Tài liệu Công bằng xã hội với các cơ hội phát triển của các nhóm dân cư ở một xã đồng bằng sông Hồng hiện nay - Pdf 10



Công bằng xã hội với các cơ hội
phát triển của các nhóm dân cư ở
một xã đồng bằng sông Hồng
hiện nay Học sinh Đặng Xá, Gia Lâm, Hà Nội trên đường đi học

1. Đặt vấn đề
Trong bản báo cáo phát triển thế giới 2006 với tiêu đề “Công
bằng và phát triển” của Ngân hàng Thế giới có đề cập đến sự bất
bình đẳng của hai trẻ em cùng sinh một ngày tại một vùng nông
thôn thuộc tỉnh Đông Cape (Nam Phi). Nthabiseng sinh ra trong
một gia đình nghèo, mẹ cô bé không được đi học chính thức. Còn
Pieter sinh ra trong một gia đình giàu có, mẹ của cậu tốt nghiệp
cao đẳng tại một trường Đại học gần đó. Khi chúng mới ra đời,
Nthabiseng và Pieter chẳng phải chịu trách nhiệm gì về hoàn
cảnh gia đình của mình (…) Nhưng số liệu thống kê thì vẫn coi
những biến số định trước về lý lịch đó sẽ tạo ra những khác biệt
lớn trong cuộc sống sau này của chúng. Mặc dù sinh ra ở cùng
thời gian và trong không gian như nhauN, nhưng Nthabiseng và
Pieter có cơ hội khác nhau trong cuộc sống. Nthabiseng có nguy
cơ tử vong trước khi tròn một tuổi cao hơn gấp đôi Pieter. Pieter
có thể dự kiến sống được 68 năm, còn Nthabiseng thì chỉ sống
đến 50 tuổi. Pieter có thể học hết 12 năm phổ thông, còn
Nthabiseng chỉ được đi học chưa đầy 1 năm. Nthabiseng nghèo
hơn Pieter rất nhiều. Lớn lên, cô rất ít cơ hội được tiếp cận nước
sạch và điều kiện vệ sinh, hoặc được học ở những trường tốt. Vì
thế, cơ hội dành cho hai đứa trẻ này để chúng có thể phát huy

862 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 565 ha. Xã có 10
thôn, trong đó có 9 thôn vốn là những làng cổ và một thôn mới
hình thành (từ năm 1995). 9 thôn là làng cổ có đầy đủ đình, chùa
và phong tục lễ hội riêng của mỗi làng. Yên Thường cách trung
tâm Hà Nội 15 km về phía Bắc, nơi chịu tác động mạnh mẽ của
quá trình đô thị hoá, công nghiệp hóa và là điểm giáp ranh với
nhiều làng nghề vùng Kinh Bắc: Ninh Hiệp, Đồng Kỵ, Đa Hội,
Đình Bảng (2).
Với lợi thế địa lý “cận lộ, cận thị”, đồng thời là cửa ngõ thủ đô
Hà Nội, Yên Thường có hai tuyến đường quốc gia chạy qua:
Quốc lộ 1A, đoạn đường từ Hà Nội xuyên qua địa phận xã đi Bắc
Ninh, Bắc Giang và đến biên giới Lạng Sơn. Quốc lộ 3 từ cầu
Đuống chạy qua đường vành đai xã về phía Thái Nguyên và các
tỉnh miền núi phía Bắc. Song song với tuyến đường bộ, hai tuyến
đường sắt quốc gia cũng đi qua địa bàn xã. Có thể nói, hệ thống
giao thông này đã tạo điều kiện cho các hộ gia đình trong xã phát
triển sản xuất - kinh doanh và giao lưu kinh tế, xã hội với các địa
phương khác trong cả nước. Yên Thường gần khu công nghiệp
Yên Viên, nơi tiếp nhận khá đông nhân lực lao động của xã vào
học nghề và làm công nhân viên. Nằm kề sát các làng nghề vùng
Kinh Bắc đã giúp Yên Thường quan hệ và tìm kiếm việc làm cho
số đông lao động nông nhàn của xã làm việc liên tục hay định kỳ.
Như vậy, những điều kiện trên đã tạo cơ hội thuận lợi cho Yên
Thường phát triển kinh tế và giao lưu với các vùng trong cả nước.
3. Công bằng xã hội với các cơ hội phát triển của các nhóm
dân cư
3.1. Cơ hội phát triển con người: tiếp cận giáo dục và chóm sóc
sức khỏe
Tiếp cận giáo dục
Sau hai mươi năm đổi mới, kinh tế - xã hội Yên Thường đã có

những hộ thuộc nhóm có mức thu nhập từ trung bình trở lên mới
đề cập nhiều đến thông tin về khoản chi phí giáo dục. Nhóm hộ
nghèo thì khoản chi tiêu giáo dục hầu như không được kể đến.
Mặc dù con cái vẫn đang ở tuổi học, song vì điều kiện kinh tế,
nên cha mẹ buộc phải cho con nghỉ học sớm, tham gia lao động
hỗ trợ gia đình. Các con số dưới đây sẽ giúp chúng ta hình dung
những khó khăn của họ.

- Tiểu học: Học phí 240.000đ (cả tiền ăn trưa và học phí); học
thêm (2 môn)* 240.000đ/tháng; Hội phụ huynh học sinh
50.000đ/năm, Bảo hiểm thân thể: 100.000đ/năm.
- Trung học cơ sở: Học phí 90.000đ/tháng, học thêm
40.000đ/tháng (3 môn toán, văn, ngoại ngữ), Tiền xây dựng
trường 25.000đ, Hội phụ huynh học sinh 30.000đ/năm, Bảo hiểm
y tế 100.000đ/năm, Bảo hiểm thân thể 90.000đ/năm.
- Phổ thông trung học: Học phí 35.000đ/tháng, cộng thêm
30.000đ/tháng thu tăng cường, Xây dựng trường 50.000đ/năm,
Quỹ hội phụ huynh 50.000đ/năm, Quỹ hội cha mẹ của lớp
50.000đ. tiền hồ sơ 50.000đ/năm, Xây dựng nhà thể chất
50.000đ/năm, tiền bảo trì máy tính của trường 10.000đ/tháng,
tiền học thêm các môn chính 200.000đ/tháng.
- Học Cao đẳng, đại học: Học phí 250.000đ/1tháng, thuê nhà trọ:
250.000 đ/tháng, tiền ăn 1.000.000đ/tháng.
Với mức chi trên, các hộ thuộc nhóm nghèo có thu nhập bình
quân đầu người trên 3 triệu /năm thì việc cho con cái theo học ở
cấp I, II là một vấn đề khó khăn. Nếu hộ có 6 sào ruộng, năng
suất một vụ 1, 7 t ạ/sào, họ thu được trên 1 tấn thóc /năm và
khoản chi phí giáo dục chiếm từ 40 đến 50% tổng thu bằng thóc
của hộ gia đình. Từ cấp phổ thông trung học trở lên, chi phí học
chính thức chưa nhiều hơn cấp phổ thông cơ sở. Nhưng để theo

dám dùng thực phẩm loại 2. Nhóm hộ trung bình, mức chi cho ăn
uống hàng ngày có chỉ số từ 7.000đ đến 10.000đ/ người /ngày.
Mặc dù kinh tế không còn khó khăn nhưng thịt, cá vẫn chưa thể
là món thường xuyên trong bữa ăn hàng ngày của họ. Nhóm hộ
gia đình khá giả có chỉ số chi tiêu cao nhất khoảng 30.000đ người
/ngày và thịt, cá trở thành món ăn bình thường đối với họ. Ba chỉ
số trên thể hiện ba mức ăn uống cơ bản. Một là mức ăn mới đảm
bảo phần lương thực hay chất bột, trong khi thực phẩm có chất
dinh dưỡng mới dừng lại ở mức thỉnh thoảng. Hai là mức ăn vừa
bảo đảm phần lương thực, vừa bảo đảm nhu cầu về chất đạm,
chất béo. Ba là mức ăn uống vừa đầy đủ dinh dưỡng vừa phong
phú về hương vị, có thể thoả mãn nhu cầu ẩm thực của con người
(4).
Việc mở rộng và nâng cấp hệ thống chăm sóc sức khỏe cho người
dân, bao gồm bệnh viện của Nhà nước và cơ sở khám chữa bệnh
tư nhân ở Yên Thường và các khu vực lân cận đã tạo nhiều cơ hội
cho người dân đến kiểm tra sức khỏe và điều trị bệnh tật. Tuy
nhiên, cơ chế khám, điều trị bệnh hiện nay đang có nhiều ảnh
hưởng tới thái độ và hành vi khám chữa bệnh, hay nói cách khác
là ảnh hưởng tới khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ
của các nhóm xã hội. Quan sát cho thấy hành vi chăm sóc sức
khỏe của các nhóm xã hội ở Yên Thường là hoàn toàn khác nhau,
chủ yếu xuất phát từ điều kiện kinh tế và khả năng chi trả của mỗi
hộ gia đình. Nhóm hộ khá giả và giàu quan tâm nhiều đến việc
chăm sóc sức khỏe, họ thường đi kiểm tra sức khỏe định kỳ. Nếu
bị bệnh, họ có khả năng đến thẳng tuyến bệnh viện cấp trung
ương để điều trị, mua được và sử dụng các loại thuốc đặc trị; hơn
nữa, họ còn có điều kiện mua sắm dụng cụ y tế như tủ thuốc gia
đình, máy đo tim, huyết áp, máy xoa bóp hỗ trợ sức khỏe. Trong
khi đó, nhóm trung bình và nghèo ít quan tâm đến sức khỏe,

khỏe chất lượng cao vẫn còn hạn chế.
3.2. Cơ hội phát triển sản xuất và vay vốn phát triển sản xuất
Sự chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế
thị trường đã tạo điều kiện cho cộng đồng nông thôn Yên Thường
phát triển kinh tế. Cơ chế, chính sách mới không chỉ tạo ra môi
trường phát triển đa dạng, mà còn tạo cơ hội bình đẳng cho cá
nhân, hộ gia đình trong phát triển kinh tế. Trong những năm qua,
các cá nhân, nhóm hộ đều hưởng một cơ chế chính sách xã hội
như nhau, nhưng thực tiễn cho thấy, khả năng tiếp cận cơ hội
phát triển kinh tế của cá nhân và các nhóm xã hội hoàn toàn khác
nhau. Lý do của khác biệt này được nhiều nghiên cứu nhìn nhận
là do các khác biệt trình độ học vấn, vốn, quan hệ xã hội (6) v.v
Kết quả nghiên cứu ở Yên Thường năm 2002 cũng cho thấy rất
rõ năng lực và khả năng tiếp cận cơ hội phát triển kinh tế của các
nhóm hộ: Hộ gia đình có quy mô sản xuất lớn: Số hộ gia đình
được xếp vào nhóm có quy mô sản xuất lớn chiếm trên 10% tại
xã Yên Thường. Đây là nhóm chủ hộ có học vấn cao, biết tính
toán, biết tận dụng nguồn lao động trong gia đình để phát triển
kinh tế. Họ luôn là những hộ đi đầu trong việc tiếp thu và triển
khai ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất nông nghiệp, có
kinh nghiệm sản xuất và trình độ nắm bắt kỹ thuật rất tốt. Khi
ứng dụng kỹ thuật, họ thường chú ý đến từng công đoạn một cách
tỉ mỉ, từ công đoạn làm mạ, làm đất, gieo cấy, chăm sóc và triển
khai quy trình như một cán bộ kỹ thuật nông nghiệp thực thụ,
được áp dụng một cánh chính xác. Trong chăn nuôi, họ quan tâm
từ chuồng trại, tiêm phòng dịch, cơ cấu thức ăn, thời gian xuất
chuồng Họ cũng thường xuyên thay giống để tránh sự thoái hoá
và lẫn giống, biết phân tích các kỳ sinh trưởng của vật nuôi, cây
trồng để áp dụng các biện pháp kỹ thuật một cách chính xác và
hiệu quả. Sự hiểu biết này đã giúp năng suất tăng. Khả năng về

tính năng động của các hộ gia đình này dẫn đến tính phụ thuộc
vào thị trường, chưa nhạy bén, chủ động trong tiếp cận kỹ thuật
mới và tìm nơi tiêu thụ sản phẩm. Họ cũng biết đưa giống cây,
con và quy trình kỹ thuật vào sản xuất, song do chưa am hiểu sâu
nên sản xuất chưa thực sự hiệu quả, nên chưa kích thích họ mở
rộng quy mô sản xuất. Quan niệm của họ trong làm kinh tế là
phải ổn định và an toàn. Họ cũng có xu hướng tìm việc làm thuê
cho nhóm hộ 1 và làm các nghề phụ như thợ xây, thợ nề, thợ sắt,
hay kinh doanh buôn bán nhỏ.******
Những hộ gia đình được đánh giá là có quy mô sản xuất nhỏ và
mức thu nhập thấp nhất, chiếm khoảng 14% tổng số hộ gia đình
trên toàn xã. Tìm hiểu và phân tích điều kiện sản xuất của các gia
đình thuộc nhóm này, chúng tôi thấy họ không đơn giản là chỉ
thua kém về trình độ học vấn, vốn, hay quan hệ xã hội so với 2
nhóm trên, mà họ còn yếu về sức khoẻ và khả năng lao động.
Nhiều hộ gia đình chủ hộ đều ở tuổi từ 50 trở lên, một số gia đình
trẻ thì có chồng hoặc vợ bị tàn tật, con cái còn nhỏ, không có khả
năng lao động.
Những dẫn chứng trên cho thấy, cơ chế chính sách mới đã tạo
nhiều cơ hội phát triển kinh tế cho người dân Yên Thường. Tuy
nhiên, khả năng tiếp cận của các nhóm hộ là rất khác nhau. Một
nhóm nhỏ nông dân, do có điều kiện về học vấn, vốn, quan hệ xã
hội và tính năng động xã hội đã tiếp nhận kỹ thuật mới và ứng
dụng nó vào hoạt động sản xuất của hộ mình. Sự tiếp nhận đó đã
dẫn đến sự thay đổi về nhận thức, hành vi sản xuất. Vấn đề lại
diễn ra ngược lại đối với phần đông các hộ gia đình nhóm hộ
trung bình, đặc biệt là nhóm nghèo, do thiếu trình độ học vấn,
vốn, quan hệ và tính năng động xã hội, nên không có nhiều cơ
hội tiếp cận với tiến bộ kỹ thuật, do vậy, nhận thức và hành vi sản
xuất của hộ gia đình chưa thay đổi. Cách thức sản xuất còn mang

nhóm hộ giàu và khá giả, mặc dù đã có nguồn vốn lớn nhưng họ
vẫn có nhiều cơ hội tiếp cận dịch vụ vay vốn ngân hàng. Hộ
nghèo chưa tiếp cận được với nguồn vốn ngân hàng do nhiều lý
do, trong đó, ngoài khả năng chi trả hoàn vốn còn có vấn đề liên
quan đến quan hệ xã hội của người vay với hệ thống chính quyền
và ngân hàng, điều này hộ nghèo không có.
4. Một số nhận xét
Những dẫn chứng minh họa và phân tích trên cho thấy bức tranh
về sự tham gia và khả năng tiếp cận các cơ hội phát triển, hòa
nhập đời sống xã hội của các cá nhân và nhóm hộ gia đình ở một
xã nông thôn đồng bằng sông Hồng thời kỳ sau đổi mới. Cơ chế,
chính sách, thiết chế xã hội mới đang có tác động đến diện mạo
kinh tế - xã hội nông thôn, làm thay đổi mọi mặt đời sống của cá
nhân, nhóm hộ gia đình. Tuy nhiên, cơ chế, chính sách* xã hội
mới này đã và đang tạo ra sự chênh lệch khoảng cách xã hội mới
giữa các cá nhân, nhóm hộ gia đình trong việc tiếp cận đến hệ
thống dịch vụ xã hội, phát triển kinh tế của các cá nhân, hộ gia
đình.**
- Về giáo dục: Mặc dù trong những năm qua, Nhà nước đã có
nhiều hỗ trợ và ưu tiên cho các nhóm xã hội yếu thế, nhóm
nghèo, nhưng trên thực tế, con cái của nhóm hộ nông dân mức
sống nghèo, trung bình ở Yên Thường chưa thể tiếp cận đến hệ
thống giáo dục. Rõ ràng là hệ thống giáo dục hiện nay mới chỉ
tạo cơ hội tốt cho các nhóm xã hội có ưu thế, gia đình mức sống
khá giả, giàu.
- Về chăm sóc sức khỏe: Đời sống vật chất ở Yên Thường đã có
nhiều thay đổi, người dân đã chú ý cải thiện chất lượng bữa ăn
hàng ngày và được hưởng hệ thống dịch vụ khám chữa bệnh có
chất lượng cao. Tuy nhiên, chỉ nhóm giàu và khá giả mới cải
thiện tốt bữa ăn, tiếp cận đến hệ thống chăm sóc sức khỏe mới

Nxb. Chính trị quốc gia; Phạm Liên Kết, Nguyễn Đức Chiện,
Trưởng thôn và việc giải quyết mối quan hệ giữa phép nước và lệ
làng (Nghiên cứu trường hợp tại một cộng đồng dân cư thuộc
nông thôn Bắc Bộ). Đề tài tiềm năng Viện Xã hội học năm 2003.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 155-thang-10-
2009 ngày 10/10/2009) ThS. Nguyễn Đức Chiện - Viện Xã hội
học.


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status