cổ điển và cổ điển, họ đã nhấn mạnh tự do cá nhân theo một chiều trong mối
quan hệ với CBXH, họ cho rằng chính tự do cá nhân mới là động lực thúc đẩy
9
tăng trưởng kinh tế (TTKT) và tiến bộ xã hội. Vì vậy, muốn phát triển thì phải
giảm bớt CBXH, không thể cùng một lúc vừa có TTKT lại vừa có CBXH được,
mà chỉ khi nào kinh tế tăng trưởng đến một mức độ nhất định nào đó thì mới
có đủ điều kiện để thực hiện CBXH. Quan điểm này đã bị chính xã hội tư sản
bác bỏ vì phủ nhận vai trò CBXH trong việc thúc đẩy TTKT. Max - Weber (nhà
xã hội học và triết học người Đức) lại giải thích bất công trong chủ nghĩa tư bản
bằng khả năng không ngang nhau trong việc chiếm lĩnh thị trường của các doanh
nghiệp hoặc người lao động, ông còn cho rằng cơ may và vận hội trong cuộc đời
không thể chia đều cho mọi người. Đây cũng là lý do để tồn tại những vị thế
khác nhau trong xã hội, những điều như vậy là nguyên nhân dẫn đến bất công
trong xã hội tư sản. Học thuyết này có đóng góp lớn đối với sự phân tầng xã
hội song chưa lý giải trọn vẹn bản chất của sự bất công trong chủ nghĩa tư bản.
Những người theo quan điểm xã hội dân chủ trong khi bác bỏ tính
phiến diện của trào lưu cổ điển và tân cổ điển đã tìm kiếm sự hỗ trợ lẫn nhau
giữa tự do cá nhân, CBXH với TTKT, nhưng thực tế lại dẫn đến sai lầm.
Đường lối của Đảng xã hội dân chủ Thụy Điển một thời lầm tưởng rằng đã
thật sự có CNXH và CBXH, nhưng thực tế thì đó là CBXH mà ở đó đã làm

mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hóa ngày càng cao
với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trở nên gay gắt đến
mức bùng nổ cách mạng XHCN để mở ra một thời đại mới, thời đại đó tư liệu
sản xuất sẽ được công hữu hóa và phương thức phân phối sản phẩm sẽ hợp lý
hơn, CBXH sẽ được bảo đảm.
Theo các nhà mácxít thì chỉ có chủ nghĩa cộng sản với tư cách là xã
hội phát triển nhất của nhân loại, ở xã hội này sự phát triển tự do của mỗi
người là điều kiện cho sự phát triển tự do của mọi người. Xã hội có khả năng
thực hiện phân phối theo nhu cầu, và chỉ như vậy thì mới có thể thực hiện
11
CBXH một cách tuyệt đối. Tuy nhiên, quan điểm mácxít cũng cho thấy rằng:
CNXH với tư cách là giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản thì chưa có
CBXH như người ta mong muốn (công bằng tuyệt đối), vì ở đó vẫn còn tồn
tại nhiều tiền đề kinh tế - xã hội cho bất bình đẳng như tư hữu và những yếu
tố của pháp quyền tư sản trong phân phối. Đây chính là phân phối theo lao
động - một nguyên tắc của việc phân phối chủ yếu trong CNXH và là nét đặc
trưng trong quan niệm về CBXH trong thời kỳ này và cũng chính là "thiếu sót
không thể tránh khỏi trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản".
Trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôtha", C.Mác đã đề cập tới
phân phối trong CNXH, ông cho rằng, trong XHCN, sau khi đã khấu trừ đi
những khoản cần thiết để duy trì sản xuất, tái sản xuất cũng như để duy trì đời
sống của cộng đồng, toàn bộ sản phẩm xã hội còn lại sẽ được phân phối theo
nguyên tắc: Mỗi người sản xuất sẽ được nhận trở lại từ xã hội một số lượng
vật phẩm tiêu dùng trị giá ngang với số lượng lao động mà anh ta đã cung cấp
cho xã hội (sau khi đã khấu trừ số lao động của anh ta cho các quỹ xã hội).
Đây là một nguyên tắc phân phối công bằng vì ở đây tất cả những người sản
xuất đều có quyền ngang nhau tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm
một công việc ngang nhau. Như vậy, theo C.Mác, trong chế độ XHCN thì lao
động theo năng lực cá nhân và được nhận lại một phần sản phẩm anh ta làm

Như thế là trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản chủ nghĩa
(mà người ta vẫn thường gọi là chủ nghĩa xã hội), pháp quyền tư sản
chưa bị xóa bỏ hoàn toàn mà chỉ bị xóa bỏ một phần, chỉ bị xóa bỏ
với mức độ phù hợp với cuộc cách mạng kinh tế đã được hoàn
thành, nghĩa là chỉ trong phạm vi tư liệu sản xuất thôi. Pháp quyền
tư sản thừa nhận tư liệu sản xuất là sở hữu riêng của cá nhân. chủ
nghĩa xã hội biến tư liệu sản xuất thành tài sản chung [34, tr. 116].
13
Lênin cũng rất chú ý đến công bằng trong phân phối lao động, ông
cho rằng: "Người nào không làm thì không có ăn", nguyên tắc này được thực
hiện "số lượng lao động ngang nhau, thì hưởng số lượng sản phẩm ngang
nhau" [34, tr. 116].
Theo quan điểm mácxít thì phải thiết lập những tiền đề kinh tế ngày
càng cao cho việc thực hiện CBXH, không thể có CBXH đích thực trong một
xã hội nghèo khổ kém phát triển, đồng thời quan điểm mácxít cũng đề cập đến
một xã hội giàu có, của cải dư thừa nhưng lại thiếu công bằng trong phân phối,
TTKT là yếu tố quan trọng nhưng không phải là duy nhất để thực hiện CBXH.
Đây là quan điểm khác biệt cơ bản giữa quan điểm mácxít với quan điểm
ngoài mácxít, phải biết kết hợp hài hòa, biện chứng giữa TTKT và CBXH.
Bên cạnh đó quan điểm mácxít cũng chỉ ra điểm khác biệt giữa quan
niệm mácxít với các quan niệm khác về CBXH, đó là con đường đấu tranh
với những bất công xã hội mà trong đó bất công về địa vị kinh tế là lớn nhất,
"Những điều công bằng về mặt luân lý, thậm chí công bằng cả về mặt pháp
luật, có thể còn xa với công bằng về mặt xã hội" [45, tr. 365]. CBXH không
phải là sản phẩm của tạo hóa mà là sản phẩm của cuộc đấu tranh giữa con
người với những bất công trong xã hội.
Theo quan điểm mácxít, trong CNXH thì CBXH trong lĩnh vực kinh
tế đóng vai trò cơ sở và quyết định các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội
v.v , giữa cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) và quyền lợi (quyền được hưởng
quyền lợi), công bằng theo nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo lao

"Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng
Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên" [51, tr. 185].
Như vậy, theo Hồ Chí Minh thì công bằng không có nghĩa là cào bằng,
bình quân chủ nghĩa. Không có tình trạng người giỏi, người kém, việc khó
việc dễ cũng cùng điểm như nhau" [51, tr. 143].
15
Từ sự thâm nhập, tổng kết và khái quát thực tiễn Người khẳng định rằng
trong chế độ xã hội thực dân không có CBXH mà " Nhân dân chỉ có nghĩa vụ,
như nộp sưu đóng thuế, đi lính đi phu mà không có quyền lợi" [53, tr. 219],
công nhân, nông dân là những người chủ yếu sản xuất ra của cải vật chất cho
xã hội, nhờ đó xã hội mới tồn tại và phát triển nhưng lại rất bất công vì họ
luôn là những người nghèo khổ, trong khi đó một số người lại "ngồi mát ăn
bát vàng", theo Người thì nguyên nhân của sự bất công đó là "vì một số người
đã chiếm làm tư hữu những tư liệu sản xuất của xã hội " [53, tr. 203]. Người
kết luận rằng CBXH chỉ có trong xã hội mới, dưới chế độ dân chủ cộng hòa "
Nhân dân có nghĩa vụ đồng thời có quyền lợi" [53, tr. 219]; "Nhà nước ta
ngày nay là của tất cả những người lao động Nhân dân lao động là những
người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ" [53, tr. 310].
Như vậy CBXH trong tư tưởng Hồ Chí Minh thường được gắn kết với
bình đẳng xã hội tức là mối quan hệ giữa quyền lợi với nghĩa vụ, bình đẳng
giữa nghĩa vụ với quyền lợi. Bình đẳng trước hết là bình đẳng về nghĩa vụ và
quyền lợi, bình đẳng giữa người với người trong việc thực hiện nghĩa vụ và
hưởng thụ quyền lợi ấy, đó chính là thực hiện CBXH. Phân phối công bằng
theo Người là: "Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không
được hưởng". Đây là nguyên tắc phân phối công bằng trong điều kiện nước ta
hiện nay; Do đó, sự bình đẳng của những người lao động trong mối quan hệ
giữa nghĩa vụ và quyền lợi, mà cụ thể là sự ngang bằng nhau về địa vị làm
chủ nước nhà, làm chủ tư liệu sản xuất, bảo đảm cho mỗi người đều có thể
phát huy mọi khả năng của mình để vươn tới một cuộc sống ấm no hạnh phúc.

một bộ phận của lợi ích tập thể. Lợi ích chung của tập thể được đảm bảo thì
17
lợi ích riêng của cá nhân mới có điều kiện để được thỏa mãn" [55, tr. 291].
Việc đảm bảo lợi ích chung tức là bảo vệ điều kiện để thực hiện lợi ích của
mỗi cá nhân, (tức là biện pháp nhằm đảm bảo CBXH). Tư tưởng "mình vì
mọi người, mọi người vì mình" là thể hiện sự công bằng giữa lợi ích cá nhân
với cá nhân, cá nhân với tập thể và cộng đồng.
Như vậy, Hồ Chí Minh đã có quan điểm về CBXH khá toàn diện và
sâu sắc.Thực chất của CBXH theo Người là không gì khác ngoài mối quan hệ
giữa giữa cống hiến và hưởng thụ, ai làm nhiều thì hưởng nhiều, ai làm ít thì
hưởng ít, không làm thì không hưởng (trừ những người già cả, bệnh tật và trẻ
em). Người cũng cho thấy rõ rằng không nhất thiết phải xã hội giàu có thì mới
thực hiện được CBXH, mà ngay khi xã hội còn chưa thật giàu có vẫn thực
hiện được CBXH, tùy điều kiện kinh tế xã hội khác nhau mà việc thực hiện
CBXH khác nhau. Người cũng chỉ rõ CBXH khác với cào bằng, bình quân
chủ nghĩa nếu đồng nhất chúng thì sẽ triệt tiêu động lực tăng trưởng và phát
triển kinh tế. Người chỉ ra rằng thực hiện CBXH là cả một quá trình, phải làm
từng bước một, tránh sự nôn nóng và tránh sự trì trệ, ỷ lại, trông chờ. Cuối
cùng người khẳng định CBXH là mục tiêu của CNXH mà chúng ta cần phải
vươn tới, chỉ có xã hội XHCN mới thực sự đem lại CBXH cho nhân dân lao
động, phương thức duy nhất để thực hiện CBXH là đi lên CNXH, CBXH là
việc tạo ra điều kiện cho mỗi người có cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển của xã hội và hưởng thụ những thành quả của sự phát triển, là đảm bảo
quyền tự do của mỗi người trong quan hệ gắn bó với cộng đồng. CBXH phải
được thể hiện đầy đủ trong việc giải quyết quan hệ giữa phát triển kinh tế và
giải quyết những vấn đề xã hội, giải quyết hài hòa giữa quyền lợi và nghĩa vụ
của mỗi người. CBXH là trách nhiệm chung của nhà nước, của toàn xã hội
trong việc chăm lo, bảo vệ quyền lợi của nhân dân và tạo ra điều kiện thuận
lợi để nhân dân hoàn thành nghĩa vụ, quyền lợi của mình đối với nhà nước và
xã hội.

của từng giai cấp theo quyền lợi của mình. Trên cơ sở quan hệ kinh
tế, xã hội và chính trị của CNXH, khái niệm công bằng mang một
nội dung mới: Tất cả mọi người đều có thể trong thực tế, phát triển
như nhau nhân cách, tài năng, khả năng và đều có nhiệm vụ hoạt
động vì lợi ích xã hội. Nguyên tắc Mỗi người làm theo năng lực, và
hưởng theo lao động được thực hiện, chỉ khi nào tới CSCN thì mới
thực hiện được nguyên tắc Mỗi người làm theo khả năng và hưởng
theo nhu cầu [62, tr. 97-98].
Theo PGS,TS Dương Xuân Ngọc:
Công bằng xã hội là một phạm trù xã hội dùng để chỉ trình
độ phát triển về phương diện xã hội của con người (cá nhân và cộng
đồng), được thực hiện và thể hiện trên tất cả các lĩnh vực đời sống
xã hội: kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, tinh thần, mà trước hết là
lĩnh vực xã hội. Nó phản ánh mối quan hệ về nghĩa vụ và quyền lợi
giữa xã hội và cá nhân, nhằm đảm bảo sự phát triển hài hòa của con
người, của xã hội phù hợp với xu thế và tiến bộ xã hội. CBXH vừa
là khát vọng của con người, vừa là động lực, là mục tiêu của sự phát
triển xã hội, của cách mạng xã hội chủ nghĩa, của sự nghiệp đổi mới
theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta [63, tr. 37-39].
Theo GS,PTS Lê Hữu Tầng: khái niệm CBXH và BĐXH tuy có nội
dung rất gần nhau nhưng dù sao chúng vẫn là những khái niệm khác nhau. Sự
khác nhau ấy là ở chỗ nói tới BĐXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người
với người trong xã hội về một phương diện nào đấy (về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội.v.v), và nói tới BĐXH hoàn toàn là nói tới sự ngang bằng nhau
giữa người với người trong xã hội về mọi phương diện. Trong khi đó, nói tới
CBXH là nói tới sự ngang bằng nhau giữa người với người không phải về một
phương diện nào đấy bất kỳ, mà chính là về một phương diện hoàn toàn xác
20
định: về phương diện quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi, giữa cống hiến và
hưởng thụ theo nguyên tắc: cống hiến (thực hiện nghĩa vụ) ngang nhau thì

được thực hiện bằng cơ chế thị trường và sự điều tiết của nhà nước. Chỉ như
vậy thì mới thực hiện được CBXH một cách thực sự.
Thứ ba, CBXH không chỉ là ở sự phân phối kết quả sản xuất, tức là sự
tương xứng giữa lao động và thu nhập, cống hiến và hưởng thụ mà còn phải
xét đến việc có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu sản
xuất như vốn, tài nguyên, thông tin, khoa học kỹ thuật.v.v. Phải có cơ hội
ngang nhau để phát huy năng lực cá nhân.
Thứ tư, CBXH không chỉ đơn thuần là cống hiến về mặt kết quả lao
động và hiệu quả kinh tế, mà phải tính đến việc cống hiến về tư liệu sản xuất
(vốn, tài năng trí tuệ…) và họ phải được hưởng một phần thành quả lao động
từ sự cống hiến ấy. Chỉ như vậy thì mới tạo được động lực phát triển kinh tế -
xã hội và mới là CBXH.
Thứ năm, CBXH phải tính đến sự cống hiến trong quá khứ và hiện tại
của các chiến sĩ cách mạng, lực lượng vũ trang, đó là những thương binh, những
liệt sĩ, người có công với cách mạng đã hy sinh xương máu sức lực của bản thân
mình trong các cuộc kháng chiến vì mục tiêu và lý tưởng cao cả cho toàn thể
dân tộc và họ phải được bù đắp lại một phần tương xứng. Đó mới là CBXH.
Thứ sáu, Kinh tế thị trường đã tạo động lực cho phát triển và TTKT,
đồng thời tạo nên sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, về mặt tích cực nếu
giàu nghèo là do sự cống hiến về lao động, tài năng, trí tuệ. thì đó là CBXH,
nhưng giàu nghèo do làm ăn phi pháp, làm giàu không chính đáng thì đó lại là
bất công trong xã hội.
Đối lập với CBXH là bất công:
Bất công trong tự nhiên: như về thể chất, điều kiện, hoàn cảnh (ốm
yếu, tàn tật; đồng bằng với miền núi; nông thôn với thành thị; Dân tộc thiểu
22
số với dân tộc đa số; vùng sâu vùng xa, biên giới hải đảo với thành phố, các
trung tâm tỉnh lị v.v ).
Bất công phi lý phi pháp: là loại bất công mang tính tiêu cực không
chính đáng như tham ô, hối lộ, tham nhũng lợi dụng chức quyền, lợi dụng kẽ

đồng bào dân tộc thiểu số, người nghèo, vùng căn cứ cách mạng, người cơ nhỡ,
người ốm đau tàn tật không nơi nương tựa. CBXH đảm bảo cho mọi thành
viên trong xã hội không ngừng nâng cao mức sống và tự khẳng định mình.
CBXH đòi hỏi phải xóa bỏ những bất công trong xã hội, chống đặc
quyền, đặc lợi, đặc biệt là phải xóa bỏ những bất công phi phí, đi ngược với
lợi ích của sự phát triển của xã hội, vi phạm nguyên tắc CBXH.
CBXH là một trong những yêu cầu của sự phát triển xã hội vì CBXH
là cái đảm bảo cho mức hưởng thụ của người lao động tương xứng với cống
hiến của họ mà còn được nâng cao cùng với sự nâng cao chất lượng và hiệu
quả công việc của họ. Như vậy CBXH phù hợp với nhu cầu bên trong của
người lao động nên nó kích thích tính năng động, sáng tạo, thúc đẩy người lao
động đem hết khả năng, lòng nhiệt tình, sức lực, trí tuệ của mình để tạo ra
ngày càng nhiều của cải vật chất và tinh thần cho xã hội. CBXH kích thích
các nhà kinh doanh bỏ vốn, chấp nhận rủi ro để đầu tư cho sản xuất, kích
thích các nhà quản lý phát huy hết năng lực và sáng kiến để hoàn thiện tổ
chức hợp lý hóa hoạt động sản xuất kinh doanh, đây là điều kiện quan trọng
để đảm bảo tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, nhu cầu
đảm bảo CBXH càng cấp bách hơn trên các lĩnh vực: phân phối, chính sách
đối với các thành phần kinh tế, điều tiết thu nhập hợp lý, chống buôn lậu, độc
quyền, chống cạnh tranh không lành mạnh, khuyến khích làm giàu hợp pháp,
chống thu nhập không chính đáng, tạo điều kiện và cơ hội cho mọi người tiếp
cận được cơ hội và mọi người đều bình đẳng trong nền kinh tế. Giải quyết
24
được vấn đề này chính là thực hiện CBXH và là động lực mạnh mẽ để thúc
đẩy TTKT và ngược lại TTKT lại là động lực để thúc đẩy việc thực hiện
CBXH, TTKT phải gắn liền với CBXH ngay trong từng bước và ngay trong
từng chính sách phát triển.
CBXH có vai trò rất quan trọng, mất CBXH có thể kìm hãm tăng trưởng
và phát triển kinh tế. Một nền kinh tế - xã hội ổn định và lành mạnh thì phải loại


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status