đổi mới và hoàn thiện pháp luật trong quản lý nhà nước về xuất bản ở việt nam hiện nay - phương hướng và giải quyết - Pdf 10

Lời nói đầu
Hoạt động xuất bản vừa là hoạt động văn hoá, t tởng, vừa là hoạt động
sản xuất vật chất. Nó là kết quả lao động sáng tạo của con ngời, là phơng tiện
quan trọng phản ánh đời sống tinh thần, bộ mặt văn hoá của mỗi dân tộc ở
mọi thời đại. Mặt khác, từ khi xã hội loài ngời phân chia thành giai cấp thì
xuất bản không chỉ đóng vai trò phản ánh đời sống tinh thần và vật chất của
con ngời mà còn mang tính giai cấp ngày càng rõ rệt, là nguồn lực và vũ khí
sắc bén của đấu tranh giai cấp.
Từ khi nớc Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, Đảng và Nhà nớc ta
luôn thực thi chính sách nhất quán, đặc biệt coi trọng quyền tự do, dân chủ
của nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Hiến pháp Nhà nớc Việt Nam
và một loạt các điều luật, hệ thống văn bản dới luật lần lợt ra đời nhằm xây
dựng một hành lang pháp lý hoàn chỉnh, tạo môi trờng thuận lợi cho hoạt
động xuất bản phát triển đúng hớng, trên nền táng luật pháp. Tuy nhiên, trong
bối cảnh nền kinh tế chuyển sang cơ chế thị trờng, hệ thống pháp luật nhiều
năm tồn tại đã dần dần bộc lộ những thiếu sót, bất cập, cha đáp ứng yêu cầu
ngày càng cao của công cuộc đổi mới.
Thực tiễn đã chứng minh việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt
động xuất bản là điều chỉnh hoạt động kinh tế trong lĩnh vực văn hoá - t tởng,
đồng thời cũng chính là điều chỉnh hoạt động văn hoá - t tởng trong cơ chế thị
trờng. Đó là hai mặt của một vấn đề, có quan hệ biện chứng với nhau và cần
đợc thể chế hoá phù hợp nhằm đảm bảo cho xuất bản hoạt động theo đúng
trật tự mà pháp luật quy định. Bài viết sau đây có thể phần nào khái quát về
pháp luật xuất bản ở Việt Nam, một lĩnh vực hoạt động đa dạng và hết sức
phong phú.
Lần đầu viết một đề tài mang tính chất lý luận không thể tránh khỏi
những thiếu sót nhất định, em mong nhận đợc những ý kiến đóng góp của thầy
cô giáo để tiểu luận đợc hoàn thiện hơn.
Hà nội, tháng 12 năm 2000
1
Chơng I

ảnh, bản đồ, địa đồ, khẩu hiệu, bu ảnh v.v Nghề làm sách từ chỗ đơn giản, thủ công qua
nhiều bớc phát triển, đã đạt tới trình độ tự động hoá. Lao động biên tập ở nhà xuất bản đã
ứng dụng tiến bộ của công nghệ tin học, trong hoạt động sáng tạo và xử lý bản thảo, hoàn
chỉnh bản mẫu để in hàng loạt. Hoạt động phổ biến, sau này gọi là phát hành sách với các
cửa hàng tự chọn đợc quản lý bằng camera, và máy vi tính, với các loại xe chuyên dụng
bán sách lu động, bán sách đặt trớc qua bu điện, bán sách khuyến mại.
Ngày nay xuất bản đã trở thành ngành kinh tế - kỹ thuật phát triển. Bất cứ quốc gia
nào cũng tận dụng khả năng của nó để nâng cao dân trí, phục vụ kế hoạch phát triển kinh
tế quốc dân, giao lu văn hoá với các nớc trên thế giới. Nhiều nớc phát triển có những tập
đoàn xuất bản - báo chí mạnh, đạt hiệu quả kinh tế cao. ở Nhật có tới 5000 nhà xuất bản,
2
chiếm 1/200 tổng số giá trị sản phẩm của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Tại Mỹ, ngành
xuất bản đứng vị trí thứ 3 về tỷ lệ tăng trởng giá trị sản phẩm.
ở Việt Nam xuất bản sách xuất hiện từ thời Cổ trung đại. Cơ sở đầu tiên của nghề
xuất bản là sự ra đời của ngôn ngữ và chữ viết. Chữ Hán là thứ văn tự đầu tiên du nhập vào
Việt Nam từ thời Triệu Đà (207-137 TCN). Chữ Nôm xuất hiện sau chữ Hán. Tới thế kỷ
XVIII, XIX chữ Nôm phát triển cực thịnh, ở mức độ nào đó đã lấn át chữ Hán với Truyện
Kiều, Chinh Phụ Ngâm, Hịch Tây Sơn
Từ khoảng những năm 20 của thế kỷ XX, với sự xuất hiện của sách báo Macxit, sự
nghiệp xuất bản Việt Nam chuyển sang thời kỳ mới. Xuất bản đợc phân chia thành nhiều
khuynh hớng với những mục đích, quy mô và phơng thức hoạt động khác nhau.
Hiện nay, ở Việt Nam xuất bản đã phát triển và đạt trình độ mới. Các nhà xuất bản
chuyên lo việc tổ chức, hoàn chỉnh bản thảo, bản mẫu đa in. Các nhà in lo việc tiếp nhận
công nghệ mới, để thoả mãn nhu cầu về số lợng và chất lợng việc in nhân bản các ý tởng
của tác giả, của nhà xuất bản thành xuất bản phẩm. Phát hành là ngời chuyển tải các ý t-
ởng chứa đựng trong những xuất bản phẩm đến tay ngời sử dụng, thông qua hoạt động th-
ơng nghiệp.
Vậy xuất bản là gì ?
Theo nghĩa rộng, xuất bản là hoạt động bao gồm các lĩnh vực xuất bản, in và phát
hành xuất bản phẩm. Hoạt động xuất bản là quá trình tổ chức các nguồn lực xã hội trong

Về phơng diện sản xuất vật chất, các giá trị tinh thần, do lao động tinh thần của
con ngời mang lại chỉ trở thành sách và các xuất bản phẩm khác thông qua hoạt động sản
xuất. Từ việc thừa nhận sách là sản phẩm tinh thần, trí tuệ, mọi ngời phải thừa nhận sách
là sản phẩm vật chất, bởi nó là kết quả do lao động vật chất tạo ra. Cấu trúc của nó do
chính các yếu tố vật chất tạo thành. Đó là các loại vật liệu chuyên dùng nh: giấy, mực in,
chỉ, thép, hồ dán, vải, ximili, caton, v.v Thông qua quá trình sản xuất vật chất của nghề
in, những vật liệu rời rạc đó cấu thành sản phẩm sách - cái vỏ vật chất chuyển tải nội
dung tinh thần, trí tuệ của con ngời. Khi đã trở thành sản phẩm hoàn chỉnh và vào lu
thông, xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đủ các thuộc tính của hàng hoá; chịu
sự tác động của quy luật giá trị, giá cả, cung cầu, v.v Những ngời mua ở đây là mua cái
giá trị chứa đựng trong cái vỏ vật chất. Là ngời bán, nhà xuất bản cũng bán cái giá trị
tinh thần bên trong, nhng không chỉ thế mà còn quan tâm đến các vật liệu đã đầu t. Vì vậy,
sách là một loại hàng hoá đặc biệt xét về giá trị. Mặt khác, không phải ai cũng đọc sách
và đọc bất kỳ sách nào, vì sách bao giờ cũng có đối tợng riêng. Ngời tiêu dùng sách, thởng
thức sách khác ngời tiêu dùng các sản phẩm vật chất khác ở yêu cầu có văn hoá. Tuỳ theo
văn hoá cao, thấp, chuyên môn sâu, rộng của mình mà ngời tiêu dùng lựa chọn sách phù
hợp.
Tóm lại hoạt động xuất bản là hoạt động văn hóa tinh thần có ảnh hởng nhiều đến
việc giáo dục t tởng, tình cảm, dân trí, vì vậy nó thuộc thợng tầng kiến trúc, chịu sự chi
phối của các quy luật phát triển văn hoá. Mặt khách hoạt động xuất bản là hoạt động sản
xuất vật chất khác có vai trò quan trọng trong việc tạo thành, chuyển tải, nhân bản các giá
trị tinh thần, trí tuệ, ý đồ của tác giả, nhà xuất bản thành xuất bản phẩm, vì vậy nó đồng
thời chịu sự tác động của hệ thống quy luật kinh tế, nó thuộc hạ tầng cơ sở.
c. Vai trò của xuất bản trong đời sống xã hội
Vai trò thứ nhất: xuất bản - bà đỡ của các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
công trình khoa học công bố dới hình thức xuất bản phẩm.
Các văn nghệ sĩ, nhà khoa học bằng lao động của mình đã sáng tạo ra các tác phẩm
văn học, nghệ thuật, công trình khoa học. Song, các thành tựu đó chỉ là những sản phẩm
đơn chiếc. Việc phổ biến nó chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp. Trong khi các tác giả muốn
truyền bá ý tởng sáng tạo của mình cho cả cộng đồng thởng thức, áp dụng vào đời sống.

nay, công nghệ mới luôn luôn đợc chuyển giao, thay thế bởi tiến bộ không ngừng của
khoa học. Việc hng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc rất nhiều vào nhân lực đợc đào tạo,
vào trình độ dân trí và nhân tài.
Các quốc gia trên thế giới, đều coi trọng giáo dục và thết kế sách phù hợp nhằm
nâng cao dân trí,đào tạo ngời lao động. Con ngời sau khi sinh ra một số năm đều phải tới
trờng để tiếp thu những tri thức phổ thông, cơ bản. Sách là ngời thầy, ngời bạn đa con ngời
bớc qua các nấc thang kiến thức, đạt tới các trình độ chuyên môn, nghiệp vụ khác nhau.
Trong số đó không ít ngời có học vị, chiếm lĩnh đỉnh cao của khoa học. Nh vậy, nguồn
nhân lực của quốc gia luôn đợc bổ sung, thay thế. Thế hệ ngời lao động sau có trình độ
cao hơn thế hệ trớc, bởi tri thức đợc làm giàu do sách mang lại.
Vai trò thứ t: xuất bản- vũ khí đấu tranh giai cấp.
Từ khi xã hội loài ngời phân chia thành giai cấp, xuất bản không chỉ đóng vai trò là
bà đỡ của các sản phẩm văn hoá tinh thần, phản ánh đời sống vật chất, tinh thần của xã
hội, góp phần đào tạo nguồn lực mà nó đã trở thành vũ khí sắc bén của cuộc đấu tranh giai
cấp trong xã hội có giai cấp.
Xuất bản đã tham gia có hiệu quả vào việc giác ngộ giai cấp vô sản về vai trò lịch
sử của mình, và đã tổ chức quần chúng thực hiện sứ mệnh lịch sử đó. Khi bàn về những uỷ
ban đẳng cấp ở Pơrútxi, C. Mác đã viết: xuất bản là chiếc đòn bẩy mạnh mẽ của văn
hoá và của việc giáo dục tinh thần cho nhân dân. Xuất bản biến cuộc đấu tranh vật chất
thành cuộc đấu tranh t tởng, cuộc đấu tranh của những nhu cầu, những nhiệt tình; cuộc
đấu tranh của lý luận, lý trí và hình thái
5
Ngày nay trong điều kiện tiến bộ không ngừng của khoa học và công nghệ, đã
kéo theo sự phát triển không ngừng của văn hoá. Với sự đa dạng về phơng thức, phơng
tiện, loại hình và sản phẩm văn hoá, việc phổ biến nhanh nhạy của các phơng tiện thông
tin đại chúng, đã làm cho không ít ngời băn khoăn về việc tồn vong của xuất bản. Nhng
với vai trò nh trình bày trên, xuất bản vẫn sẽ tồn tại và phát triển cùng xã hội loài ngời. Nó
sẽ tiếp nhận các tiến bộ của khoa học và công nghệ, đa dạng hoá xuất bản phẩm, đa năng
hoá xuất bản phẩm đáp ứng nhu cầu hởng thụ ngày càng cao của bạn đọc.
d. Đặc điểm của xuất bản :

sống lao động quá khứ thể hiện khá rõ ở công đoạn này. Một khi trở thành xuất bản phẩm,
nh mọi sản phẩm khác, xuất bản phẩm là một thực thể vật chất. Khi qua lu thông, tiêu
dùng để thực hiện mục đích cuối cùng của xuất bản phẩm, và của sản xuất vật chất, thì
xuất bản phẩm trở thành hàng hoá. Nó mang đầy đủ các thuộc tính của hàng hoá. Chịu sự
tác động của các quy luật giá trị, giá cả, cuing cầu v.v
6
Nghiên cứu đặc điểm này để thấy rõ sự tác động qua lại hệ thống quy luật phát
triển vh và quy luật kinh tế trong xuất bản. Từ đó giải quyết mối quan hệ tác động giữa
chúng, tiến tới xử lý thoả đáng mối quan hệ về hiệu quả kinh tế - hiệu quả xã hội - hiệu
quả chính trị của hoạt động xuất bản, và của từng xuất bản phẩm cụ thể. Các chế định của
luật, các quy phạm pháp luật phải thể hiện đợc đặc trng rất riêng biệt này. Có nh vậy, pháp
luật mới có sức sống điều chỉnh, tạo lập môi trờng lành mạnh để hoạt động xuất bản phát
triển, đạt hiệu quả cao.
Đặc điểm thứ hai: xuất bản phẩm là kết quả của quá trình t duy và quy trình
sản xuất đặc thù.
Xuất bản là một loại ngành nghề, và nó trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật đạt
lợi nhuận cao ở các nớc phát triển. Hoạt động của nó là dạng hoạt động sản xuất vật chất
đặc biệt. Tính đặc biệt do đòi hỏi của sản phẩm sách quy định. Toàn bộ quy trình sản xuất
hàng hoá sách là một quá trình của lao động t duy, lao động trí óc. Đây là nhu cầu khách
quan của việc sản xuất sản phẩm vh tinh thần. Bởi vì chỉ có t duy và t duy sáng tạo mới
đẻ ra những đứa con tinh thần. Từ đó thông qua một quy trình sản xuất đặc thù, giá trị
tinh thần do t duy mang lại đợc vật hoá thành xuất bản phẩm.
Đặc điểm thứ ba: xuất bản phẩm là một loại hàng hoá đặc biệt
Là một loại sản phẩm của quá trình sản xuất vật chất, xuất bản phẩm nói chung,
sách nói riêng cũng nh mọi sản phẩm khác, nó là kết quả của lao động sống và lao động
quá khứ đợc vật hoá. Vì vậy, xuất bản phẩm cũng có giá trị và giá trị sử dụng. Khi vào lu
thông nó trở thành hàng hoá. Và chính từ thị trờng trao đổi, mới có thể thực hiện giá trị
của nó. Nhng sách là một loại hàng hoá đặc biệt. Tính đặc biệt ở đây là do tính đặc biệt
của giá trị và giá trị sử dụng của sách quy định.
Về giá trị xuất bản phẩm:

là in trên giấy tốt cũng sẽ ít ngời mua, thậm chí bị ế.
Khi xét tới giá trị sử dụng của xuất bản phẩm, ta có thể thấy một số thuộc tính sau:
- Trong tiêu dùng giá trị của xuất bản phẩm không những không mất đi mà còn đợc
nhân lên. Ngời đọc sách không chỉ thoả mãn tức thời, nh uống nớc khi khát, mà cái giá trị
nội dung tiếp nhận đợc còn tích lũy lâu dài trong nhận thức. Đọc một cuốn sách hay có
khi nhớ cả đời. Ngời đọc sách còn truyền cho ngời khác qua việc kể lại nội dung. Một
cuốn sách đâu chỉ một ngời đọc, mà đợc chuyền tay nhau để đọc Đặc biệt khi ở trong th
viện thì vòng luân chuyển của sách lại càng cao. Trong khi một ấm trà chỉ có một số ít ng-
ời uống, và khi uống xong là hết.
M. I. Calirin (1875-1946) đã từng nói: Theo tôi, sách tốt là cuốn sách mà dới tấm
bìa của nó, cuộc sống sôi nổi, rộn ràng nh máu chảy dới da, là cuốn sách khiến ngời ta
đọc nhớ rất lâu nếu nh không phải là nhớ mãi mãi, là cuốn sách mà ai ai cũng muốn đợc
đọc lần nữa.
- Ngời tiêu dùng sách sẽ hài lòng khi đợc tiếp thu giá trị của nó, và không chỉ có
vậy, mà cái tiếp nhận đợc sẽ giúp ngời tiêu dùng có những quyết định đúng đắn trong cuộc
sống, đa họ tới những hoạt động không phải chỉ ở dạng tinh thần mà còn sáng tạo ra các
sản phẩm vật chất, các giá trị mới.
Các giá trị tinh thần của xuất bản phẩm đợc tiêu dùng không những không mất đi,
mà còn chuyển hoá thành lực lợng vật chất, để con ngời có hành động tích cực cải tạo
thiên nhiên, cải tạo xã hội và cải tạo chính mình.
Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng, dù là vật liệu cấu thành tốt đến đâu đi chăng
nữa, thì sách cũng phải rách nát trong quá trình tiêu dùng. Nhng đời sống của cái vỏ vật
chất đó vẫn dài hơn so với một số hàng hoá nh quần áo, ấm chén v.v Dù là có chuyển
hoá, và mất đi thì cũng chỉ mất đi cái vỏ bên ngoài còn cái giá trị t tởng, khoa học và nghệ
thuật trong sách vẫn còn lu lại trong ngời đọc. Điều đó có nghĩa chu kỳ tuổi thọ của các
sản phẩm vật chất thuần tuý có thể tính toán đợc, còn đối với xuất bản phẩm thì không thể
nào tính nổi. Những tác phẩm của Mác- Ăng ghen, Lênin, Tolstoi, Banzắc, những tác
phẩm nổi tiếng nh Tây du ký, Tam quốc diễn nghĩa, Truyện Kiều, v.v còn lu
truyền mãi mãi.
2. Hiệu quả và các đặc trng cơ bản về quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất

Thứ hai : Hiệu quả kinh tế của việc quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất
bản.
Xuất bản là hoạt động văn hoá t tởng, đồng thời là hoạt động sản xuất vật chất.
Mặt sản xuất vật chất, trong điều kiện kinh tế thị trờng, tất yếu phải dẫn tới sản xuất kinh
doanh. Nh vậy, quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất bản đạt hiệu quả ổn định chính
trị là tiền đề dẫn đến hiệu quả kinh tế trong hoạt động xuất bản, và hiệu quả kinh tế nói
chung.
Đối với xuất bản, hiệu quả kinh tế thể hiện trên các mặt sau:
- Quản lý xuất bản bằng pháp luật là giải phóng lực lợng sản xuất trong ngành xuất
bản. Bởi vì bằng pháp luật đã tách biệt chức năng quản lý Nhà nớc và chức năng quản lý
sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Sự tách biệt này tạo quyền chủ động cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh xuất bản khai thác các nguồn lực để mở rộng và nâng cao hiệu
quả.
- Quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật là tạo lập môi trờng bình đẳng cho
các chủ thể tham gia hoạt động xuất bản cạnh tranh và thi đua đạt hiệu quả cao về kinh tế.
9
Pháp luật đã tạo lập hành lang, điều đó có nghĩa pháp luật đã tạo ra các cơ hội bình đẳng
để các chủ thể hoạt động xuất bản tự do kinh doanh.
- Quản lý Nhà nớc bằng pháp luật, là bảo vệ lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham
gia hoạt động xuất bản ; bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tác giả bằng lao động của mình
đã sáng tạo ra các tác phẩm hoặc văn học - nghệ thuật, khoa học - công nghệ hoặc chính
trị- xã hội.
Luật pháp từ chỗ thừa nhận các hình thức sở hữu khác nhau, đã đa ra các chế tài
răn đe nhằm ngăn chặn những hành vi xâm hại, và xử phạt đối với các hành vi đã xâm hại
gây hậu quả.
- Quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật, không những khuyến khích các chủ
thể tham gia hoạt động xuất bản đạt hiệu quả kinh tế cao, còn ngăn chặn các hoạt động
xuất bản bất chấp hậu quả về chính trị, t tởng văn hoá, chạy theo xu hớng thơng mại hoá.
Điều này có nghĩa không thể đổi sự mất mát về chính trị, t tởng và văn hoá láy đồng tiền.
Lợi nhuận của hoạt động xuất bản trong cơ chế thị trờng cũng phải trở thành mục tiêu hoạt

hội mới phát triển, kinh tế mới tăng trởng. Mọi tiềm năng đợc phát huy trong không khí
thanh bình, triển vọng. Nếu không có sự ổn định về chính trị thì sẽ không có sự đầu t mở
mang sản xuất, kinh doanh, các thế lực tranh giành quyền lực, phân rẽ quần chúng, lôi kéo
họ vào các cuộc cạnh tranh quyền lực. Trong trờng hợp đó không loại trừ khả năng xảy ra
các cuộc ẩu đả, các cuộc chiến huynh đệ tơng tàn. Lẽ ra họ phải là các chủ thể kinh tế, thì
họ lại trở thành ngời lính bất đắc dĩ, là nạn nhân của cuộc tranh giành quyền lực. Nh vậy,
hiệu quả kinh tế, xã hội là hiệu quả tất yếu bắt nguồn từ hiệu quả chính trị. Cũng có thể
nói hiệu quả chính trị là nguyên nhân quan trọng dẫn đến các hiệu quả kinh tế, xã hội. Nh-
ng chính sự ổn định của kinh tế, kinh tế tăng trởng, và sự ổn định của các giá trị xã hội, sẽ
củng cố và tăng cờng sự ổn định chính trị, chế độ chính trị và hệ thống chính trị. Đó là sự
tác động tích cực trở lại của hiệu quả kinh tế, xã hội đối với hiệu quả chính trị.
b. Các đặc trng cơ bản của quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất bản.
Trong nền kinh tế thị trờng, Nhà nớc quản lý xã hội bằng hệ thống các công cụ chủ
yếu gồm pháp luật, kế hoạch chính sách Trong đó với t cách là yếu tố điều chỉnh các
quan hệ xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng bảo đảm sự ổn định và phát triển
năng động của xã hội. Trong điều kiện đổi mới, Đảng và Nhà nớc ta khẳng định vai trò
hàng đầu của pháp luật. Chính vì vậy, Hiến pháp 1992 đã ghi nhận : Nhà nớc quản lý xã
hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cờng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Quản lý Nhà nớc bằng pháp luật trong xuất bản có ý nghĩa quan trọng đặc biệt,
xuất phát từ các đặc trng cơ bản là thuộc tính của các quan hệ xã hội về văn hoá, xuất bản.
Nhng ý chí của Nhà nớc về quản lý xuất bản để lên thành luật phải bắt nguồn trong các
quan hệ vật chất về xuất bản. Sau đây là các đặc trng chính trong quản lý Nhà nớc về
xuất bản bằng pháp luật.
Đặc trng thứ nhất: quản lý Nhà nớc bằng pháp luật về xuất bản là mở đờng
cho hoạt động sáng tạo ra các tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học để công bố d-
ới hình thức xuất bản.
Nhà nớc quản lý hoạt động của t duy sáng tạo trong xuất bản bằng pháp luật,
không kìm hãm và khống chế các ý tởng sáng tạo; khuyến khích tài năng và đề cao các
tác phẩm có giá trị về khoa học và nghệ thuật. Chính từ cơ chế thị trờng đợc pháp luật thừa
nhận, là nơi đánh giá công minh các tác phẩm. ở đó, công chúng với t cách là ngời tiêu

Đặc trng thứ ba: quản lý Nhà nớc về xuất bản bằng pháp luật là quản lý hoạt
động thuộc lĩnh vực văn hoá -t tởng, đồng thời là hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với thuộc tính là hoạt động văn hoá - t tởng và hoạt động sản xuất kinh doanh,
xuất bản chịu sự tác động đồng thời của hệ thống các quy luật phát triển văn hoá và hệ
thống các quy luật kinh tế. Vì vậy, xuất bản chứa đựng tập trung các lợi ích giai cấp
không thể điều hoà, trớc tiên là sự đấu tranh về ý thức hệ biểu hiện ở phơng diện văn hoá -
t tởng, sau đó và suy cho đến cùng là các quan hệ kinh tế. Do tính chất phức tạp đó, yêu
cầu quản lý bằng pháp luật đợc đặt ra bức thiết hơn. Nhng pháp luật không thể là ý muốn
chủ quan, duy ý chí. Nhà nớc chỉ đặt ra hoặc thừa nhận các quy phạm pháp luật hàm chứa
những gì phổ biến, tất yếu của sự phát triển, loại trừ các yếu tố ngẫu nhiên, cá biệt. Việc
quy phạm hoá các quy luật phát triển, vừa phải thể hiện ở phơng diện văn hoá t tởng, vừa
phải thể hiện ở phơng diện kinh tế của hoạt động xuất bản. Nh vậy, pháp luật phải mở đ-
ờng cho tự do sáng tạo, đồng thời ngăn chặn những độc hại do xuất bản gây ra đối với văn
hoá - t tởng; phải định hớng cho xuất bản phát triển, theo quy luật kinh tế thị trởng., làm
ảnh hởng đến định hớng t tởng- văn hoá.
Nh vậy, việc sử dụng pháp luật để điều chỉnh hoạt động xuất bản là điều chỉnh hoạt
động kinh tế trong văn hoá - t tởng, đồng thời điều chỉnh hoạt động văn hoá- t tởng trong
cơ chế thị trờng. Đó là hai mặt của một vấn đề phải đợc thể chế hoá phù hợp, đảm bảo cho
xuất bản hoạt động đúng quy luật, phát triển theo trật tự của pháp luật.
12
II. Vai trò của pháp luật trong quản lý Nhà nớc về xuất bản.
1. Pháp luật - phơng tiện quản lý Nhà nớc về xuất bản.
a. pháp luật- phơng tiện tạo lập môi trờng tự do sáng tạo, bình đẳng cho
các chủ thể trong hoạt động xuất bản.
Với đặc trng của lao động sáng tạo nói chung, đặc biệt là lao động sáng tạo ra tác
phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học nói riêng thì nhu cầu về tự do sáng tạo, bình đẳng
trong việc công bố và phổ biến tác phẩm là một đòi hỏi khách quan. Xã hội luôn phát triển
bởi các dự báo tơng lai, và việc phản ảnh thực trạng tình hình từ suy nghĩ độc lập của các
nhà khoa học, đội ngũ văn nghệ sĩ, khi Nhà nớc biết khai thác, phát huy. Nhng tự do và
bình đẳng trong sáng tạo phải vì lợi ích xã hội và của cộng đồng, kihông thể có thứ tự do

vào tình trạng vô chính phủ, không chỉ tác hại trong kinh tế mà nghiêm trọng hơn là sự tác
động tiêu cực về chính trị, tới các giá trị đạo đức, xã hội, truyền thống tốt đẹp.
13
Nh vậy, việc hình thành các chuẩn mực pháp luật trong những tình huống, hoàn
cảnh, điều kiện nhất định của các quan hệ xã hội là tạo hành lang hoạt động an toàn để
xuất bản góp phần đảm bảo ổn định chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế, xã hội và tạo
điều kiện, tiền đề cho sự phát triển. Trong nền kinh tế thị trờng, bên cạnh mặt tích cực,
còn chứa đựng không ít các mặt tiêu cực, tác động mạnh vào xuất bản nh: chạy theo lợi
nhuận cục bộ trớc mắt, không tính tới lợi ích lâu dài, toàn cục, vi phạm lợi ích chung toàn
bộ xã hội, chạy theo lợi ích kinh tế đơn thuần, coi đồng tiền trên hết, bỏ qua các nhu cầu
xã hội, làm xói mòn đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa dân tộc, thậm chí phơng hại
đến an ninh quốc gia. Nh vậy, xuất bản trong cơ chế thị trờng, tình huống cha có tiền lệ ở
nớc ta, càng phải có pháp luật để ngăn ngừa mặt trái, mặt tiêu cực tác động. Nhà nớc phải
phòng ngừa và ngăn chặn những hoạt động bất chấp hậu quả xấu về chính trị và xã hội.
Các điều cấm trong pháp luật xuất bản, đặc biệt về nội dung là mệnh lệnh của Nhà nớc,
phải đợc các thủ thể xuất bản thi hành nghiêm chỉnh. Các hành vi vi phạm phải đợc xử
phạt nghiêm minh. Mặt khác, pháp luật đã thể chế hoá đờng lối của Đảng thành các quy
phạm pháp luật, mang tính bắt buộc chung. Nó trở thành định hớng cho sự phát triển kinh
tế - xã hội nói chung, xuất bản nói riêng. Vì vậy, pháp luật có vai trò rất quan trọng trong
việc đảm bảo định hớng xã hội chủ nghĩa đối vơí hoạt động xuất bản; ngăn chặn việc công
bố và phổ biến xuất bản phẩm độc hại, xâm phạm đến lợi ích Nhà nớc, tập thể, cá nhân,
ảnh hởng tới t tởng và tình cảm lành mạnh của công chúng.
d. pháp luật - phơng tiện nâng cao hiệu quả chính trị- kinh tế, xã hội trong xuất
bản, chống thơng mại hoá xuất bản.
Chuyển sang nền kinh tế thị trờng là quá trình cấu trúc lại cơ cấu xuất bản, cơ cấu
sở hữu, cơ cấu nhân lực và lao động xuất bản, là quá trình đổi mới sâu sắc t duy xuất bản
về tuyên truyền, giáo dục về khoa học, đặc biệt về kinh tế, quản lý kinh tế, xã hội, pháp
luật, kể cả tâm lý xã hội đối với xuất bản Nó không đơn thuần là sự thay đổi cơ chế
quản lý xuất bản. Các quá trình chuyển dịch trên phải đợc thể chế bằng pháp luật, xuất
phát từ định hớng xã hội chủ nghĩa, với các bớc đi thích hợp. Các thành phần kinh tế tham

2. Nội dung điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động xuất bản.
a. Hoạch định chiến lợc phát triển xuất bản theo định hớng xã hội chủ nghĩa
Đối với các quốc gia, việc xác lập các mục tiêu phát triển trên từng lĩnh vực của
đời sống kinh tế xã hội đợc đặt ra nh một tất yếu. Các mục tiêu đó đợc xây dựng trên cơ sở
thực trạng kinh tế - xã hội và xu thế phát triển của thời đại. Nếu không làm đợc vấn đề
này thì không khác ngời đi đờng không có đích. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, sự hoà
nhập trong cộng đồng quốc tế ở đó có nhiều mô hình phát triển khác nhau, thì việc lựa
chọn mô hình, bớc đi, mục tiêu phát triển phù hợp càng đòi hỏi cấp thiết hơn. Việt Nam ta
vốn là nớc chậm phát triển, định hớng cho sự phát triển đợc đặt ra từ Đại Hội VI, tiếp tục
đợc điều chỉnh, bổ sung và cụ thể hoá trong các Đại hội VII, VIII của Đảng cộng sản, theo
tinh thần đổi mới.
Hoạt động xuất bản cũng nằm trong sự đòi hỏi phát triển có mục tiêu. Đây là nội
dung quan trọng đầu tiên, định hớng cho việc hình thành hành lang pháp luật, đảm bảo
cho hoạt động xuất bản phát triển. Với ý nghĩa đó, mục này trình bầy những nội dung cần
phải điều chỉnh bằng pháp luật.
Từ này đến năm 2005, ngành xuất bản phải tạo ra đợc một bớc phát triển cơ bản.
Kết hợp những bớc tiến tuần tự với những bớc nhảy vọt, rút ngắn thời gian đuổi kịp các n-
ớc tiên tiến, không rời vào tình trạng bị tụt hậu xa hơn. Để thực hiện mục tiêu cơ bản đó,
cần phát triển theo các định hớng sau:
Một là : Đa dạng hoá và đa năng hoá các loại hình xuất bản phẩm, thoả mãn nhu
cầu tiêu dùng ngày càng cao của bạn đọc
Hai là : điều chỉnh hợp lý cơ cấu đề tài xuất bản, nâng cao số lợng, chất lợng xuất
bản phẩm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Ba là: Các hình thức sở hữu và kinh doanh trong ngành xuất bản
Bốn là: mở rộng thị trờng xuất bản phẩm
Năm là: Công nghiệp hoá hiện đại hoá ngành xuất bản.
b. Quản lý Nhà nớc bằng pháp luật trên các lính vực khác nhau của xuất bản.
15
Các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động xuất bản, từ hoạt động của các chủ
thể xuất bản, in, phát hành, xuất nhập khẩu vật t thiết bị xuất bản, xuất nhập khẩu xuất

tình cảm của con ngời. Vì vậy, các Nhà nớc không thể để các cơ quan xuất bản muốn xuất
bản gì cũng đợc. Để cho nhân dân có các món ăn tinh thần lành mạnh, không độc hại, phải
nghiêm cấm xuất bản những nội dung nhất định.
- Chế độ kiểm duyệt trong xuất bản có đặt ra hay không là một vấn đề hệ trọng
liên quan đến tự do ngôn luận. Trong trờng hợp có kiểm duyệt tác phẩm trớc khi xuất bản
thì tình thế và hoàn cảnh kiểm duyệt phải xác định rõ ràng. Làm nh vậy nhằm ngăn chặn
các hành vi lợi dụng của cơ quan hành pháp hạn chế quyền tự do ngôn luận của công dân.
Vấn đề thứ ba: điều kiện để trở thành chủ thể xuất bản, in, phát hành xuất bản
phẩm.
16
Việc ra đời các tổ chức trong mọi Nhà nớc, đặc biệt ở Nhà nớc pháp quyền phải
thoả mãn các điều kiện cần và đủ. Vì vậy, việc ra đời các chủ thể về xuất bản, in và phát
hành cũng phải đợc Nhà nớc qui định cụ thể về điều kiện.
Về lĩnh vực xuất bản:
Với tính chất hoạt động chuyên nghiệp, và vị trí vai trò của nó trong đời sống xã
hội, các điều kiện ra đời phải bao gồm nội dung sau:
- Điều kiện về pháp nhân : pháp luật phải quy định đợc các loại pháp nhân thuộc
đối tợng có thể đứng tên xin lập nhà xuất bản.
- Điều kiện về sự phù hợp giữa tôn chỉ, mục đích, chức năng, nhiệm vụ của nhà
xuất bản với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân đứng tên xin thành lập;
- Điều kiện về nhân thân của ngời làm giám đốc, tổng biên tập nhà xuất bản.
Về lính vực in và phát hành:
Các điều kiện thành lập cơ sở in và phát hành cần chú ý nhiều đến vón hoạt động,
và các yêu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật, việc ứng dụng công nghệ và thiết bị, sản phẩm
in. Tuy nhiên phải có điều kiện về mục tiêu, ngành nghề kinh doanh. Các điều kiện này rất
quan trọng, nhằm ngăn ngừa việc in nhân bản các sản phẩm độc hại.
Vấn đề thứ t: các quy định về hoạt động xuất bản
Khi trở thành chủ thể, các tổ chức xuất bản, in, phát hành đợc hoạt động theo hành
lang do pháp luật xuất bản quy định.
Quyền tự do và quyền chủ động của nhà xuất bản, cơ sở in và phát hành là quyền

hiệu quả công ty, kinh tế xã hội trong xuất bản, chống thơng mại hoá xuất bản ; đồng thời
là phơng tiện bảo vệ lợi ích ngời tiêu dùng xuất bản phẩm.
18
Chơng 2
Thực trạng pháp luật trong quản lý Nhà nớc về xuất bản ở Việt Nam và những yêu
cầu đổi mới trong cơ chế thị trờng định hớng xã hội chủ nghĩa.
I. Thực trạng pháp luật trong quản lý Nhà nớc về xuất bản ở Việt Nam.
1. Sự hình thành hoạt động quản lý Nhà nớc bằng pháp luật ở Việt Nam
Liền sau cách mạng tháng Tám thành công, Chính phủ Việt Nam dân chủ công hoà
đã tuyên bố bảo đảm quyền tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản.
Một năm sau (8-1946), trớc tình hình chiến sự mở rộng ở miền Nam và đe doạ lan ra miền
Bắc, nền độc lập mới giành đợc bị uy hiếp, Chính phủ xét cần và đã tạm thời đặt chế độ
kiểm duyệt để đối phó với tình hình.
Tháng 11/1946 Quốc hội họp kỳ thứ 2 đã thông qua Hiến pháp, bảo đảm các quyền
tự do dân chủ cho nhân dân, trong đó có quyền tự do xuất bản. Công dân Việt Nam có
quyền: tự do ngôn luận, tự do xuất bản .
Sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, cách mạng Việt Nam chuyển sang
giai đoạn mới với hai nhiệm vụ chiến lợc là xây dựng và củng cố miền Bắc, đấu tranh giải
phóng miền Nam, thống nhất nớc nhà. Từ đó chế độ tự do xuất bản đợc thi hành rộng rãi,
không có kiểm duyệt trớc khi in. Để hợp thức hoá chế độ tự do xuất bản đã đợc thi hành
trong 12 năm (1945-1957), ngày 18/6/1957 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc luật số
003/SLt, về chế độ xuất bản, đặt cơ sở pháp lý đầu tiên cho sự phát triển nền xuất bản Việt
Nam. Điều 1 Sắc luật đã ghi: Quyền tự do xuất bản của nhân dân đợc tôn trọng và bảo
đảm. Tất cả các xuất bản phẩm đều không phải kiểm duyệt trớc khi xuất bản, trừ tình thế
khẩn cấp, nếu Chính phủ xét cần.
Xuất phát từ hoàn cảnh kinh tế - xã hội, để đa đất nớc thoát khỏi tình trạng khủng
hoảng, hoà nhập với xu thế phát triển của thời đại, Đại hội lần thứ VI Đảng cộng sản Việt
Nam đã đề ra đờng lối đổi mơí. Hiến pháp 1992 và các đạo luật lần lợt ra đời, thể chế hoá
nghị quyết Đại hội VI. Trong không khí lập pháp đó dự án Luật xuất bản đã đợc Quốc hội
khoá IX kỳ hợp thứ ba thông qua ngày 7/7/1993.

đợc thiết lập. Quyền và nghĩa vụ của công dân và tổ chức trong hoạt động xuất bản đã đợc
xác định rõ về mức độ và phạm vi hoạt động. Loại hình xuất bản phẩm, nhiệm vụ quản lý
Nhà nớc đã đợc quy định phù hợp với yêu cầu phát triển và cơ chế mới. Vị trí, vai trò, tính
chất của hoạt động xuất bản đã kế thừa Sắc luật 003/SLt và phát triển thêm một bớc. Các
chính sách lớn đợc hình thành trong cơ chế mới, đáp ứng phần nào đỏi hỏi của thực tiễn
nh: nhuận bút, tiền lơng, đầu t, tài trợ (trợ giá, đặt hàng), xếp hạng doanh nghiệp v.v
Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng, hệ thống pháp luật và chính sách cha đồng
bộ. Trong một thời gian dài từ 1986 đến 1991, số văn bản Nhà nớc ban hành cha bằng 1/4
tổng số văn bản ban hành từ 1991 đến 1995. Thực tế này chứng tỏ sự bỡ ngỡ, lúng túng và
buông lỏng của Nhà nớc trong những măm đầu chuyển đổi cơ chế. Xã hội đã phải trả giá
đắt cho sự yếu kém của công tác quản lý Nhà nớc. Các nạn sách bắt đầu xuất hiện làm phá
vỡ cơ cấu đề tài xuất bản. đó là các nạn sách Tầu, tớng số tử vi, truỵện cổ, cổ tích, tranh
truyện, truyện tranh, sách dịch, sách tình dục, sách chuyên đề dạng tạp chí v.v Các t nhân
tham gia vào hoạt động xuất bản, in, phát hành dẫn tới sự xuất hiện của các nạn và các
dịch sách, thiếu sự quản lý Nhà nớc. Các danh từ sách đen, đầu nậu đợc ra đời
trong điều kiện thiếu các chuẩn mực pháp luật. Các nhà xuất bản thì coi đầu nậu là cứu
cánh trong khi các nhà quản lý thì phê phán gay gắt, nhng không có quy định rõ ràng.
Nhiều vấn đề cần đợc giải thích, hớng dẫn và cụ thể hoá Luất xuất bản vẫn cha đợc
khởi thảo, ban hành nh : việc phổ biến tác phẩm của tổ chức, công dân Việt Nam ra nớc
ngoài và việc xuất bản, in, phát hành của tổ chức, ngời nớc ngoài ở Việt Nam ; về hoạt
động ngành in và phát hành; về chính sách đối với hoạt động xuất bản ; quy chế hoạt
động xuất bản;
Luật xuất bản có những điều dừng lại ở việc định tính, cha lợng hoá và cụ thể hoá.
Trong khi đó các văn bản dới luật lại không có giải thích, hớng dẫn và quy định gì thêm.
Vì vậy khả năng điều chỉnh các quan hệ xã hội thuộc phạm vị của vấn đề đặt ra rất bị hạn
chế. Tình trạng tuỳ tiện, kể cả khả năng lợi dụng trong quá trình thi hành của các chủ thể
từ tổ chức và cá nhân tham gia hoạt động xuất bản, đến các công chức quản lý điều hành
Nhà nớc, công chức hoạt động t pháp rất dễ xảy ra. Một số điều khoản đợc quy định rõ
20
ràng, nhng khả năng thực thi rất hấp dẫn. Ngay việc dự thảo các văn bản hớng dẫn thi

quyền chung nh: Chính phủ, Hội đồng bộ trởng, rồi Chính phủ, thay đổi tên gọi của cơ
quana có thẩm quyền riêng là Văn hoá, rồi Văn hoá - thông tin cũng không thay đổi một
cơ cấu quản lý về xuất bản ổn định, thống nhất đã đợc hình thành từ trung ơng đến địa ph-
ơng.
Khi đánh gía về tổ chức quản lý, chúng ta không thể quên đợc sự biến động lớn về
việc tách, nhập văn hoá, thông tin, thể thao, du lịch trong một thời gian rất ngắn. Việc làm
này của Nhà nớc ít nhiều gây sự đình trệ, chờ đợi của cơ sở trong quản lý Nhà nớc về xuất
bản. Hoạt động của Cục xuất bản, Sở văn hoá - thông tin bị hạn chế khi phát sinh vấn đề
cần sự chỉ đạo, quyết định sớm của Bộ. Việc tách nhiệm vụ quản lý báo chí ra khỏi Cục
xuất bản, việc chuyển giao nhiệm vụ quản lý in, phát hành về Cục xuất bản đòi hỏi phải có
thời gian sắp xếp, bố trí bộ máy và cán bộ. Sự xáo trộn này dẫn đến tình trạng chờ đợi, ảnh
hởng trực tiếp đến việc điều hành, giám sát và xử lý các vi phạm trong hoạt động xuất bản.
21
c. hoạt động t pháp
Trong những năm qua, hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật xuất bản sôi
động hẳn lên. Là một lĩnh vực sản xuất các sản phẩm tinh thần, trong công cuộc, đổi mới,
hoạt động xuất bản có những diễn biến phức tạp, đặc biệt là vấn đề nội dung xuất bản.
Nhân danh đổi mới, tổ chức xuất bản và tác giả có tể công bố những tác phẩm trái với đạo
lý, pháp luật, đờng lối, chính sách. Ngợc lại, nhân danh sự kiên định, việc truyền bá t tởng
bảo thủ, lỗi thời cũng là một khuynh hớng. Các quan điểm, trào lu đợc dịp công khai ở
thời đổi mới. Chính vì vậy, các cơ quan bảo vệ an ninh, kinh tế, điều tra xét hỏi, kiểm sát
đã tăng cờng hoạt động.
Hoạt động âm thầm, chủ động có hiệu quả của lợc lợng an ninh văn hoá, công an
quản lý các ngành nghề đặc biệt trong thời gian đã góp phần bảo vệ sự lành mạnh, trật tự
cho hoạt động xuất bản phát triển. Tuy vậy chúng ta cũng có thể thấy một số vấn đề cần
nghiên cứu xử lý phù hợp:
- Sự phối hợp giữa Ngành Văn hoá - Thông tin với hải quan, nội vụ, thơng mại
trong việc quản lý xuất nhập văn hoá phẩm cha đồng bộ và chặt chẽ, nên một số rác phế
thải văn hoá đang còn nằm trong khá nhiều ở một số hải cảng. Số tuồn ra ngoài đầu độc
xã hội cha biết là bao nhiêu, những loại gì.

Luật xuất bản đã thể hiện, và thể chế hoá đờng lối của Đảng cộng sản Việt Nam.
Công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ đặc biệt là biên tập viên đợc Đảng rất quan
tâm. Từ khi hình thành việc đào tạo, bồi dỡng cán bộ xuất bản, công việc này đợc đặt tại
một trờng thuộc hệ trờng Đảng. Từ trờng đại học nhân dân đến Đại học tuyên giáo, nay là
Phân viện báo chí và tuyên truyền, thuộc học viên chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, nhiều
khoá đào tạo dài hạn, chính quy, tại chức đã ra trờng và đang là lực lợng biên tập nòng cốt
tại các nhà xuất bản.
Tuy nhiên cũng còn một số vấn đề cần phải làm rõ ở các tổ chức Đảng trong việc
tham mu cho sự lãnh đạo của Đảng. Với vai trò kiểm tra, giám sát hoạt động xuất bản,
nhng các tổ chức Đảng đợc giao nhiệm vụ (Ban t tởng văn hoá trung ơng, Ban tuyên giáo
các tỉnh, thành phố ) không đủ điều kiện và phơng tiện để thực hiện, đặc biệt là lĩnh vực
đề tài và nội dung xuất bản. Từ chỗ xem xét chặt chẽ kế hoạch xuất bản với chế độ nhận
sách thờng xuyên để học kiểm tra những năm trớc đây, đến chỗ không nắm đợc phơng h-
ớng mục tiêu hoạt động của các nhà xuất bản, phải tìm sách để đọc khi có d luận, nhằm
giữ vững vai trò của Đảng trong việc kiểm tra đề tài, nội dung xuất bản.
Tóm lại, hoạt động quản lý Nhà nớc về xuất bản trong những năm qua đã có bớc
tiến đáng kể từ khâu lập pháp, đến hành pháp và t pháp. Nhng pháp luật chỉ đi vào cuộc
sống khi chúng ta đề cao pháp chế xã hội chủ nghĩa. Điều đó có nghĩa những tổ chức và cá
nhân tham gia các quan hệ xã hội về xuất bản phải có văn hoá pháp luật, có ý thức chấp
hành Luật xuất bản. Muốn vậy, Luật xuất bản phải đợc tuyên truyền sâu rộng. Các tổ chức
Đảng và đảng viên, các cơ quan Nhà nớc có nhiệm vụ lãnh đạo và quản lý, phải điều
khiển và quản lý xã hội theo luật, tuỳ theo cơng vị hoạt động của mình. Với t cách là một
công dân, đồng thời làm nhiệm vụ quản lý Nhà nớc, trớc hết phải thực hiện đúng quyền và
nghĩa vụ của mình, bất kể làm ở cơ quan hành pháp hay t pháp. Tất cả các hoạt động quản
lý Nhà nớc về xuất bản đợc thực hiện trên cơ sở Luật xuất bản và các luật liên quan đã đợc
Quốc Hội thông qua.
II. Những yêu cầu đổi mới, hoàn thiện pháp luật về xuất bản ở Việt Nam
Là phơng tiện quan trọng hàng đầu của Nhà nớc trong việc quản lý xã hội, pháp
luật phải là những chuẩn mực chung, có giá trị thực tế trong việc điều chỉnh các quan hệ
xã hội. Nhng mọi dự án luật đều đợc ban hành trong một thời điểm nhất định, trong khi

xã hội, v.v Sự chuyển đổi này dẫn đến sự chuyển dịch của các quan hệ xã hội. Có quan
hệ xã hội dã căn bản hình thành, có quan hệ đang trong quá trình chuyển dịch, do sự tác
động của Nhà nớc về mục tiêu, phơng hớng phát triển. Mặt khác, quản lý nền kinh tế thị
trờng, một tình huống mới, cha có tiền lệ ở Việt Nam đòi hỏi Nhà nớc phải thận trọng
trong các bớc đi, vừa làm vừa thể nghiệm để chọn lọc. Nh vậy, sự chuyển dịch, hình thành
và ổn định của các quan hệ xã hội thiếu những điều kiện cần và đủ. Các nhà làm Luật
không thể đa ra các quy tắc phù hợp trong hoàn cảnh đó và nh vậy có những khoảng
trống, các cửa bị bỏ ngỏ về về mặt pháp luật là lẽ đơng nhiên.
- Hoạt động sáng tạo, sản xuất, phổ biến và tiêu dùng các sản phẩm văn hoá nói
chung, xuất bản phẩm nói riêng có những đặc trng riêng biệt, káhc các lĩnh vực sản xuất,
lu thông và tiêu dùng các sản phẩm vật chất thuần tuý. Việt Nam phát triển theo định hớng
xã hội chủ nghĩa, vì vậy các đặc trng đó càng đợc khắc hoạ đậm nét hơn trong quá trình
lựa chọn, đa ra các quy phạm pháp luật. Việc lợng hoá và cụ thể hoá các quy phạm pháp
luật là quá trình của nhận thức, của kinh nghiệm và trình độ lập pháp.
2. Về mặt thực tiến
- Luật xuất bản đợc ban hành và đi vào cuộc sống đến nay đã ba năm rỡi. Các qui
phạm pháp luật về xuất bản cọ xát với thực tiễn hoạt động xuất bản đã khẳng định các giá
trị, đồng thời cũng bộc lộ những khiếm khuyết, cần sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện.
- Hoà bình, ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc
của các dân tộc và cac nớc trên thế giới. Các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều
vào quá trình hợp tác và liên kết khu vực, liên kết quốc tế. Vì vậy, việc đa phơng và đa
dạng hoá các quan hệ quốc tế không chỉ là chính sách đối ngoại của Việt Nam, mà của
nhiều nớc. Xuất bản cũng đang nằm trong sự hoà nhập đó. Vì vậy, cần phải có định hớng
pháp luật trong các quan hệ quốc tế về xuất bản, về quyền sở hữu trí tuệ.
24
- Trình độ và kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật Việt Nam đã có nhiều bớc tiến
đáng kể tròn những năm qua.Nhng xuất bản vừa là hoạt động sản xuất vừa là hoạt động
văn hoá t tởng, vì vậy việc lựa chọn để đa ra những quy phạm pháp luật phù hợp là việc
làm khó khăn, phức tạp, đòi hỏi phải có thời gian thể nghiệm.
- Xuất bản là lĩnh vực vừa phải hoạt động theo Luật xuất bản vừa phải hoạt động


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status