Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Kon Tum - Pdf 10



1 Luận văn
Những giải pháp hỗ trợ của Nhà nước
nhằm phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn tỉnh Kon Tum 2

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hiện nay, một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất của Đảng, Nhà
nước cũng như của các chính quyền địa phương là phát triển kinh tế và giải
quyết việc làm cho người dân. Muốn phát triển kinh tế và tạo việc làm thì
phải huy động được vốn, phát triển hệ thống doanh nghiệp. Trong điều kiện
hiện nay, giữ vai trò quyết định là vốn trong nước, trong đó nguồn vốn quan
trọng là từ nhân dân.
Làm thế nào thu hút được vốn đầu tư trong nước từ nhân dân để phát
triển kinh tế và tạo việc làm là đề tài đã được nhiều người nghiên cứu. Nhiều
chính sách của Nhà nước cũng đã được ban hành để giải quyết hai vấn đề
trên, song kết quả còn nhiều hạn chế. Số vốn trong nước huy động được, số
doanh nghiệp được thành lập, số việc làm đã được tạo ra tuy ngày càng nhiều
nhưng vẫn bất cập so với khả năng tiềm tàng trong dân cư, so với yêu cầu phát
triển của đất nước và nhu cầu việc làm ngày càng tăng của người lao động.

từ lâu và đã được các chính phủ ứng dụng thành công trong việc phát triển
kinh tế xã hội của nước mình. Ở Việt Nam, thời gian gần đây (trong thời kỳ
đổi mới) vấn đề này mới được quan tâm đúng mức. Đã có những công trình
nghiên cứu về mặt lý luận, về mặt tổng kết và cũng có những công trình
nghiên cứu cụ thể về vấn đề này ở các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng,
Hồ Chí Minh, Bình Dương Tuy nhiên trước tình hình phát triển mới của đất
nước, trước sự thay đổi nhanh chóng của cơ chế quản lý và chính sách phát
triển, luôn đòi hỏi phải nghiên cứu cập nhật các vấn đề về chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đối với Kon Tum, chưa có công trình nào nghiên
cứu về đề tài này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa lý luận các vấn đề liên quan đến doanh nghiệp nhỏ và vừa
và vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa đối với sự phát triển kinh tế- xã hội
của một địa phương.
- Đánh giá đúng thực trạng và nêu ra được những hạn chế, những nguyên
nhân cản trở việc thành lập và phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa
bàn tỉnh Kon Tum. 4

- Luận chứng, đề xuất những giải pháp chủ yếu và kiến nghị với Trung
ương, với tỉnh về cơ chế, chính sách chung và những biện pháp của tỉnh để có
thể hỗ trợ một cách có hiệu quả nhất cho sự ra đời và phát triển các doanh
nghiệp nhỏ và vừa của tỉnh Kon Tum trong những năm tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là các biện pháp chính sách của Nhà
nước cấp tỉnh. Đối tượng khảo sát là các doanh nghiệp nhỏ và vừa và những
khó khăn, vướng mắc của nó trên địa bàn tỉnh Kon Tum.

và vừa trên địa bàn nhằm phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập của người dân
trên địa bàn.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có kết cấu 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Doanh nghiệp nhỏ và vừa - sự cần thiết hỗ trợ của Nhà nước
đối với sự phát triển của doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Chương 2: Thực trạng phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa và những giải
pháp hỗ trợ của Nhà nước trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian qua.
Chương 3: Những giải pháp hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa
trên địa bàn tỉnh Kon Tum trong thời gian tới. 6

Chương 1
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA - SỰ CẦN THIẾT HỖ TRỢ
CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN
CỦA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA

1.1. KHÁI NIỆM, VAI TRÒ, ĐẶC ĐIỂM DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa
Trong nền kinh tế thị trường, bất cứ một hoạt động hợp pháp nào trong
sản xuất kinh doanh, tạo ra sản phẩm hoặc dịch vụ để bán, cung ứng cho
khách hàng và thu lợi nhuận, dù hoạt động đó chỉ là của một cá nhân, một hộ
gia đình, đều có thể được coi là một doanh nghiệp (DN). Cùng cách hiểu này,
Viện Thống kê và nghiên cứu kinh tế Pháp định nghĩa: "DN là một tổ chức
kinh tế mà chức năng chính của nó là sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ
để bán" [2]. Ở nước ta, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng đã nêu rõ: "Doanh
nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định,

thống nhất, mặc dù ai cũng thống nhất rằng kinh doanh nhỏ và vừa thì khối
lượng công việc ít hơn, đơn giản hơn là kinh doanh ở các DN lớn.
Hiện nay, không có một tiêu chuẩn chung cho việc phân định ranh giới
quy mô DN ở các nước. Ở mỗi nước, tùy theo điều kiện và hoàn cảnh phát triển
kinh tế cụ thể mà có cách xác định quy mô DN trong từng giai đoạn nhất định.
Bảng 1.1 dưới đây cho thấy tình hình này.
Bảng 1.1: Tiêu thức phân loại DNNVV của một số nước:
Lĩnh vực

Các nước
Công nghiệp Thương mại - Dịch vụ
DN vừa DN nhỏ DN vừa DN nhỏ
M



ới 3,5 triệu USD

Dưới 500 lao động


ới 3,5 triệu USD

Dưới 500 lao động

Nh
ật bản


ới 100 triệu Y

ệu DM

10-<500 lao động

ới 1 triệu DM

Dưới 9 lao động
Philippin

15
-
60 tri
ệu Peso

Không quy định lđ
< 15 tri
ệu Peso

Không q/định lđ
15
-
60 tri
ệu Peso

Không quy định lđ
< 15 tri
ệu Peso

Không q/định lđ
Đài Loan

và tiêu chuẩn cụ thể khác nhau để phân loại DNNVV. Có thể kể ra các cách
phân loại tiêu biểu sau:
- Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) căn cứ vào 2
tiêu chí lao động và vốn của các ngành để phân biệt:
+ Trong ngành công nghiệp: DNNVV là tổ chức kinh tế có số vốn từ 5
- 10 tỷ đồng và có số lao động 200-500 người. Trong đó DN nhỏ có số vốn
dưới 5 tỷ đồng và có số lao động nhỏ hơn 200 người.
+ Trong ngành thương mại- dịch vụ: DNNVV là tổ chức có số vốn từ
5-10 tỷ đồng và có số lao động từ 50-100 người.
- Ngân hàng Công thương hoạt động cho vay tín dụng đối với các DN quy
định rằng: DN vừa là DN có vốn từ 5-10 tỷ đồng và số lao động từ 500-1000
người, DN nhỏ là DN có vốn dưới 5 tỷ đồng và lao động dưới 500 người [23];
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, trong lĩnh vực sản xuất, xây dựng,
DN có vốn dưới 1 tỷ đồng và dưới 100 lao động được xếp là DN nhỏ, DN có
vốn từ 1-10 tỷ đồng và có từ 100-500 lao động là DN vừa. Trong lĩnh vực
thương mại-dịch vụ, DN có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ đồng, lao động từ 50-
250 người là DN vừa… 9

Tóm lại, người ta thường dùng 2 tiêu chí về vốn đăng ký và số lao động
thường xuyên để xác định DNNVV vì tất cả các DN đều có thể xác định được
2 tiêu chí này. Riêng tiêu thức doanh thu ít được sử dụng vì đối với các nước
đang phát triển, đặc biệt là Việt Nam thì tiêu chí này có thể biến động do
nhiều yếu tố và cũng khó xác định.
Để thống nhất tiêu chí xác định DNNVV, ngày 20/6/1998, Chính phủ
đã ban hành công văn số 681/CP-KTN quy định tiêu chí tạm thời xác định các
DNNVV. Theo quy định này, DNNVV là các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ
đồng và có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Quy định tạm

trong một DNNVV không nhiều nhưng theo quy luật số đông, với số lượng
rất lớn DNNVV trong nền kinh tế đã tạo ra phần lớn việc làm cho xã hội. Mặt
khác, các DN loại này mang tính tư hữu cao, dễ dàng đa dạng hóa sản phẩm,
kể cả các mặt hàng mà các DN lớn không sản xuất. Sự lớn mạnh của các
DNNVV đã làm tăng thu nhập của công nhân và giảm tỷ lệ thất nghiệp của
mỗi địa phương nói riêng và toàn lãnh thổ nói chung.
DNNVV không chỉ trực tiếp tạo việc làm cho số lao động làm việc
thường xuyên ở các DN, mà còn tạo điều kiện để lao động ngoài DN có được
việc làm thông qua các hoạt động cung ứng đầu vào, tiếp nhận đầu ra và phục
vụ sản xuất - kinh doanh. Xét trên góc độ giải quyết việc làm thì DNNVV
luôn đóng vai trò quan trọng hơn các DN lớn, đặc biệt trong thời kỳ suy thoái
kinh tế. Lịch sử phát triển kinh tế của các nước công nghiệp phát triển cũng
như ở Việt Nam trong thời kỳ đầu đổi mới đã cho thấy rằng: khi nền kinh tế
suy thoái, các DN lớn phải giảm lao động để giảm chi phí đến mức có thể tồn
tại được vì cầu của thị trường thấp hơn cung. Nhưng đối với các DNNVV do
đặc tính linh hoạt, uyển chuyển dễ thích ứng với thay đổi của thị trường nên
nó vẫn có thể hoạt động được. Do đó, các DNNVV không những không giảm
lao động mà còn có thể thu hút thêm lao động. Chính vì vậy, Hội đồng DN
nhỏ thế giới đã cho rằng: DNNVV là liều thuốc cuối cùng chữa trị bệnh thất
nghiệp khi nền kinh tế suy thoái [2]; [9].
Ở Việt Nam hiện nay, tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và không ổn định,
sức ép dân số, lao động, việc làm ở nông thôn chính là nguyên nhân của dòng
di dân từ nông thôn ra thành phố, gây ra nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Khu 11
vực DNNVV thuộc các thành phần kinh tế hiện thu hút khoảng 26% lực
lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước, nhưng triển vọng thu hút lao
động rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm việc ở đây thấp hơn rất nhiều so
với DN lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn rải rác

Với quy mô nhỏ và vừa, lại được thành lập phân tán ở hầu khắp các địa
phương, các khu vực, nên DNNVV có khả năng tận dụng các tiềm năng về
lao động, về nguyên vật liệu với trữ lượng hạn chế, không đáp ứng nhu cầu
sản xuất quy mô lớn, nhưng sẵn có ở địa phương, sử dụng sản phẩm phụ hoặc
phế liệu, phế phẩm của các DN lớn.
Thứ ba, các DNNVV chiếm tỷ trọng cao trong tổng số các cơ sở SX-KD
và ngày càng gia tăng mạnh, tạo hiệu quả trong sản xuất thầu phụ.
Phần lớn các nước trên thế giới, số lượng các DNNVV chiếm khoảng
90% tổng số doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng số lượng các DNNVV nhanh hơn
số lượng các DN lớn. Các DNNVV hoạt động phổ biến trong tất cả các ngành
công nghiệp, dịch vụ, từ công nghiệp thủ công truyền thống đến các ngành
công nghiệp kỹ thuật cao, tạo khả năng gia công, thầu phụ cho các doanh
nghiệp lớn.
Thứ tư, các DNNVV có vai trò quan trọng trong sự tăng trưởng của nền
kinh tế.
Chúng góp phần quan trọng vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các
nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 50% GDP ở mỗi nước. Riêng ở
Việt Nam, nếu chỉ tính các DN chính thức, mỗi năm các DNNVV đóng góp
khoảng 25% GDP của cả nước. Các DN này có nhiều thuận lợi trong việc
khai thác những tiềm năng phong phú trong dân… Nhiều sản phẩm thủ công
mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, một số đã
được xuất khẩu, được nước ngoài đánh giá cao. Nhiều ngành nghề truyền
thống đã được khôi phục và phát triển trong từng hộ gia đình, từng dòng họ,
hình thành tập trung trong các làng nghề, phát huy truyền thống dòng họ, làng
xã đặc trưng của nông thôn nước ta.
Thứ năm, các DNNVV là nhân tố tạo sự năng động nền kinh tế trong cơ
chế thị trường, đóng góp quan trọng trong việc làm tăng lưu thông và xuất
khẩu hàng hóa:
Do lợi thế của quy mô nhỏ là năng động, linh hoạt, sáng tạo trong kinh
doanh cùng với hình thức tổ chức kinh doanh, sự kết hợp chuyên môn hóa và

của các DNNVV góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng,
mặt khác huy động được nguồn sức lao động lớn trong xã hội vào hoạt động
sản xuất theo quy trình phân công lao động xã hội. 14
Tự do kinh doanh là con đường tốt nhất để phát huy tiềm lực. Một quốc
gia muốn tạo nên các DNNVV đều phải có môi trường tự do cạnh tranh. Các
DN lớn thường cần những thị trường lớn, thường đòi hỏi phải có sự bảo hộ
của chính phủ và có xu hướng độc quyền. Còn ở DNNVV, tình trạng độc
quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do kinh doanh. So với các DN
lớn, các DNNVV có tính tự chủ cao, không ỷ lại vào sự trợ cấp, bảo hộ của
Nhà nước, sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển.
Thứ tám, các DNNVV là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp.
Các DNNVV góp phần đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện một đội ngũ
doanh nhân, ươm mầm các tài năng kinh doanh. Kinh doanh quy mô nhỏ sẽ là
nơi đào tạo, rèn luyện các nhà DN làm quen với môi trường kinh doanh. Bắt
đầu từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh quy
mô vừa và nhỏ, một số nhà DN sẽ trưởng thành lên thành những nhà DN lớn,
tài ba, biết đưa DN của mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh
sẽ được ươm mầm từ trong các DNNVV
1.1.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa (những ưu thế và hạn chế)
Những ưu thế:
Trong nền kinh tế thị trường, mỗi loại hình DN có những ưu thế và hạn
chế riêng. Có thể thấy các DNNVV có những ưu thế chủ yếu sau đây:
- Năng động, nhạy bén và dễ thích ứng với sự thay đổi của thị trường:
Đây là một ưu thế nổi trội của DNNVV. Do có mối liên hệ trực tiếp với thị
trường và người tiêu thụ nên DNNVV có thể phản ứng nhanh nhạy với những
biến động của thị trường. Với cơ sở vật chất kỹ thuật không lớn, DNNVV dễ
dàng chuyển đổi sản xuất, chuyển hướng kinh doanh, tăng giảm lao động

nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại.
- Các DNNVV dễ dàng và nhanh chóng đổi mới thiết bị công nghệ,
thích ứng với cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại.
- DNNVV chỉ cần số vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao, thu hồi vốn nhanh.
- Hệ thống tổ chức SX và quản lý ở các DNNVV gọn nhẹ, linh hoạt,
công tác điều hành mang tính trực tiếp. Qua đó góp phần tiết kiệm chi phí
quản lý DN. 16
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các DNNVV có ảnh hưởng rất ít hoặc
không gây nên khủng hoảng kinh tế-xã hội, đồng thời ít chịu ảnh hưởng bởi
các cuộc khủng hoảng kinh tế dây chuyền [9]; [14].
Những hạn chế của DNNVV:
Bên cạnh những ưu thế quan trọng, các DNNVV cũng có những hạn chế
so với DN lớn:
- Nguồn vốn tài chính hạn chế, đặc biệt là nguồn vốn tự có cũng như bổ
sung để thực hiện quá trình tích tụ, tập trung nhằm duy trì hoặc mở rộng SX
kinh doanh. Các DNNVV cũng rất khó khăn và ít có khả năng tiếp cận được
các nguồn vốn trên thị trường.
- Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ thường yếu kém, lạc
hậu. Nhà xưởng, nơi làm việc trực tiếp và trụ sở giao dịch, quản lý của đa
phần của các DNNVV rất chật hẹp.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các DNNVV bị hạn chế rất nhiều.
- Trình độ quản lý ở các DNNVV hạn chế. Đa số các chủ DN chưa được
đào tạo cơ bản, đặc biệt những kiến thức về kinh tế thị trường, về quản trị
kinh doanh, họ quản lý bằng kinh nghiệm, thực tiễn là chủ yếu.
- Bất lợi trong việc mua nguyên vật liệu, máy móc thiết bị và tiêu thụ sản
phẩm. Do quy mô không lớn, khả năng tài chính có hạn nên các DN nhỏ
thường mua hàng với số lượng nhỏ, do đó các DNNVV thường không được

lâu dài, được phép kinh doanh các hàng hoá dịch vụ mà Nhà nước không
cấm. Tiếp theo đó là một loạt các văn kiện ra đời như: Nghị quyết 16 của
Bộ Chính trị (1988), Nghị định 27,28,29/HĐBT năm 1988 về kinh tế cá
thể, kinh tế hợp tác và hộ gia đình. Nghị định 66/HĐBT và gần đây là Nghị
định 02/CP về nhóm kinh doanh dưới vốn pháp định, các bộ luật như: Luật
Doanh nghiệp tư nhân, Luật Công ty, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp
nhà nước, Luật Khuyến khích đầu tư trong nước, Luật Đầu tư nước ngoài
tại Việt Nam và gần đây là Luật Doanh nghiệp 2005. Tất cả các văn bản
pháp lý đó đã tạo cơ sở pháp lý và khuyến khích các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế phát triển SX-KD và các DNNVV được quan tâm
khuyến khích phát triển.
Nhà nước có chức năng làm tốt các công việc sau đây: 18
- Xây dựng định hướng chiến lược phát triển các loại DNNVV ở Việt
Nam trong từng thời kỳ, gắn chặt với các quy hoạch tổng thể và quy hoạch cụ
thể về phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân nói chung, từng ngành,
từng lãnh vực, từng lãnh thổ nói riêng.
- Xây dựng và ban hành các cơ chế, chính sách, biện pháp cụ thể nhằm
khuyến khích, hỗ trợ, phát triển các DNNVV phù hợp với định hướng mục
tiêu phát triển trong từng giai đoạn và phù hợp với dặc điểm của từng doanh
nghiệp với quy mô vừa và nhỏ của từng ngành, từng lãnh vực và ở từng địa
bàn lãnh thổ. Đặc biệt chú ý khuyến khích phát triển các DNNVV trong khu
vực nông nghiệp nông thôn, đồng thời khuyến khích phát triển các loại hình
DNNVV trong một số ngành nghề truyền thống, có khả năng sản xuất các chi
tiết của từng bộ phận thuộc các loại thiết bị, máy móc tiên tiến hiện đại …Kể
cả việc phát triển trong các lĩnh vực công nghiệp,thương mại và các ngành
dịch vụ…
- Xây dựng và ban hành các quy chế về các lãnh vực hoạt động hỗ trợ

hành pháp luật trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của các DNNVV trong
từng ngành, từng lĩnh vực cũng như các quy chế về thưởng, phạt một cách
công bằng, nghiêm minh đối với quá trình hoạt động của DNNVV theo hướng
đơn giản hoá dăng ký kinh doanh ngành nghề, nghiêm túc hậu kiểm.
- Theo dõi nắm tình hình, tổng hợp tình hình hoạt động của các DNNVV
trong phạm vi cả nước, từng ngành hoặc từng vùng lãnh thổ để chỉ đạo và báo
cáo lên cấp trên theo định kỳ những thuận kợi, khó khăn, vướng mắc cần tháo
gỡ, phát hiện những nhân tố mới, những điển hình tiên tiến để rút kinh
nghiệm chỉ đạo chung cũng như những tiêu cực trong hoạt động sản xuất kinh
doanh của DNNVV.
Hiện nay, các chính sách khuyến khích DNNVV của Chính phủ tập trung
vào hai vấn đề:
Một là, không ngừng cải thiện môi trường kinh doanh, tạo điều kiện
thuận lợi để cho các DNNVV hoạt động.
Hai là, hình thành và phát triển cơ chế hỗ trợ thống nhất từ Trung ương
đến địa phương nhằm cung cấp các dịch vụ hỗ trợ DNNVV phát triển.
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực mà khởi điểm từ Thái
Lan đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến các khu vực kinh tế châu Á. Chính phủ đã 20
thực hiện nhiều biện pháp để tiếp tục giữ vững sự ổn định của kinh tế trong
nước, bắt đầu là sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, sửa đổi Luật
Khuyến khích đầu tư trong nước, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp năm 1999 có
hiệu lực từ 1/1/2000 theo hướng mở rộng thị trường, cho phép thành lập các
doanh nghiệp tư nhân dễ dàng hơn, thời gian được rút ngắn hơn. Cơ cấu thành
phần kinh tế từ đó đã có sự thay đổi, tỷ trọng các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh tăng lên.
Từ khi Luật Doanh nghiệp được ban hành cho đến nay, Chính phủ và các
bộ, ngành đã ban hành hơn 100 văn bản hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp,

bảo lãnh cho các DNNVV khi họ không đủ tài sản thế chấp, giúp doanh
nghiệp tháo gỡ một phần khó khăn về vốn. Đây là loại quỹ do cộng đồng ngân
hàng và DNVVN cùng góp vốn lập nên nhằm chia sẻ rủi ro với ngân hàng khi
cho vay vốn tín dụng và giúp doanh nghiệp thực hiện các dự án kinh doanh có
hiệu quả.
Bộ Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Quyết định số 193/2001/QĐ-
TTg ngày 20/12/2001 về viêc ban hành quy chế thành lập, tổ chức và hoạt
động các quỹ Bảo lãnh tín dụng DNNVV. Bộ Tài chính ban hành Thông tư số
42/2002/TT-BTC ngày 7/5/2002 hướng dẫn một số điểm để thực hiện Quyết
định 193. Tuy nhiên, do một số quy định trong văn bản trên chưa phù hợp với
thực tế và khó khả thi nên việc thành lập quỹ Bảo lãnh tín dụng không triển
khai được. Để khắc phục vướng mắc này, Bộ Tài chính đã trình Thủ tướng
Chính phủ ban hành Quyết định số 115/QĐ-TTg ngày 25/6/2004 sửa đổi, bổ
sung Quyết định số 193/2001/TTg và theo quyết định này thì vốn điều lệ và
điều hành quỹ đã được quy định phù hợp hơn với thực tế.
- Bộ kế hoạch và Đầu tư đã thành lập Cục Phát triển DNNVV, có chức
năng giúp Bộ trưởng Bộ Kế hoạch đầu tư quản lý nhà nước về xúc tiến phát
triển DNNVV, là đầu mối phối hợp các bộ ngành Trung ương và địa phương,
các hiệp hội doanh nghiệp nhằm trợ giúp DNNVV
- Để trợ giúp về công nghệ cho DNNVV, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã ban
hành Quyết định số 290/QĐ-BKH ngày 12/5/2003, thành lập 3 trung tâm hỗ
trợ tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, các trung tâm là đầu mối 22
tư vấn về công nghệ kỹ thuật, cải tiến trang bị, hướng dẫn quản lý, bảo dưỡng
trang bị, tạo điều kiện cho DNNVV tiếp cận trang bị mới.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số
143/2004/QĐ-TTg phê duyệt chương trình trợ giúp đào tạo nguồn nhân lực
cho các DNNVV giai đoạn 2004-2008, triển khai xây dựng kế hoạch phát

tâm hỗ trợ phát triển DN ngoài quốc doanh của Liên minh các Hợp Tác xã
Việt Nam và nhiều tổ chức khác ở địa phương [2]; [24]; [15].
1.3. KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƯỚC VÀ MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG
TRONG VIỆC HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA
1.3.1. Kinh nghiệm của nước ngoài
+ Kinh nghiệm của Philippine
DNNVV chiếm hơn 99% tổng số DN ở Philippine, thu hút hơn 55% lực
lượng lao động của cả nước và đóng góp khoảng 28,1% tổng sản phẩm xã hội.
Khoảng 60% các công ty xuất khẩu của Philippine là DNNVV. Những con số
trên cho thấy tầm quan trọng của các DNNVV trong nền kinh tế Philippine.
Chính phủ Philippine cũng nhận thức rằng, DNNVV đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển những ngành mới và tạo công ăn việc làm cho
người lao động ở những khu vực ngoại ô. Do đó, hỗ trợ DNNVV trở thành
một chiến lược đối với Philippine trong việc đem lại sự cân bằng cho các
ngành công- nông nghiệp và tạo sự công bằng trong thu nhập.
Cơ cấu hệ thống tài chính hỗ trợ phát triển DNNVV:
Hệ thống tài chính của Philippine được coi là khá tự do và hoạt động của
hệ thống tài chính hầu như hoàn toàn do khu vực tư nhân kiểm soát. Trong
quá trình tư nhân hóa, Philippine cũng đang khuyến khích sự có mặt của các
tổ chức tài chính nước ngoài. Cả hai chính sách tư nhân hóa và tự do hóa đã
góp phần quan trọng trong việc tạo ra nguồn vốn cho DNNVV.
Hệ thống tài chính Philippine được chia thành hai bộ phận: một là hệ
thống các ngân hàng; hai là các tổ chức phi ngân hàng. Hệ thống ngân hàng
được chia thành 4 loại. Căn cứ vào tên gọi của chúng, người ta có thể biết
được mức độ dịch vụ và khả năng cho vay của ngân hàng đó. Đó là các ngân
hàng thương mại, ngân hàng tiết kiệm, ngân hàng nông thôn và ngân hàng
nhà nước. 24
25
các nguồn vốn dư thừa của các tổ chức tài chính nhà nước như hệ thống an
sinh xã hội, hệ thống bảo hiểm và các nguồn viện trợ phát triển chính thức
(ODA). Số vốn này được dành cho các ngành nghề cụ thể thuộc khu vực tư
nhân, chủ yếu là các DNVVN [2]; [14].
Một quyết định khác của Chính phủ đã giúp nâng cao khả năng tiếp cận
của DNNVV đến các nguồn vốn là cho phép thành lập chi nhánh ngân hàng.
Không giống như trong thập kỷ trước, khi mà các ngân hàng bị hạn chế lập
thêm chi nhánh thì ngày nay các ngân hàng thương mại và tiết kiệm có thể
thành lập chi nhánh ở bất cứ nơi nào họ muốn. Chính sách này đã khuyến
khích một số ngân hàng mở chi nhánh ở các vùng nông thôn, nơi có lượng
khách hàng lớn.
Khả năng tiếp cận với các nguồn vốn trở nên dễ dàng hơn, tuy nhiên đã
hình thành sự cạnh tranh do có quá nhiều ngân hàng ở cùng một địa phương.
Các chương trình tài trợ cho DNNVV:
Ở Philippine, nhiều kế hoạch tài chính cho DNNVV đã được đưa ra.
Phòng Thương mại và Công nghiệp Philippine thống kê được 156 chương
trình tín dụng cho DN nhỏ. Những chương trình tín dụng này thuộc các tổ
chức của cả Chính phủ và tư nhân, trong đó có cả các tổ chức phi Chính phủ.
Nhìn chung, các chương trình ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu nhất định
của các DNNVV. Số lượng đông đảo các chương trình như vậy đã chỉ ra mức
độ quan tâm của các tổ chức Chính phủ và tư nhân.
Dịch vụ của các chương trình này gồm cả các dự án cho vay trực tiếp đến
bảo lãnh tín dụng. Có những chương trình dành cho tất cả DNNVV; có những
chương trình chỉ dành cho doanh nghiệp nhỏ hoặc hộ kinh doanh, hoặc tổ hợp
kinh doanh
Khả năng tiếp cận của DNNVV đến các nguồn tài chính:
Hiện nay mức độ sẵn có của các nguồn vốn cho các DNNVV không còn


Nhờ tải bản gốc

Tài liệu, ebook tham khảo khác

Music ♫

Copyright: Tài liệu đại học © DMCA.com Protection Status