giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các ngân hàng thương mại cổ phần trên thị trường chứng khoán việt nam - Pdf 10

Khoá luận tốt nghiệp
Lời mở đầu
1. Sự cần thiết của đề tài
Sự phát triển nh vũ bão của nền kinh tế thế giới luôn luôn đặt ra cho mỗi
quốc gia một yêu cầu là phải luôn đổi mới và phát triển kinh tế thì mới có thể tồn tại
trong một môi trờng cạnh tranh ngày càng gay gắt và theo kịp với các cờng quốc khác.
Chính vì vậy mà trong suốt thời gian qua chúng ta đã phải tiến hành đổi mới nền kinh
tế theo cơ chế thị trờng và theo hớng công nghiệp hoá hịên đại hoá, kết quả là chúng ta
đã thu đợc những thành công nhất định nh: tốc độ tăng trờng GDP vài năm thờng từ
7.5% trở lên, hệ thống pháp luật ngày càng đợc hoàn chỉnh, đầu t toàn xã hội bằng
nguồn vốn trong nớc và ngoài nớc tăng mạnh, khu vực kinh tế t nhân và có vốn đầu t n-
ớc ngoài ngày càng tăng mạnh và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, hệ thống
các trung gian tài chính (ngân hàng, bảo hiểm ) ngày càng đ ợc mở rộng về quy mô và
chất lợng hoạt động . Những thành tựu kinh tế kể trên đã tạo tiền đề cho việc ra đời
và phát triển một TTCK ở Việt Nam - một kênh huy động và phân bổ vốn trung dài
hạn quan trọng cho nền kinh tế đất nớc. Kinh nghiệm của các quốc gia có nền kinh tế
thị trờng phát triển cho thấy một TTCK phát triển, minh bạch, công khai với sự tham
gia sôi động của các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế có vai trò rất quan trọng đối với
sự hng thịnh của nền kinh tế đất nớc. Cũng theo kinh nghiệm của các nớc phát triển thì
trên TTCK các Ngân hàng tham gia rất sôi động vào TTCK ở mọi khía cạnh: là tổ chức
kinh doanh đầu t chứng khoán, trung gian tài chính và là chủ thể phát hành và niêm yết
chứng khoán trên thị trờng chứng khoán . mà các ngân hàng của họ lại chủ yếu là các
ngân hàng thơng mại cổ phần. TTCKVN đã đi vào hoạt động đợc gần 5 năm và 5 năm
ấy là cả một quá trình nỗ lực cố gắng của UBCKNN, NHNN, Chính phủ, và các cơ
quan hữu quan khác nhằm xây dựng và phát triển TTCK và bớc đầu TTCKVN đã đạt
đợc những thành tựu nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đợc, TTCKVN
còn rất nhiều hạn chế nh: quy mô thị trờng còn quá nhỏ bé, chất lợng thị trờng đặc biệt
là chất lợng hàng hoá cha đủ để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu t tham gia trên thị tr-
ờng. Sự tham gia của các chủ thể trên thị trờng còn hời hợt đặc biệt là sự tham gia với
t cách là chủ thể phát hành chứng khoán, sự tham gia của các định chế tài chính đặc
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -

Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
2 -
Khoá luận tốt nghiệp
Nghiên cứu sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCPVN
đặc biệt là một số ngân hàng có hoạt động kinh doanh hiệu quả, là điển hình cho khối
NHTMCPVN nh : ACB, Sacombank, EXimbank,VPBank,
4. Phơng pháp nghiên cứu của khoá luận
Khoá luận sử dụng phơng pháp duy vật biện chứng, kết hợp với phân tích,
tổng hợp, thống kê, đối chiếu so sánh trên cơ sở phân tích tình hình thực tế của
TTCKVN so với kinh nghiệm xây dựng và phát triển TTCK của các nớc trên thế giới
từ đó đa ra những định hớng, giải pháp cụ thể.
5. Kết cấu của khoá luận
Khoá luận đợc chia làm 3 chơng lớn:
Chơng 1: Sự cần thiết tham gia niêm yết của Ngân hàng thơng mại cổ phần trên
Thị trờng chứng khoán
Chơng 2: Thực trạng tham gia niêm yết của các Ngân hàng thơng mại cổ phần trên
Thị trờng chứng khoán Việt Nam
Chơng 3: Giải pháp nhằm thúc đẩy sự tham gia niêm yết của các Ngân hàng thơng
mại cổ phần trên Thị trờng chứng khoán Việt Nam
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
3 -
Khoá luận tốt nghiệp
Ch ơng1
sự cần thiết tham gia niêm yết của ngân hàng thơng mại
cổ phần trên thị trờng chứng khoán
1.1. Những vấn đề cơ bản về Thị trờng chứng khoán
1.1.1. Khái niệm về TTCK
TTCK là một định chế cơ bản của thị trờng tài chính, nơi phát hành và giao
dịch mua bán các loại chứng khoán trung và dài hạn gồm cổ phiếu, trái phiếu chứng
chỉ quỹ đầu t và các loại chứng khoán khác từ đó hình thành nên giá cả chứng khoán.

thức ở đó thực hiện việc mua, bán các chứng khoán đợc niêm yết trong danh sách của
thị trờng. Đây là một tổ chức có t cách pháp nhân thành lập theo quy định của pháp
luật, có thực thể hiện hữu và là một thị trờng có tính minh bạch cao.
- Thị trờng OTC là thị trờng không có địa điểm giao dịch cụ thể, là thị tr-
ờng thơng lợng của các công ty môi giới chứng khoán thực hiện các giao dịch thông
qua hệ thống điện thoại, vi tính đã đợc nối mạng giữa các thành viên trong cả nớc hay
một khu vực. Hàng hoá của thị trờng OTC là các chứng khoán niêm yết hoặc các
chứng khoán cha niêm yết. Tuy nhiên, hàng hoá của thị trờng này có rủi ro cao hơn
so với thị trờng tập trung.
1.1.3. Các chủ thể tham gia TTCK
Trên TTCK có nhiều chủ thể tham gia với nhiều mục đích khác nhau: chủ
thể phát hành, chủ thể đầu t, chủ thể trung gian chứng khoán, chủ thể quản lí giám sát
hoạt động của TTCK và các tổ chức có liên quan khác.
Chủ thể phát hành: Là những ngời cần tiền và huy động vốn bằng cách
phát hành chứng khoán bán cho ngời đầu t và những ngời kinh doanh chứng khoán.
Theo nghị định 144/2003/NĐ_CP tổ chức phát hành là tổ chức đăng kí phát hành
chứng khoán ra công chúng theo quy định của nghị định này. Họ có thể là:
- Chính phủ và chính quyền địa phơng: Các tổ chức này phát hành trái
phiếu khi họ có nhu cầu huy động vốn nhằm bù đắp bội chi ngân sách hay tài trợ cho
các dự án quốc gia của địa phơng.
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
5 -
Khoá luận tốt nghiệp
- Doanh nghiệp: Phát hành ra các loại cổ phiếu (nếu đó là công ty cổ phần)
và các loại trái phiếu công ty. Đây là lực lợng hoạt động thờng xuyên và đông đảo trên
TTCK nhằm nhiều mục đích khác nhau nh huy động vốn, thành lập công ty, sát nhập,
giải thể, cổ phần hoá
- Các tổ chức tài chính: Tổ chức bảo hiểm, công ty tài chính, NHTM đặc
biệt là các NHTMCP phát hành ra các chứng khoán nh cổ phiếu, trái phiếu, các chứng
khoán phái sinh

Nói đến hàng hoá trên TTCK thì phải quan tâm đến hai vấn đề là: Chủng loại hàng hoá
và chất lợng hàng hoá trên TTCK
1.1.4.1. Các loại hàng hoá trên TTCK
Tuỳ từng loại chứng khoán khác nhau, quyền lợi của ngời sở hữu chứng
khoán khác nhau. Thông thờng chứng khoán gồm 3 loại: Chứng khoán vốn ( cổ phiếu-
Equity securities), chứng khoán nợ ( trái phiếu Debt securities) và chứng khoán
phái sinh (Derivatives).
- Cổ phiếu là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành để hình thành
nên vốn điều lệ khi mới thành lập hoặc tăng vốn để sản xuất kinh doanh. Cổ phiếu là
phơng tiện chia sẻ rủi ro đến cùng. Có nhiều loại cổ phiếu nh: Cổ phiếu thờng, cổ
phiếu u đãi
- Trái phiếu là một loại chứng khoán đợc phát hành dới hình thức chứng
chỉ hoặc bút toán ghi sổ xác nhận nghĩa vụ trả nợ bao gồm vốn gốc và lãi của tổ chức
phát hành trái phiếu đối với ngời sở hứu trái phiếu. Trái phiếu có mệnh giá và là phơng
tiện chia sẻ rủi ro có mức độ. Có các loại trái phiếu sau: Trái phiếu chính phủ, trái
phiếu doanh nghiệp, trái phiếu ngân hàng
- Chứng khoán phái sinh: Đợc ra đời từ các giao dịch chứng khoán và đợc
quyền chuyển đổi sang chứng khoán qua mua bán. Có các loại chứng khoán phái sinh
sau: Chứng quyền, quyền mua cổ phần, quyền lựa chọn, các hợp đồng tơng lai, hợp
đồng kì hạn.
1.1.4.2. Chất lợng hàng hoá trên TTCK
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
7 -
Khoá luận tốt nghiệp
a, Quan niệm về chất lợng chứng khoán
Với bất kì một thị trờng nào khác, chất lợng hàng hoá luôn đợc đánh giá
bằng giá trị sử dụng và mức độ phù hợp giữa giá cả và giá trị của hàng hoá đó. Tuy
nhiên với TTCK lại khác, hàng hoá trên TTCK là một loại hàng hoá đặc biệt nên việc
đánh giá chất lợng chứng khoán không thể dựa vào các yếu tố trên. Xuất phát từ bản
chất của chứng khoán là có tính sinh lời, tính rủi ro, và tính thanh khoản nên việc đánh

Hay nói khác đi là một mức sinh lời cao hơn sẽ là phần thởng cho những ai dám chấp
nhận rủi ro cao hơn, với những nhà đầu t ngại rủi ro thì họ chỉ dám đầu t vào những
chứng khoán có độ an toàn cao do vậy mức sinh lời mà họ nhận đợc sẽ thấp hơn. Do
vậy, để đánh giá chất lợng của chứng khoán ta không thể chỉ căn cứ vào riêng mức
sinh lời hay rủi ro của chứng khoán đó mà ta phải dựa vào mức độ phù hợp giữa sinh
lời và rủi ro, tơng quan giữa sinh lời và rủi ro trong từng loại chứng khoán. Tức là với
mức độ rủi ro của chứng khoán đang xét thì mức sinh lời của nó đã phù hợp cha, đã đủ
để hấp dẫn nhà đầu t hay cha và phù hợp với mức ngại rủi ro của họ hay cha?
Tuy nhiên, một yếu tố không kém phần quan trọng để quyết định chất lợng
của chứng khoán là sự biến động giá chứng khoán đó. Theo lí thuyết thị trờng hiệu quả
thì trong một thị trờng hoàn hảo (thông tin hoàn hảo) thì giá chứng khoán đã phản ánh
toàn bộ những thông tin cần thiết hiện có liên qua đến tổ chức phát hành. Do vậy, giá
chứng khoán phản ánh chính xác chất lợng chứng khoán đó và sự biến động giá chứng
khoán trên TTCK chỉ là do nó phản ứng với những thông tin mới trên thị trờng. Vì vậy,
với một thị trờng chứng khoán phát triển, thông tin minh bạch thì chất lợng chứng
khoán đợc thể hiện chính xác qua giá cả và sự biến động của giá cả chứng khoán trên
TTCK.
Từ những kết luận trên ta có thể thấy chất lợng chứng khoán trên TTCK phụ
thuộc vào các yếu tố sau:
b, Các yếu tố ảnh hởng đến chất lợng chứng khoán
* Những yếu tố thuộc về nền kinh tế
TTCK là một kênh huy động vốn và đầu t cho nền kinh tế do đó sự phát
triển hay suy thoái của nền kinh tế có ảnh hởng rất sâu sắc tới sự phát triển của TTCK
trong đó có chất lợng hàng hoá trên TTCK. Cụ thể là:
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
9 -
Khoá luận tốt nghiệp
- Tình hình chính trị và pháp luật: Chính trị và pháp luật có ảnh hởng rất lớn
tới TTCK những thay đổi chính trị và pháp luật nh chế độ thuế khoá, phơng thức cải
cách, vị trí bầu cử có tác động rất lớn tới sự biến động giá chứng khoán trên TTCK

chứng khoán trên TTCK vì khi ngời đầu t lạc quan, tin tởng vào thị trờng và loại chứng
khoán mình lựa chọn thì sẽ có tác động rất tốt tới loại hàng hoá mà họ đã lựa chọn và
ngợc lại. Trên thực tế cho thấy có những trờng hợp do những thông tin sai lệch trên thị
trờng đã có ảnh hởng rất lớn tới niềm tin của nhà đầu t trên thị trờng và dẫn tới việc
mua vào hoặc bán ra một cách ồ ạt một loại chứng khoán nào đó và gây nên sự xáo
trộn trên thị trờng. Đó chính là tâm lí bầy đàn trong đầu t chứng khoán.

Yếu tố thuộc về chủ thể phát hành
ở phần trên ta thấy các yếu tố của nền kinh tế có ảnh hởng không nhỏ tới
TTCK và chất lợng hàng hoá trên TTCK. Tuy nhiên, khi nói đến hàng hoá trên TTCK
thì một yếu tố không thể tách rời khỏi nó đó là chủ thể phát hành. Mỗi chứng khoán
do một chủ thể phát hành ra nó. Do vậy, chất lợng hàng hoá trên TTCK sẽ do chất lợng
của chủ thể phát hành ra nó quyết định. Và chất lợng của chủ thể phát hành chứng
khoán sẽ phụ thuộc vào các yếu tố sau :
- Năng lực tài chính của tổ chức phát hành: Thông thờng với hầu hết các
TTCK khi lựa chọn chứng khoán để đầu t ngời ta thờng dùng phơng pháp phân tích cơ
bản tức là dựa vào các báo cáo tài chính của chủ thể phát hành để lựa chọn chứng
khoán. Ngời ta sẽ phải đánh giá xem năng lực tài chính của doanh nghiệp đó có tốt
không cụ thể là:
Về vốn tự có (VTC): Với tổ chức phát hành có VTC càng cao chứng tỏ có
năng lực tài chính càng tốt và đệm phòng đỡ rủi ro càng cao. Hơn nữa, VTC của tổ
chức phát hành còn ảnh hởng không nhỏ tới các tỉ lệ nh: ROA, ROE cũng nh lợi
nhuận, lợi tức của tổ chức phát hành và cổ tức của các cổ đông.
Về thu nhập của công ty, kết quả sản xuất kinh doanh của công ty: Công ty
làm ăn tốt, thu nhập của chứng khoán đó bao gồm cổ tức và phần chênh lệch giá cổ
phiếu đó cao. Do vậy, những công ty có mức cổ tức bền vững và tăng trởng luôn có đợc
sự trung thành và phản ứng có lợi của các cổ đông. Sự ổn định và mức tăng trởng cổ
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
11 -
Khoá luận tốt nghiệp

12 -
Khoá luận tốt nghiệp
yếu tố mang tính chất quyết định tới chất lợng và giá cả chứng khoán trên TTCK. Do
vậy, với mỗi tổ chức phát hành phải luôn tìm cách nâng cao năng lực taì chính, hiệu
quả kinh doanh và quản trị điều hành của mình để không ngừng nâng cao chất lợng
hàng hoá do mình cung cấp cho TTCK.
1.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP
Nh trên ta đã nói hàng hoá trên TTCK là một bộ phận quan trọng của TTCK
và chất lợng hàng hoá trên TTCK sẽ quyết định mức độ sôi nổi của thị trờng. Tuy
nhiên, chất lợng hàng hoá trên TTCK lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà phần lớn
là phụ thuộc vào chủ thể phát hành. Những tổ chức có uy tín, năng lực tài chính vững
mạnh, có triển vọng phát triển cao sẽ cung cấp cho thị trờng những loại chứng khoán
có chất lợng cao. Và các NHTMCP là một trong những doanh nghiệp có đầy đủ những
yêu cầu trên
1.2.1. Khái niệm về NHTMCP
Theo quan điểm của các nhà kinh tế, NHTM là tổ chức kinh doanh tiền tệ
với hoạt động chủ yếu và thờng xuyên là nhận tiền gửi để cho vay, chiết khấu, và đáp
ứng các phơng tiện thanh toán. Theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng: Ngân hàng là
loại hình tổ chức tín dụng đợc thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan". Theo tính chất và mục tiêu hoạt động có các loại hình
ngân hàng : NHTM, NH phát triển, NH đầu t, NH chính sách, NH hợp tác, và các loại
hình ngân hàng khác.
NHTMCP là loại hình ngân hàng đợc thành lập từ trớc khi có pháp lệnh
ngân hàng, hợp tác xã tín dụng, và công ty tài chính và sau đó nó đã đợc khẳng định
địa vị pháp lý: NHTMCP là Ngân hàng thơng mại đợc thành lập dới hình thức
công ty cổ phần trong đó một cá nhân hay một tổ chức không đợc sở hữu số cổ
phần của ngân hàng quá tỷ lệ do NHNN nớc quy định
Nh vậy, NHTMCP cũng giống nh một công ty cổ phần, có quyền đợc phát
hành cổ phiếu ra công chúng và niêm yết cổ phiếu trên TTCK .
1.2.2. Sự cần thiết tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP

NHTMCP trớc hết là một ngân hàng nên nó có hoạt động chính là huy
động vốn để cho vay. Do tính chất xã hội trong hoạt động ngân hàng nên ngân hàng th-
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
14 -
Khoá luận tốt nghiệp
ờng có vốn rất lớn, do đó một ngân hàng có thể cho rất nhiều doanh nghiệp vay vốn và
so với một doanh nghiệp thì vốn của ngân hàng sẽ lớn hơn rất nhiều so với vốn của một
doanh nghiệp. Hơn nữa, để đảm bảo an toàn cho khách hàng gửi tiền, đảm bảo yêu cầu
an toàn tối thiểu mà chính phủ quy định các ngân hàng phải có vốn tự có lớn đủ đáp
ứng yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu. Do đó vốn cổ phần của các NHTMCP thờng
rất cao, và nếu các NHTMCP thực hiện phát hành cổ phiếu ra công chúng thì sẽ cung
cấp một lợng hàng hoá rất lớn cho TTCK. Mặt khác, vì ngân hàng là tổ chức kinh
doanh tiền tệ chịu sự quản lý, giám sát chặt chẽ của Chính phủ, NHNN, hoạt động của
ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho nên trong quá trình hoạt động các ngân hàng
luôn luôn phải tìm cách để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, đảm bảo an toàn
trong kinh doanh. Do vậy, có thể nói ngân hàng là một trong những tổ chức kinh doanh
lành mạnh và có hiệu quả, các chứng khoán mà ngân hàng có thể cung cấp cho thị tr-
ờng là những chứng khoán có chất lợng cao. Thêm vào đó, vì ngân hàng là một trong
những tổ chức đầu tiên có thực hiện các nghiệp vụ phái sinh nên hàng hoá mà các ngân
hàng cung cấp cho TTCK không chỉ đơn thuần là trái phiếu, cổ phiếu, chứng chỉ tiền
gửi, mà còn có một khối lợng lớn đa dạng, phong phú các chứng khoán phái sinh nh:
Hợp đồng quyền chọn, hợp đồng tơng lai, .
Nh vậy, việc các NHTMCP tham gia niêm yết trên TTCK sẽ đồng nghĩa với
việc có một khối lợng hàng ngàn tỷ đồng hàng hoá niêm yết và giao dịch trên TTCK
đa dạng về chủng loại góp phần TTCK tạo nên sự sôi động của thị trờng. Đặc biệt là
trong điều kiện một thị trờng còn khan hiếm hàng hoá có chất lợng thì với sự tham gia
phát hành và niêm yết chứng khoán của các NHTMCP sẽ là một đòn bẩy thúc đẩy
TTCK phát triển.
Về chất lợng
Chất lợng hàng hoá trên TTCK là một yếu tố vô cùng quan trọng quyết định

vực đầu t là rất lớn và NHTMCP cũng là một bộ phận quan trọng trong hệ thống ngân
hàng nên nó cũng có vai trò vô cùng quan trọng đối với toàn bộ nền kinh tế.
- Ngành ngân hàng là một ngành có triển vọng phát triển cao: Với bất kì
một quốc gia nào nếu muốn có một nền kinh tế phát triển cao thì không thể thiếu các
trung gian tài chính trong đó phải kể đến các ngân hàng thơng mại. Một nền kinh tế
càng phát triển cao thì sự tồn tại của các ngân hàng càng trở nên quan trọng vì nền
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
16 -
Khoá luận tốt nghiệp
kinh tế càng phát triển cao thì thu nhập của dân c tăng đồng thời nhu cầu đầu t, thanh
toán qua ngân hàng của họ cũng tăng lên. Do đó, ngành ngân hàng sẽ có một môi tr-
ờng rất thuận lợi để phát triển. Hơn nữa, khi ngày nay hầu hết các quốc gia đều đi theo
cơ chế thị trờng thì sự xuất hiện và tồn tại của các NHTMCP thay vì các NHTM trực
thuộc nhà nớc là một vấn đề tất yếu khách quan. Do vậy, có thể nói kinh tế phát triển
càng cao thì triển vọng phát triển của các NHTMCP càng cao.
- Hầu hết các NHTMCP đều có vốn điều lệ lớn nên độ an toàn rất cao, uy
tín hình ảnh của các NHTMCP lớn hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp vì trên thực
tế các ngân hàng còn có quyền thẩm định về doanh nghiệp và quyết định dự án của
doanh nghiệp có đợc vay vốn hay không, ngân hàng còn là ngời đánh giá xếp loại
doanh nghiệp. Đây cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng tạo nên chất lợng chứng
khoán mà các NHTMCP cung cấp cho TTCK .
- Báo cáo tài chính của các NHTMCP minh bạch: Một điều rất quan trọng
mà nhà đầu t chứng khoán đòi hỏi đối với tổ chức phát hành chứng khoán là phải công
bố công khai, minh bạch, trung thực, chính xác các báo cáo tài chính. Do bản thân
ngân hàng là một tổ chức chịu sự thanh tra giám sát thờng xuyên của không chỉ ngân
hàng cấp trên mà còn của chính phủ và toàn bộ công chúng gửi tiền. Sở dĩ nh vậy vì do
tính chất hệ thống trong hoạt động ngân hàng nên nếu một ngân hàng trong hệ thống
làm ăn không tốt và có nguy cơ phá sản sẽ ảnh hởng rất xấu tới hình ảnh chung của
toàn ngành ngân hàng thậm chí kéo theo sự sụp đổ của toàn hệ thống ngân hàng từ đó
ảnh hởng rất lớn tới nền kinh tế. Để đảm bảo hoạt động của các ngân hàng đợc thông

hấp dẫn đối với nhà đầu t chứng khoán và đặc biệt sẽ tạo ra nhiều cơ hội lựa chọn hơn
cho các nhà đầu t khi họ tham gia vào TTCK.
1.2.2.2. Đối với các NHTMCP
Nh ở trên ta đã thấy vai trò quan trọng của việc tham gia niêm yết trên
TTCK của các NHTMCP đối với TTCK nói chung còn với các NHTMCP thì sao? Có
thể trả lời câu hỏi này là việc tham gia niêm yết trên TTCK của các NHTMCP sẽ mang
lại cho các NHTMCP rất, rất nhiều lợi ích:
- Việc niêm yết cổ phiếu của các NHTMCP trên TTCK sẽ cung cấp cho các
NHTMCP một kênh huy động vốn có hiệu quả cho phép ngân hàng huy động đợc một
khối lợng vốn lớn của nền kinh tế trong một thời gian ngắn, giúp các NHTMCP triển
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
18 -
Khoá luận tốt nghiệp
khai nhanh chóng và thuận lợi các mục tiêu. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế
giới hiện nay là hội nhập kinh tế quốc tế thì sự cạnh tranh giữa các ngân hàng càng
ngày càng trở lên gay gắt và một trong những chỉ tiêu để đo lờng khả năng cạnh tranh
của mỗi ngân hàng là chỉ tiêu tốc độ tăng vốn chủ sở hữu (ROE), ROE càng cao chứng
tỏ ngân hàng đó có năng lực tài chính càng cao do vậy khả năng cạnh tranh càng cao.
Vì vậy, để đứng vững trong cạnh tranh các NHTMCP phải không ngừng nâng cao tỷ lệ
ROE của mình bằng mọi biện pháp. Một trong những biện pháp nhanh nhất, có lợi
nhất để làm điều đó là phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK vì phát hành và niêm
yết cổ phiếu trên TTCK là một kênh quan trọng để các NHTMCP thu hút vốn trung dài
hạn của các nhà đầu t qua đó tăng vốn điều lệ và có vốn để phát triển kinh doanh.
- Việc tham gia niêm yết của các NHTMCP trên TTCK sẽ giúp các
NHTMCP mở rộng quy mô, mạng lới hoạt động, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá và tiếp cận dần với chuẩn mực quốc tế. Vì khi NHTMCP tham gia niêm yết trên
TTCK thì việc huy động vốn của các NHTMCP trở nên dễ dàng hơn rất nhiều, khi đó
ngân hàng sẽ có vốn để đầu t xây dựng thêm các chi nhánh, mở rộng phạm vi, quy mô
hoạt động, nâng cấp cơ sở hạ tầng và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng tiến dần đến
với các tiêu chuẩn quốc tế.

cạnh tranh. Vì vậy, có thể nói việc đa cổ phiếu của các NHTMCP lên niêm yết trên
TTCK là một việc làm rất cần thiết để phát triển TTCK. Đặc biệt với những nớc mà
TTCK còn kém phát triển, hàng hoá trên thị trờng còn khan hiếm và đơn điệu, sự tham
gia của các nhà đầu t còn hời hợt thì sự tham gia niêm yết của NHTMCP sẽ tạo ra một
luồng sinh khí mới cho thị trờng.
Phát hành và niêm yết cổ phiếu trên TTCK sẽ tạo ra nhiều cơ hội cho
NHTMCP nhng cũng phải có những điều kiện phù hợp. Bên cạnh đó, các NHTMCP
khi tham gia niêm yết trên TTCK cũng đứng trớc những thách thức nhất định. Những
thách thức đó là:
- Thách thức từ phía thông tin thị trờng: Trên TTCK thông tin của doanh
nghiệp niêm yết là yếu tố quan trọng hàng đầu, ảnh hởng trực tiếp tới giao dịch cổ
phiếu của doanh nghiệp. Thực tế cho thấy sự thay đổi giá cổ phiếu của một doanh
nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào thông tin công bố. Trong trờng hợp thông tin không
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
20 -
Khoá luận tốt nghiệp
chính xác, bị sai lệch hoặc bị lộ thông tin giá cổ phiếu có thể lên hoặc xuống bất th -
ờng (có thể lên rất cao hoặc xuống rất thấp so với giá trị thực của nó). Điều này sẽ làm
cho doanh nghiệp gặp những rủi ro lớn, đe doạ sự tồn tại của doanh nghiệp, và càng
đặc biệt nguy hiểm hơn khi doanh nghiệp là ngân hàng. Điều này có thể tạo làn sóng
lớn dân chúng bán tháo cổ phiếu của ngân hàng làm giá cổ phiếu giảm hoặc dân chúng
đến rút tiền hàng loạt. Điều quan trọng hơn nữa do đặc điểm của hoạt động ngân hàng
là tính rủi ro hệ thống lớn nên nếu xảy ra rủi ro đối với một ngân hàng thì không chỉ
bản thân ngân hàng đó rơi vào tình trạng khó khăn mà còn có thể kéo theo cả hệ thống
sẽ bị khủng hoảng.
- Dễ bị cổ đông lớn thâu tóm: Trong điều kịên hiện nay hiện tợng cạnh tranh
không lành mạnh vẫn còn đang phổ biến bên cạnh những thuận lợi đợc hởng khi niêm
yết Ngân hàng luôn luôn bị cổ đông, cơ quan báo chí, cơ quan quản lý quan tâm, theo
dõi sát sao những hoạt động của ngân hàng. Hơn nữa, thông qua "chế độ tham dự"
trong việc mua cổ phiếu của ngân hàng rất dễ tạo nên hiện tợng mua cổ phiếu để

cho họ và đặc biệt là do sự nới lỏng trong các quy định đối với ngời nớc ngoài tham gia
vào TTCK VN nh: Quy định về tỉ lệ nắm giữ tối đa (30%), quy định về thuế chuyển
đổi lợi tức ra nớc ngoài Chính những sự thay đổi đó đã tạo ra một sự sôi nổi trên
TTCKVN trong thời gian qua. Theo dõi diễn biến của TTCKVN mấy tháng vừa qua ta
thấy rất rõ rằng mặc dù các nhà đàu t trong nớc đôi khi chững lại trớc diễn biến của thị
trờng nhng trong khi đó thì giao dịch của các nhà đầu t nớc ngoài thì luôn đạt tới giới
hạn tối đa (30%). Nh vậy, có thể nói rằng đến nay, về chủ thể tham gia TTCKVN đã
có sự mở rộng rất nhiều so với trớc. Không chỉ gia tăng trong số lợng chủ thể tham gia
thị trờng mà chất lợng của các chủ thể tham gia cũng ngày càng đợc nâng cao rõ rệt.
Điều đó đợc thể hiện ở sự gia tăng các nhà đầu t có tổ chức, các nhà đầu t nớc ngoài.
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
22 -
Khoá luận tốt nghiệp
Đó là những tổ chức đầu t có tính chuyên nghiệp rất cao và khả năng phán đoán thị tr-
ờng rất chính xác.
2.1.1.2. Hàng hoá trên TTCK VN
Theo nghị định 144/2003/NĐ- CP hàng hoá trên TTCK là chứng chỉ hoặc
bút toán ghi sổ xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của ngời sở hữu chứng khoán với
tài sản hoặc vốn của chủ thể phát hành. Bao gồm 3 loại là: Cổ phiếu, trái phiếu, và
chứng chỉ quỹ đầu t.
TTCKVN khi mới bắt đầu đi vào hoạt động chỉ có 2 cổ phiếu đợc niêm yết
trên TTCK với tổng giá trị niêm yết khoảng 270 tỷ đồng. Đến nay (04/2005) cả thị tr-
ờng đã có 28 công ty niêm yết trên TTGDCKTPHCM với tổng mệnh giá là
1.462.920.310.000(đ) và 216 loại trái phiếu niêm yết gồm Trái phiếu chính phủ
(TPCP) và Trái phiếu do Ngân hàng Đầu t phát triển Việt Nam phát hành với tổng
mệnh giá là 26.645.968.000.000(đ) và 1 loại chứng chỉ quỹ đầu t với tổng mệnh giá là
300.000.000.000(đ)
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
23 -
Khoá luận tốt nghiệp

103
62
11904338
41
23
4271338
18
14
2889338
4
4
1183070
Chứng chỉ quỹ
Số lợng niêm yết
Niêm yết mới
Giá trị niêm yết (triệu
đồng)
1
1
300000
0
0
0
0
0
0
0
0
0
0

nhiều hạn chế. Đó là quy mô TTCKVN vẫn còn rất nhỏ bé, các chủ thể tham gia thị
trờng còn hời hợt, khan hiếm về hàng hoá, cơ cấu hàng hoá niêm yết cha đa dạng
phong phú và không phù hợp với nhu cầu của công chúng đầu t. Đến nay đã gần 5 năm
đi vào hoạt động mà cả thị trờng mới chỉ có 13 công ty chứng khoán, 28 cổ phiếu niêm
yết của 28 công ty niêm yết, và một chứng chỉ quỹ của một công ty quản lý quỹ niêm
yết trên thị trờng. Đây là một con số khá khiêm tốn so với đòi hỏi thực tế và tiềm năng
hàng trăm doanh nghiệp có khả năng niêm yết đang chờ bên ngoài thị trờng. Đến thời
điểm hiện nay đã là năm 2005 mà số lợng chứng khoán niêm yết trên TTGDCKVN
vẫn cha bằng số lợng chứng khoán niêm yết trên TTCK của một số nớc trong khu vực
vào những năm 1990 nh: Thái Lan (năm 1990 có 209 công ty niêm yết), Hàn Quốc
(năm 1993 có 694 công ty niêm yết) Nh vậy, thử hỏi không biết trong bao nhiêu
năm nữa số lợng công ty niêm yết trên TTCKVN mới bằng số lợng công ty niêm yết
trên TTCK Thái Lan năm 1990? Không chỉ ít về số lợng hàng hoá mà cơ cấu hàng hoá
Nguyễn Thị Dịu - 4042 -
25 -


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status