Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank - Pdf 10

LỜI MỞ ĐẦU
Năm 2006 đi qua, với những biến động về giá cả các mặt hàng chiến lược,
những tranh chấp, xung đột về chính trị, tôn giáo cùng với sự bộc phát về
thiên tai, dịch bệnh...đã tác động không nhỏ đến sự bình ổn và phát triển
của nền kinh tế thế giới.
Trong bối cảnh chung đó, nền kinh tế việt nam tiếp tục có một năm phát
triển đáng ghi nhận thể hiện qua mức tăng GDP 8,2%, qua tình hình chính
trị xã hội ổn định, thu hút đầu tư nước ngoài tăng cao và đời sống của các
tầng lớp nhân dân được cải thiện, đặc biệt là việt nam đã gia nhập vào
WTO, vai trò và vị thế của việt nam ngày càng được nâng cao trên chính
trường quốc tế và khu vực
Hoà với thành công chung của đất nước, các ngân hàng thương mại đã rất
nỗ lực trong việc đầu tư ứng dụng công nghệ mới, nâng cao chất lượng
dịch vụ, đa dạng hoá sản phẩm để nhằm nâng cao sức cạnh tranh, từng
bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. có thể khẳng định năm 2006 là
một năm thành công của ngân hàng thương mại cổ phần vpbank. được
thành lập ngày 04/09/1993, qua hơn 13 năm phát triển, đã ghi nhận những
bước phát triển vững chắc của ngân hàng, và gặt hái được nhiều thành
công
Trong những thành công của VPBank,nổi bật là việc tài trợ cho các doanh
nghiệp vừa và nhỏ.Đây chính là một trong những hoạt động kinh doanh chính
và nó đã góp phần mang lại sự thành công cũng như tên tuổi của
VPBank.Trong quá trình thực tập tại đây,em đã nhận thấy rằng đây là một đề
tài hấp dẫn và em đã quyết định làm chuyên đề tốt nghiệp về đề tài ”Mở rộng
hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại VPBank”.Mặc
dù hết sức cố gắng nhưng do hạn chế về thời gian cũng như kiến thức nên tập
1
chuyên đề này không thể tránh khỏi sai sót.Em rất mong sụ đóng góp của thầy
để tạp chuyên đề này được trở nên tốt hơn trong lần sau.
2
CHƯƠNG 1

- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà
nước.
- Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã.
- Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP
ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh.
Như vậy có rất nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Một số tiêu thức như
vốn, lao động, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng được dùng khá phổ biến
trên thế giới cũng giống như ở Việt Nam. Trong đó, hai tiêu thức được sử
dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao động. Tuy nhiên,
mỗi một nước, mỗi một nền kinh tế lại lựa chọn các tiêu chuẩn khác nhau,
phụ thuộc vào nhiều yếu tố:
Trình độ phát triển kinh tế xã hội của từng nước: Thông thường các nước
có trình độ phát triển càng cao thì quy định về chỉ tiêu quy mô vốn cũng như
lao động cao hơn so với các nước có trình độ phát triển thấp. Ví dụ như ở
Nhật Bản doanh nghiệp có số vốn dưới 1 triệu USD và lao động dưới 300
người được coi là DNVVN, nhưng ở các nước chậm phát triển như Việt Nam
hay là Lào, Campuchia thì đó lại là doanh nghiệp lớn.
Các giới hạn tiêu chuẩn này thay đổi theo thời gian sao cho phù hợp với
trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng giai đoạn. Khi nền kinh tế tăng
trưởng, quy mô hoạt động của các doanh nghiệp mở rộng thì giới hạn tiêu
chuẩn sẽ được điều chỉnh lại. Hoặc khi nền kinh tế suy thoái, các doanh
nghiệp hoạt động kém hiệu quả, một số doanh nghiệp phá sản hoặc bị sáp
nhập, giải thể, số lượng các doanh nghiệp giảm. Lúc đó tiêu chuẩn để phân
4
loại DNVVN cũng sẽ thay đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô của các
doanh nghiệp.
Theo ngành nghề khác nhau: do mỗi ngành nghề có tính chất, đặc trưng
riêng nên việc phân biệt quy mô vốn cũng như lao động sử dụng riêng cho
từng ngành nghề cũng khác nhau. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, các doanh

- Số doanh nghiệp có vốn từ 5 đến dưới 10 tỷ đồng chiếm 8,18%.
1.1.2. Những lợi thế và bất lợi thế của DNVVN trong nền kinh tế thị trường.
1.1.2.1. Những lợi thế của DNVVN.
 Số lượng DNVVN chiếm tỷ lệ lớn.
Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các DNVVN khá thấp: quy mô vốn và số
lượng lao động khá thấp nên đa phần các DN trong nền kinh tế thị trường đều
thuộc nhóm DNVVN. Số lượng các DNVVN này thường chiếm từ 70% đến
80%, thậm chí có nước 90%. Hơn nữa, do đặc trưng của các DNVVN là hoạt
động trên tất cả các lĩnh vực ngành nghề nên hầu hết trong nền kinh tế số
lượng các doanh nghiệp này chiếm ưu thế tuyệt đối.
Từ khái niệm DNVVN là “ cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký
kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng
hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người” cho thấy tuyệt
đại đa số các doanh nghiệp của Việt Nam đều là DNVVN. Tính đến
31/12/2005 số DNVVN thực tế đang hoạt động trong cả nước là khoảng
113.000 doanh nghiệp, tăng thêm 23,54% so với 31/12/2004 và gấp 2,7 lần so
với năm 2000. Bình quân năm 2001-2005, số doanh nghiệp thực tế hoạt động
tăng 28%. Hơn nữa, các DNVVN ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu
đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt, đối xử so với các DNNN giảm
nhiều. Với quan điểm phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và
6
Nhà nước ta mà các DNVVN ngày càng có nhiều cơ hội để phát triển. Vì vậy
mà số lượng các DNVVN tăng lên đáng kể. Hiện cả nước có 200.000
DNVVN và theo dự kiến sẽ thành lập thêm 320.000 DN mới để đưa tổng số
lên khoảng 500.000 DN vào năm 2010.
 Khả năng linh hoạt cao, năng động trong hoạt động sản xuất kinh
doanh.
Các DNVVN không chỉ nhiều hơn về số lượng mà còn cho thấy tính linh
hoạt và năng động trong hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng cao.
DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên dễ

nhưng tập trung thủ yếu trong ba lĩnh vực chính là công nghiệp, xây dựng;
thương mại, dịch vụ đời sống và dịch vụ vận chuyển hàng hoá, hành khách…
1.1.2.2. Những bất lợi thế của DNVVN.
 Vốn và tín dụng.
Vốn là điều kiện đầu tiên để một doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh. Vốn có ý nghĩa quan trọng trong suốt quá trình hoạt động
của doanh nghiệp vì vốn duy trì hoạt động và đảm bảo cho sản xuất được liên
tục.
DNVVN có tiềm lực tài chính rất hạn chế, vốn đầu tư ban đầu ít, vốn lưu
động lại càng ít. Thiếu vốn dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp không có
điều kiện để lựa chọn các mặt hàng có chất lượng cao trong kinh doanh, đầu
tư vào đổi mới các thiết bị, công nghệ. Bản thân các DNVVN hoạt động theo
hướng tự huy động vốn nhàn rỗi trong dân cư, từ các mối quan hệ họ hàng,
thân quen… là chủ yếu. Tuy nhiên, vốn từ nguồn này rất ít, thông thường là
vốn ban đầu để hoạt động sản xuất kinh doanh.
8
Ngoài ra, DNVVN có thể huy động vốn từ nguồn tín dụng ngân hàng. Tuy
nhiên, đây lại là khó khăn nhất đối với các DNVVN hiện nay khi mà các
DNVVN chưa tiếp cận được với nguồn tín dụng ngân hàng, hoặc sự tiếp cận
còn rất mỏng manh. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng
cũng như phải chịu sự giám sát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Hơn
nữa, năng lực nội tại của DNVVN thấp, các chỉ tiêu tài chính không đảm bảo
yêu cầu của ngân hàng, các DNVVN lại không có tài sản có giá trị để đảm
bảo cho khoản vay.
 Nguồn nhân lực
Số lượng các DNVVN lớn nên thu hút một lượng lớn lực lượng lao động
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trình độ cũng như tay
nghề lao động chưa cao. Các DNVVN đầu tư vào tài sản cố dịnh ít do nguồn
vốn ít nên họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn, đặc biệt là với
những nước có nguồn lao động dồi dào và nhân công rẻ. Đây vừa là thuận lợi

mở ra khả năng rộng lớn hơn cho sự phát triển của DNVVN. Nó giúp doanh
nghiệp có thể trang bị kỹ thuật hiện đại hơn, chủ động trong việc lựa chọn,
ứng dụng công nghệ mới. Từ đó khắc phục khó khăn do quy mô nhỏ bằng khả
năng sản xuất nhanh hơn, rẻ hơn, nhanh hơn nhờ ứng dụng công nghệ mới.
Tuy nhiên, đây lại là một thách thức đối với DNVVN khi mà nguồn vốn cũng
như trình độ nhân lực hạn chế thì việc thay đổi công nghệ phù hợp là rất ít. Vì
vậy, đổi mới khoa học công nghệ chưa được các chủ doanh nghiệp đánh giá
đúng đắn tầm quan trọng cũng như tính cấp bách. Các DNVVN chỉ có thể đổi
mới công nghệ từng phần, từng công đoạn sản xuất nên dễ dẫn đến việc chắp
vá, thiếu tính đồng bộ và thống nhất.
Trong những năm qua, nhiều doanh nghiệp đã có những đổi mới về mặt
khoa học công nghệ, nhiều máy móc thiết bị và công nghệ mới được chuyển
10
giao từ các nước phát triển. Song tốc độ đổi mới công nghệ và trang thiết bị
còn chậm, chưa đồng bộ và chưa theo một định hướng phát triển rõ rệt. Hiện
nhiều doanh nghiệp vẫn đang sử dụng các công nghệ lạc hậu, xen lẫn với các
công nghệ trung bình và tiên tiến. Điều này làm hạn chế hiệu quả vận hành
thiết bị và giảm mức độ tương thích, đồng nhất giữa sản phẩm đầu ra và đầu
vào.
Phần lớn các doanh nghiệp ở nước ta đang sử dụng công nghệ tụt hậu so
với mức trung bình của thế giới 2-3 thế hệ và chủ yếu là nhập khẩu. Hầu hết
các dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị nhập khẩu đều đã khấu hao hết
và được tân trang lại hoặc là do các doanh nghiệp nước ngoài thải bỏ. Điều
này dẫn đến tình trạng sản phẩm làm ra không thể đáp ứng được mẫu mã, chất
lượng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh, đến việc nâng cao năng
suất, hạ giá thành sản phẩm.
 Phân bố phân tán, hiệu quả hoạt động chưa cao.
Quy mô nhỏ, phân tán là một trong những bất lợi đối với các DNVVN. Số
lượng DNVVN nhiều, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế nhưng lại
thiếu sự tập trung. Các doanh nghiệp phân bố phân tán khắp các vùng miền.

thế giới, đặc biệt là các nước phát triển, DNVVN chiếm 90% số lượng doanh
nghiệp, đóng góp từ 25%-33% giá trị GDP hàng năm. Vì vậy, việc phát triển
DNVVN đóng góp đáng kể vào tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt là
các nước đang phát triển.
Vì DNVVN có quy mô nhỏ nên dễ điều chỉnh hoạt động. Các doanh
nghiệp này thường hoạt động rất năng động và linh hoạt trong nền kinh tế nên
kéo theo nền kinh tế năng động theo. Sự góp mặt đáng kể của các doanh
12
nghiệp này khiến cho các doanh nghiệp lớn cũng phải điều chỉnh theo, tạo đà
cho nền kinh tế ngày càng phát triển.
Hoạt động đa năng và bao trùm hầu hết các lĩnh vực kinh tế, DNVVN đã
và đang cung cấp một khối lượng lớn hàng hoá, dịch vụ đáng kể cho nền kinh
tế. Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm thị trường cao, các
DNVVN có nhiều lợi thế trong việc cung ứng các sản phẩm, dịch vụ đáp ứng
nhu cầu trong nước và ngoài nước. Các DNVVN cũng đóng góp một phần
vào kim ngạch xuất nhập khẩu. Ở các nước đang phát triển, một số ngành
nghề có lợi thế xuất khẩu như: nông sản, thủ công mỹ nghệ, chế biến thủy hải
sản, dệt may…thì đều do các DNVVN sản xuất. Từ đó, tạo nguồn thu nhập ổn
định cho dân cư.
1.1.3.2. Phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực.
Về tiềm lực vốn: Các DNVVN có thể thành lập và hoạt động mà không cần
quá nhiều vốn. Điều này đã thu hút được đông đảo người dân tham gia đầu tư,
đặc biệt là nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư. Hơn nữa, lợi thế của các
DNVVN là có thể dễ dàng huy động được vốn từ người thân, bạn bè…và biến
các khoản tiền này thành các khoản đầu tư có hiệu quả.
Về nguồn lao động: Chiếm ưu thế về số lượng, DNVVN đã và đang thu hút
một lượng lớn lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Thông
thường nguồn lao động chiếm tỷ lệ từ 60 – 80% trong tổng số lao động trong
nền kinh tế. Các DNVVN chủ yếu hoạt động ở lĩnh vực thương mại- dịch vụ
nên nhu cầu lao động nhiều. Một đặc điểm là lao động trong khu vực này

phát triển tương đối đồng đều giữa các vùng miền khác nhau và cải thiện mối
quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
1.1.3.4. DNVVN có mối liên hệ chặt chẽ với các chủ thể khác trong nền kinh
tế.
14
DNVVN có mặt trong nhiều ngành nghề, lĩnh vực và tồn tại tất yếu khách
quan trong nền kinh tế của mỗi nước. Nó là một bộ phận hữu cơ, gắn bó chặt
chẽ với các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp lớn thường tập trung vào những
đoạn thị trường có quy mô lớn và không thể bao quát được toàn bộ thị trường.
Trong khi đó thị trường mục tiêu của các DNVVN lại tập trung vào những “
thị trường ngách” nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị
trường, cân đối cung cầu trong xã hội. Với vai trò là một kênh phân phối có
hiệu quả, các DNVVN vừa cung cấp các yếu tố đầu vào vừa là thị trường tiêu
thụ sản phẩm. Có thể nói với số vốn hoạt động không nhiều, một số DNVVN
hoạt động trên thị trường nguyên vật liệu trở thành những vệ tinh cung cấp
các yếu tố đầu vào cho các doanh nghiệp lớn. Một số DNVVN khác lại trở
thành thị trường tiêu thụ sản phẩm cho các doanh nghiệp lớn ví dụ như mua
máy móc, thiết bị, vật tư cần thiết… phục vụ cho quá trình sản xuất kinh
doanh.
Sự tham gia của các DNVVN trên thị trường làm cho số lượng và chủng
loại hàng hóa, dịch vụ không ngừng tăng lên. Với khả năng tiếp cận và đổi
mới công nghệ, cùng với xu thế phát triển của nền kinh tế, các DNVVN buộc
phải đổi mới phương thức hoạt động, đa dạng hoá sản phẩm, tăng năng suất,
nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm giá thành… Điều này dẫn đến tính chất
cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Đứng trước thách thức này, các
doanh nghiệp lớn cũng phải thường xuyên đổi mới và nâng cao năng lực hoạt
động nhằm tạo ra những lợi thế nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh với các
DNVVN. Những yếu tố đó có tác động lớn làm nền kinh tế năng động, hiệu
quả hơn.
1.2. Mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM

mục đích khác nhau. Tuy nhiên, những người thiếu vốn và những người thừa
16
vốn lại khó có thể gặp trực tiếp để cho vay, hơn nữa chi phí lại cao và không
kịp thời. Điều này đòi hỏi phải có một tổ chức đứng ra làm cầu nối đáp ứng
nhu cầu của cả hai bên. Do vậy, NHTM là tổ chức trung gian tài chính đi vay
để cho vay. Vai trò của NHTM tạo ra sự liên tục trong hoạt động sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp.
Đối với DNVVN ở Việt Nam, vốn kinh doanh chủ yếu dựa vào vốn cổ
phần và vốn vay các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, điều kiện để phát hành cổ
phiếu, trái phiếu yêu cầu nhiều nên DNVVN, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ,
không đáp ứng được. Các điều kiện đó là phải có quy mô lớn, sản xuất kinh
doanh có hiệu quả và có uy tín trên thị trường… Mặt khác, thị trường chứng
khoán của nước ta chưa hoàn chỉnh. Vì vậy, việc huy động vốn trung và dài
hạn của DNVVN gặp khó khăn. Khi có nhu cầu vốn, các DNVVN vẫn phải
tìm đến nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Do đó, có thể nói tín dụng là một
“kênh” chủ yếu để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là DNVVN.
Tín dụng ngân hàng tạo động lực thúc đẩy các DNVVN phát triển, nâng cao
năng lực cạnh tranh.
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị trên nguyên tắc
hoàn trả cả gốc và lãi, sử dụng có mục đích và dựa trên phương án vay
vốn.Các DNVVN tiếp cận nguồn vốn ngân hàng đã khó nhưng sử dụng nó
sao cho có hiệu quả còn khó hơn. Các doanh nghiệp thường thích sử dụng vốn
vay hơn là vốn tự có. Vì vậy trong cơ cấu vốn, tỷ lệ vốn vay bao giờ cũng
cao. Đối với các DNVVN thì vốn tự có thấp nên vốn hoạt động chủ yếu là
vốn vay. Tuy nhiên, khi sử dụng vốn vay thì các doanh nghiệp phải trả lãi.
Điều này tạo động lực cho các doanh nghiệp phải sử dụng vốn sao cho có
hiệu quả đảm bảo trả cả gốc và lãi cho ngân hàng. Do vậy, tín dụng ngân hàng
đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn, thúc đẩy lưu thông hàng hoá, tăng tốc độ lưu
chuyển vốn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tái sản xuất mở rộng và tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp phát triển bền vững.

đích và hiệu quả sử dụng vốn vay của khách hàng.
 Cho vay theo hạn mức.
Ngân hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Đó là số dư
tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản
xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách hàng. Hạn mức
tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Khách hàng có thể thực hiện vay
trả nhiều lần, song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Hình thức
này áp dụng cho khách hàng có quan hệ vay mượn thường xuyên, vốn vay
thường tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, hình thức này
thuận lợi cho khách hàng, đáp ứng kịp thời nhu cầu của khách hàng. Nhưng
lại gây khó khăn cho ngân hàng vì các lần vay không tách biệt thành các kỳ
hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng của từng lần
vay.
 Cho vay luân chuyển.
Đây là hình thức cho vay dựa trên luân chuyển hàng hóa. Ngân hàng sẽ cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi khách hàng bán được hàng hóa. Cho vay
luân chuyển dựa trên luân chuyển hàng hóa nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hóa để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới. Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các
doanh nghiệp thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ
ngắn ngày, có quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
 Cho vay trả góp.
Theo hình thức này, khách hàng được phép trả gốc làm nhiều lần trong thời
gian cho vay đã thỏa thuận. Cho vay trả góp mang tính chất là khoản tín dụng
trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi
lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ. Hình thức này
19
thường được áp dụng đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định.
Hình thức này gặp rủi ro cao vì tài sản thế chấp lại chính là hàng hóa mua trả
góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của người vay. Do vậy,

thất cho ngân hàng khi khách hàng gặp rủi ro. Ngân hàng yêu cầu khách hàng
phải có tài sản đảm bảo thế chấp khi muốn ngân hàng cấp tín dụng. Trên cơ
sở đó, ngân hàng sẽ kiểm tra, đánh giá, thẩm định tài sản và sẽ quyết định cho
vay. Thông thường thì giá trị khoản vay tối đa = 80% giá trị tài sản đảm bảo
và tùy từng loại tài sản thế chấp, ngân hàng sẽ cho vay với các tỷ lệ tương
ứng. Đồng thời ngân hàng sẽ giám sát việc sử dụng hoăc khả năng bảo đảm
tài sản.
 Cho vay không cần tài sản đảm bảo: hình thức này thường áp dụng đối
với khách hàng quen thuộc, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh, ít xảy
ra tình trạng nợ nần hoặc món vay tương đối nhỏ so với vốn của người vay.
Đôi khi ngân hàng cho vay theo chỉ thị của Chính phủ thì không cần tài sản
đảm bảo bởi có sự bảo lãnh của Chính phủ. Đối với các công ty lớn, hoặc
những khoản vay ngắn hạn mà ngân hàng có khả năng giám sát tốt thì cũng có
thể không cần tài sản đảm bảo.
1.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với DNVVN của
NHTM.
1.2.3.1. Các nhân tố khách quan.
 Tình hình kinh tế- xã hội
Các chủ thể tiến hành hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế. Trình độ
phát triển kinh tế - xã hội có ảnh hưởng tới hoạt động cũng như sự phát triển
của mọi thành phần kinh tế, trong đó có DNVVN. Trình độ càng cao thì giới
hạn tiêu thức phân loại ngày càng được nâng lên. Điều đó có nghĩa là các
21
DNVVN sẽ có điều kiện phát triển nhiều hơn, có sự liên kết chặt chẽ hơn
không chỉ với chính các DNVVN mà còn với cả các doanh nghiệp lớn. Tuy
nhiên, sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp cũng trở nên gay gắt hơn. Nhưng
chính điều đó tạo động lực buộc các DNVVN phải tự đổi mới mình, phải
nâng cao năng lực hoạt động về mọi mặt. Từ đó, các DNVVN sẽ phát triển ổn
định hơn, có phương hướng rõ ràng hơn, vững bền hơn. Đây là yếu tố quan
trọng để các DNVVN tiếp cận với nguồn tín dụng ngân hàng dễ dàng hơn.

ngừng phát triển, từng bước khẳng định vai trò và vị trí của mình trong nền
kinh tế. Nghị định 90 đã đưa ra hàng loạt các chính sách trợ giúp DNVVN
như khuyến khích đầu tư; thành lập quỹ bảo lãnh tín dụng DNVVN; chính
sách ưu đãi, hỗ trợ mặt bằng; trợ giúp thị trường và tăng khả năng cạnh tranh,
hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu; hỗ trợ về thông tin tư vấn và đào tạo nguồn nhân
lực. Tuy nhiên Nghị định vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu sự hợp tác giữa các cơ
quan ban ngành địa phương, cơ chế chính sách cũng chưa đồng bộ đã dẫn tới
hệ quả tất yếu là các DNVVN phải đối mặt với tình trạng thiếu vốn.
Ngoài ra, những quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng cũng gây
nhiều khó khăn cho các DNVVN. Chẳng hạn như những quy định về bảo đảm
tiền vay chủ yếu hỗ trợ các doanh nghiệp lớn hơn là hỗ trợ các doanh nghiệp
có quy mô nhỏ. Trong khi đó những doanh nghiệp lớn, thường là những
doanh nghiệp Nhà nước, đều có các cơ quan chủ quản hoặc Nhà nước bảo
lãnh vay vốn mà không cần tài sản thế chấp. Điều này ngược lại với các
DNVVN, đã khó vay vốn lại phải có tài sản bảo đảm.
Hiện nay, thị trường chứng khoán đã có những bước phát triển hơn, thu hút
được nhiều vốn trung và dài hạn cho các doanh nghiệp. Số lượng doanh
nghiệp được niêm yết ngày một nhiều hơn, huy động được nhiều vốn hơn,
tăng tính minh bạch và khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
23
số lượng DNVVN tham gia thị trường này còn rất hạn chế. Những điều kiện
và quy định liên quan để được niêm yết còn gây nhiều khó khăn cho các
doanh nghiệp này. Vì vậy, thị trường chứng khoán không phải là kênh thu hút
vốn hiệu quả và phổ biến đối với các DNVVN. Mà nguồn vốn chủ lực vẫn là
đi vay ngân hàng.
Tóm lại, để đảm bảo cho các DNVVN phát triển, môi trường pháp lý cần
được hoàn thiện đồng bộ và tăng cường tập trung khuyến khích DNVVN hơn
nữa.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan.
 Các nhân tố thuộc về DNVVN.

đảm bảo, có phương án vay vốn hiệu quả. Và ưu tiên nguyên tắc có phương
án vay vốn khả thi và hiệu quả. Nhưng trên thực tế, các ngân hàng vẫn ưu tiên
cho vay khi có tài sản bảo đảm cho mỗi một khoản vay. Nhiều doanh nghiệp
không có tài sản thế chấp, hoặc có tài sản thế chấp nhưng không được ngân
hàng chấp nhận hoặc ngân hàng cũng chỉ chấp nhận tối đa 70% giá trị tài sản
để làm thế chấp cho khoản vay. Mặt khác, các DNVVN cũng gặp rất nhiều
khó khăn trong việc xử lý các thủ tục như: đăng ký quyền sở hữu tài sản, khó
khăn trong việc xác định giá trị của tài sản thế chấp là bất động sản…
Thứ tư, trình độ quản trị kinh doanh của DNVVN còn yếu kém. Với đội
ngũ nhà lãnh đạo còn thiếu kiến thức về quản trị kinh doanh thì việc xây dựng
các phương án khả thi chưa có sức thuyết phục với ngân hàng. Do vậy, các
DNVVN sẽ không được ưu tiên vay vốn. Mà nếu có được vay thì chi phí mà
các doanh nghiệp phải bỏ ra để vay vốn cộng với lãi suất phải trả đôi khi cao
hơn khả năng sinh lời của phương án. Chính điều này làm các DNVVN có ý
định vay vốn nản lòng.
Thứ năm, nhiều doanh nghiệp lập ra nhưng chỉ trên danh nghĩa mà không
hoạt động kinh doanh. Các doanh nghiệp này có thể chiếm dụng vốn ngân
25

Trích đoạn Khái quát về Ngân hàng TMCP Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (VPBANK) Đánh giá hoạt động cho vay đối với DNVVN tại VPbank Định hướng phát triển DNVVN trong thời gian tới. Quan điểm chung Kế hoạch năm 2007.
Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status